Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tập lớn học kì hình sự 1 đề 5 nguyễn tất thắng, (22 tuổi, trú huyện khoái châu, hưng yên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.1 KB, 9 trang )

Bài 5:
Nguyễn Tất Thắng, (22 tuổi, trú huyện Khoái Châu, Hưng Yên) là tài xế xe
tải, có xích mích với phụ lái là Lê Văn Toán (37 tuổi, cùng quê). Ngày
26/10/2011, khi xe đến địa phận Thanh Hóa thì giữa Thắng và Toán xảy ra cãi
nhau gay gắt. Thắng đuổi Toán xuống khỏi xe, Toán đuổi theo và bám vào cửa xe
(phía bên Thắng đang cầm lái). Thắng xô mạnh cửa xe làm Toán ngã xuống
đường, Toán bị xe cán qua người. Chạy thêm chừng 300 m, Thắng bỏ xe, chạy
trốn. Toán bị dập nát hai chân và chết. Tội phạm mà Thắng đã thực hiện được
quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS.

Hỏi:
1. Cấu thành tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 93 là cấu thành tội phạm cơ
bản, tăng nặng hay giảm nhẹ? Tại sao? (1 điểm)
2. Lỗi của Thắng trong trường hợp này là gì? Tại sao? (2 điểm)
3. Phát biểu sau về vụ án đúng hay sai? Hãy giải thích: Nếu Thắng không bỏ
trốn mà đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai báo thì sẽ được coi là tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. (2 điểm)
4. Giả sử Thắng đã phạm tội cố ý gây thương tích, bị phạt 2 năm tù cho hưởng
án treo và thời gian thử thách là 4 năm. Sau khi chấp hành được 3 năm thử
thách, Thắng phạm tội giết người nêu trên và bị phạt 10 năm tù thì vấn đề
TNHS và hình phạt đối với Thắng được giải quyết như thế nào? (2 điểm)


Bài làm:
1. Cấu thành tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 93 là cấu thành tội phạm
cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ? Tại sao? (1 điểm).

Trả lời:
Khoản 2 Điều 93 BLHS quy định:
“ Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm ”.


Cấu thành tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 93 là cấu thành tội phạm cơ bản.
CTTP cơ bản là CTTP chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và
cho phép phân biệt tội này với tội khác.
Ở Điều 93 BLHS đã có sự phân loại tội phạm đối với tội giết người, nhưng nhà
làm Luật thiết kế Điều 93 đặc biệt hơn so với các điều luật khác trong phần tội
phạm, đó là ở khoản 1 điều này lại là CTTP tăng nặng bao gồm: các dấu hiệu
định tội và các dấu hiệu định khung tăng nặng (các tình tiết làm tăng thêm tính
nguy hiểm đáng kể cho xã hội bao gồm 16 tình tiết định khung tăng nặng được
quy định tại điều 48 BLHS). Khoản 2 Điều 93 đã chỉ rõ các trường hợp mà
không thuộc vào trường hợp được quy định tại khoản 1 điều này thì bị tù từ
bảy đến mười lăm năm. Mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản
2 Điều 93 là mười lăm năm thấp hơn so với mức cao nhất của khung hình phạt
quy định tại khoản 1 Điều93 là tử hình theo đó nếu như không có 16 tình tiết
định khung tăng nặng tại các điểm từ a đến q của khoản 1 thì người phạm tội
chỉ bị xử phạt theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Như vậy, khoản 2 điều 93 là CTTP cơ bản.


2. Lỗi của Thắng trong trường hợp này là gì? Tại sao? (2 điểm)

Trả lời:
Lỗi: là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố
ý hoặc vô ý.
Lỗi của Thắng trong trường hợp này là lỗi cố ý và cụ thể là lỗi cố ý gián tiếp.
Vì:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 BLHS :
“ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra ”.

Xét dấu hiệu về mặt lý tri, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội. Trong trường hợp này, khi anh Thắng đuổi anh Toán
xuống đường, anh Toán đã đuổi theo bám vào cửa xe phía anh Thắng đang ngồi
lái, anh Thắng hoàn toàn đủ năng lực để nhận thức được rằng việc mình đẩy cửa
xe ra lúc đó là việc làm nguy hiểm, và cũng có thể đoán trước được hậu quả từ
hành vi của mình, anh Toán ở phía ngoài sẽ bị hoặc có thể bị văng ra đường và
rất có thể gặp nguy hiểm vì lúc đó xe đang chạy. Hơn nữa, anh Thắng cũng
hoàn toàn đủ khả năng dừng xe lại giải quyết với anh Toán mà không để gây ra
hậu quả nguy hiểm như trên.
Xét về dấu hiệu ý chi, người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy
hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã
thấy trước không phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm mục đích khác. Chính vì để thực hiện mục
đích này mà người phạm tội dù không mong muốn hậu quả nguy hiểm mà họ có


thể thấy trước nhưng đã có ý thức để mặc đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội
đó xảy ra. Đối với người có lỗi cố ý gián tiếp thì dù hậu quả có xảy ra hay
không đều không có ý nghĩa gì, không xảy ra cũng được và xảy ra cũng chấp
nhận. Trong trường hợp này, anh Thắng không mong muốn hậu quả là anh Toán
chết xảy ra, mà chỉ là do trong lúc bực tức, còn xích mích với anh Toán nên anh
Thắng mới đẩy cánh cửa xe như vậy, mặc dù biết rằng việc mình làm là nguy
hiểm có thể làm anh Toàn gặp nguy hiểm đến tính mạng nhưng vì quá bực tức
khi vừa mới xảy ra cãi vã gay gắt với anh Toán nên anh Thắng vẫn cứ làm,
không cần biết hậu quả xảy ra sẽ là như thế nào. Anh Toán có ngã, có gặp nguy
hiểm đến tính mạng hay không thì anh Thắng cũng chấp nhận. Có thể nói, hậu
quả anh Toán bị gãy chân, bị xe đè qua người và chết là hậu quả mà anh Thắng
có thể dự đoán được khi anh thực hiện hành vi nguy hiểm của mình, dù để mặc
hậu quả xảy ra nhưng hậu quả đó nằm ngoài mong muốn và mục đích của anh

Thắng.
Từ những phân tích về mặt lí trí và ý chí, ta kết luận hình thức lỗi của
Thắng trong tình huống trên là lỗi cố ý gián tiếp.
3. Phát biểu sau về vụ án đúng hay sai? Hãy giải thích: Nếu Thắng không
bỏ trốn mà đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai báo thì sẽ được coi là
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. (2 điểm)
Trả lời:
Phát biểu trên là sai. Vì:
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tại Điều 19 BLHS:
“ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm
đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã


thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội này ”.
Ngay trong điều luật đã khẳng định, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là
tự mình không thực hiện tội phạm nữa. Với giả thiết trên, Thắng không bỏ trốn
mà đến ngay cơ quan công an gần nhất để đầu thú thì không thỏa mãn điều
kiện không thực hiện tội phạm đến cùng, hơn nữa lúc này, dù Thắng có đi tự thú
thì cũng không làm thay đổi hay ngăn chặn được hậu quả là anh Toán bị nát hai
chân và chết. Cụ thể:
Việc anh Thắng không bỏ trốn mà đi đầu thú như giả thiết, xảy ra khi anh ta đã
thực hiện xong tội phạm của mình. Anh ta đã có hành vi nguy hiểm là xô cánh
cửa để anh Toán bị ngã xuống đường, khi anh Toán bị ngã rồi, anh Thắng không
có hành vi nào để cứu giúp anh Toán, khiến anh Toán bị dập nát hai chân và
chết. Dù hậu quả là anh Toán chết có không đúng với mong muốn hay mục đích
của anh Thắng thì tội phạm cũng đã hoàn thành. Anh Thắng đã có lỗi cố ý gián
tiếp làm chết người. Mà theo quy định của Luật hình sự thì, hành vi tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội phải là hành vi không thực hiện đến cùng tội

phạm, nghĩa là tội phạm mới chỉ ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt
chưa hoàn thành. Bởi lẽ chỉ ở giai đoạn này thì hành vi tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội mới phát huy được tác dụng của nó đó là ngăn chặn được hậu
quả nguy hiểm xảy ra. Thật vậy:
Nếu như tội phạm đang ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì nghĩa là
việc người phạm tội có dừng lại việc thực hiện tội phạm của mình hay không thì
cũng đã thực hiện xong hết những hành vi mà mình mong muốn, do đó không
thể có việc tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm. Tại thời điểm chưa đạt
đã hoàn thành, hậu quả của tội phạm tuy chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra mà không
cần người phạm tội phải có hành vi gì tiếp theo nữa. Như vậy việc chủ thể chỉ
dừng lại không thực hiện tiếp rõ ràng không ngăn chặn được việc hậu quả nguy


hiểm cho xã hội xảy ra. Việc anh Thắng không bỏ trốn mà đến cơ quan công an
để khai báo cũng không thể ngăn lại hay giảm bớt hậu quả đã xảy ra là anh
Toán đã bị chết.
Hoặc với giai đoạn hoàn thành cũng vậy, không thể có tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội ở giai đoạn này vì hành vi phạm tội đã có đầy đủ các
đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm của loại tội phạm cụ thể đã thực hiện. Do
vậy, trong cả hai trường hợp này, không thể xảy ra trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội. Trường hợp này hành vi của anh Thắng không thể coi
là hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được vì tội phạm mà anh
thực hiện đã ở giai đoạn hoàn thành. Do đó, hành vi của Thắng không thể được
coi là hành vi tự nguyện được quy định đối với trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội.
Như vậy, việc anh Thắng không bỏ trốn mà đến khai báo tại cơ quan công an
nơi gần nhất chỉ có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm o
khoản 1: “ người phạm tội tự thu ” khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

4. Giả sử Thắng đã phạm tội cố ý gây thương tích, bị phạt 2 năm tù cho

hưởng án treo và thời gian thử thách là 4 năm. Sau khi chấp hành được 3
năm thử thách, Thắng phạm tội giết người nêu trên và bị phạt 10 năm tù
thì vấn đề TNHS và hình phạt đối với Thắng được giải quyết như thế nào?
(2 điểm).

Trả lời:
Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu
quả pháp li bất lợi về hành vi phạm tội của mình.
Theo điều 2 BLHS thì: “chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định
mới phải chịu TNHS”. Như vậy, để kết luận hành vi đã thực hiện của người nào


đó có phải là tội phạm không và đó là tội gì, hình phạt áp dụng đối với họ ra
sao, trước hết cần phải xác định những hành vi đó đã thỏa mãn những dấu hiệu
của CTTP cụ thể chưa? Ở giả thiết nêu trên: trước khi giết người, Thắng đã
phạm tội cố ý gây thương tích và bị phạt tù 2 năm tù cho hưởng án treo và thời
gian thử thách là 4 năm. Điều kiện thử thách của án treo là nghĩa vụ luật định
mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử thách. Nhưng
trong thời gian thử thách, sau khi chấp hành được 3 năm, Thắng lại phạm tội
giết người nêu trên. Như vậy, Thắng đã vi phạm vào điều kiện thử thách có tính
răn đe nên phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi của mình. Hậu quả pháp lí
bất lợi này được quy định tại khoản 5 điều 60 BLHS:
“Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách,
thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng
hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 51 của Bộ luật này.” Ở
giả thiết trên, Thắng bị phạt tù 2 năm tù cho hưởng án treo và thời gian thử
thách là 4 năm. Sau khi chấp hành được 3 năm thử thách , Thắng lại phạm tội
giết người và bị phạt 10 năm tù. Hình phạt lúc này đặt ra đối với Thắng sẽ là
tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS:
“ Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới,

Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình
phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy
định tại điều 50 của Bộ luật này.” Bản án mới đặt ra cho tội giết người của
Thắng lúc này là 10 năm tù.
Để đi đến quyết định cuối cùng tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm này
thì căn cứ vào mục b khoản 2 điều 50 BLHS: “Nếu các hình phạt đã tuyên là
khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.”
Như vậy,sau khi tổng hợp các hình phạt cuối cùng của nhiều bản án thì hình
phạt đối với Thắng sẽ là 10 năm tù của bản án mới đã tuyên cho tội giết người


và cộng với 2 năm tù của bản án trước đó cho tội cố ý gây thương tích. Tổng
hợp bản án là 12 năm tù đối với Thắng.
Như vậy, vấn đề TNHS tiếp tục được đặt ra với Thắng và bản án dành
cho Tháng là 12 năm tù.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập I – Đại học Luật Hà Nội, NXB
CAND, năm 2007.
2. BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – NXB Chính trị
Quốc gia năm 2000.
3. BLHS năm 1999 và toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi hành án đến năm
2005 , NXB tư pháp 2005.
4. Từ điển pháp luật hình sự - PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê
Thị Sơn, NXB tư pháp 2006.
5. Luận án thạc sỹ học – Đôc Đức Hồng Hà (Trường Đại học Luật Hà Nội)
năm 2006. Tội giết người trong luật hình sự và đấu tranh phòng chống tội
này.




×