Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài tập lớn học kì môn luật hình sự 1 đề 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.65 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
TÌNH HUỐNG..................................................................................................
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.............................................................................
1. B phạm tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999......................
2. A không phải là đồng phạm với B...........................................................................
3. K phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm theo quy định tại
Điều 21 BLHS và Điều 313 BLHS...............................................................................
4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này của B là
tái phạm.................................................................... Error: Reference source not found
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 10

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
BLHS: Bộ luật hình sự.
CTTP: Câu thành tội phạm.
TNHS: Trách nhiệm hình sự.

1


TÌNH HUỐNG
Vào khoảng 19h ngày 26/03/2003 4 tên A, B, C và D ngồi quán uống rượu. Tại
đây, B có rút dao mang theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao,
cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng
hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi A trả lại dao
và cất vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có quen biết, A và C
dừng lại nói chuyện với H, còn B và D đi trước. A rủ H đi uống rượu tiếp nhưng H từ
chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H trở lại. Thấy vậy, A quay sang cãi
nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng bằng ngã ngồi. T và A xô
xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ôm ngăn A, còn C can T. A nhiều lần la lớn chửi T với
nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Nghe tiếng A la chửi, B đi trước quay trở


lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con
dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị
một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao
bỏ đi. H buông tay giữ A ra thì thấy T đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T đi
cấp cứu. Trên đường đi T đã tử vong.
B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B. K
bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. B trốn ra Hải
Phòng đến ngày 09/4/2003 về đầu thú tại Công an huyện D.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 04/3/2003 của Tổ chức giám định
pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu
cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
Hỏi:
1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng nặng
định khung hình phạt nếu có? (3 điểm)
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao? (2 điểm)
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? (1 điểm)
4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2
Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm? (1 điểm)
2


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. B phạm tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999.
Giải thích:
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp
luật. Hành vi giết người này phải là hành vi trái pháp luật bởi, trên thực tế có những
hành vi tước đoạt tính mạng của người khác nhưng không trái với pháp luật như để thi
hành án.
Ta thấy hành vi phạm tội của B hoàn toàn thỏa mãn CTTP của tội giết người, cụ thể:

- Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi
tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, có nghĩa là hành vi có khả năng gây
ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi đó có thể là hành động, tức
là dùng sức mạnh vật chất hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể nạn nhân như
bắn, đâm, chém…hoặc không hành động (chủ thể có nghĩa vụ phải hành động, phải làm
những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác nhưng họ đã
không thực hiện những hành động đó và có khả năng gây ra cái chết của con người).
Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là con người đang sống. Hành vi
tước đoạt tính mạng được coi là hành vi khách quan của tội giết người phải là hành vi
tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Trong trường hợp này, hành vi của B là hành động dùng dao đâm vào bụng và ngực T
nhằm tước đoạt một cách trái phép tính mạng của T.
Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người là hậu quả
chết người. Tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người. Trong
trường hợp này, hậu quả xảy ra là T chết khi được đưa tới bệnh viện cấp cứu.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người: Về nguyên tắc người
phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do chính hành vi
của mình gây ra. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác định hậu quả chết người có quan hệ
nhân quả với hành vi khách quan của người phạm tội.
3


Hành vi là nguyên nhân gây ra chết người phải xảy ra trước hậu quả một thời gian.
- Hành vi khách quan của tội giết người độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với
một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả
chết người. Theo tình huống thì có hai người tác động vào thân thể T đó là A và B.
+ Hành vi của A: “tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng bằng ngã ngồi”, “T và A xô
xát, ẩu đả với nhau”.
+ Hành vi của B:“lấy con dao trong túi quần đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T”
Như vậy, hành vi của cả A và B đều tác động trực tiếp vào cơ thể của T nhưng trong

mối liên hệ tổng hợp thì hành vi của B là hành vi chứa khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả chết người.
+ Hậu quả chết người đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát
sinh hậu quả của hành vi.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 04/3/2003 của Tổ chức giám định
pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu
cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
Như vậy, hành vi của B chứa đựng khả năng thực tế làm cho T chết và trên thực tế,
hành vi đâm T của B chính là nguyên nhân gây ra cái chết của T, vết thương dẫn đến tử
vong cho T chính là do những nhát đâm vào ngực và bụng T của B.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp có nghĩa là
“Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.”( Điều 9 BLHS).
Trong tình huống trên, ta nhận thấy rõ hành vi phạm tội của B xuất phát từ việc thấy A
bị đánh, B nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra với T khi dùng dao đâm
vào T, thậm chí còn đâm nhiều nhát vào bụng và ngực. Đây là những vị trí nguy hiểm
mà khi dùng dao đâm thì có thể gây hậu quả rất nghiêm trọng. B nhận thức được tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó và
cũng mong muốn cho hậu quả phát sinh do B chỉ ngừng đâm khi đâm trúng tay của C
và bị C chửi. B vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội trong khi B có đủ điều kiện để
4


lựa chọn xử sự khác phù hợp hơn với đòi hỏi của xã hội. Hành vi cầm dao bỏ đi của B
chứng tỏ B có ý thức mong muốn hậu quả xảy ra
- Khách thể của tội phạm: là quyền được sống của con người. Quyền được sống là
quyền tự do cơ bản của con người khi sinh ra. Đối tượng tác động của tội giết người là
con người đang sống một cách bình thường. Trong trường hợp này hành vi khách quan
của B đã xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng của T, là khách thể được Luật hình sự
bảo vệ.

- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này là người có đủ năng lực TNHS và đạt từ
14 tuổi trở lên. Tuy nhiên, trong đề bài không đề cập vì vậy ta có thể hiểu là B có đầy
đủ năng lực TNHS.
Vì vậy, từ những phân tích và lập luận như trên ta có thể khẳng định B phạm
tội giết người theo Điều 93 BLHS.
*. B phạm tội giết người với một tình tiết tăng nặng: Có tính chất côn đồ.
Theo công văn số 38/NCPL ngày 6/01/1976 của Toà án nhân dân tối cao và kết
luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm
1995, tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ” được hiểu là hành động của những tên coi
thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay)
dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên
cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người.... Tính chất côn đồ còn là sự thể hiện
tính hung hãn cao độ của chủ thể, coi thường tính mạng của người khác, giết người ở
nơi công cộng, coi thường các quy tắc của cuộc sống xã hội. Trong tình huống này,
hành vi giết người của B được coi là có tính chất côn đồ vì B giết T chỉ vì nghe tiếng A
la lớn: “Chúng mày đánh chết nó cho tao”, nhìn thấy A đứng đối diện T và cho rằng A
bị T đánh. Chuyện A và T xô xát, ẩu đả chỉ là cuộc cãi nhau bình thường, thêm vào đó B
chưa nắm rõ được tình hình, mới chỉ nhìn thấy A và T đứng đối diện nhau mà đã tự cho
rằng A bị T đánh và xông vào đâm T. Điều đó cho thấy sự hung hãn, coi thường tính
mạng người khác trong hành vi phạm tội của B. Hành vi phạm tội của B phù hợp với
tình tiết tăng nặng “giết người có tính chất côn đồ” theo quy định tại Điểm n Khoản 1
BLHS. Khi áp dụng tình tiết tăng nặng này thì khung hình phạt áp dụng cho B đã tăng
5


đáng kể: từ “bảy năm đến mười lăm năm” theo quy định tại Khoản 2 lên thành “mười
hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” theo quy định tại Khoản 1
Điều 93.
Như vậy, ta áp dụng tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ” cho hành vi phạm
tội của B, và B sẽ bị xử lý theo Điểm n, Khoản 1 Điều 93 BLHS.

Tổng hợp lại ta có thể khẳng định B phạm tội giết người theo Điều 93 BLHS
với tình tiết tăng nặng định khung là có tính chất côn đồ.
2. A không phải là đồng phạm với B.
Những dấu hiệu về mặt khách quan:
Dấu hiệu thứ nhất: đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải
có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định. Xét trong tình huống trên ta thấy hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu thứ nhất
về yêu cầu của đồng phạm. Hai người là A và B và cả hai người đều có năng lực về mặt
chủ thể.
Dấu hiệu thứ hai: Cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là người tham gia vào tội phạm
với một trong bốn hành vi sau:
- Hành vi thực hiện tội phạm (người thực hành).
- Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (người tổ chức)
- Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (người xúi giục)
- Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (người giúp sức)
Trong tình huống này có thể nhẫm lẫn A là đồng phạm với B trong vai trò là người xúi
giục. Ta thấy, tính nguy hiểm của người xúi giục thể hiện ở chỗ, hành vi của người xúi
giục luôn luôn được thực hiện bằng phương pháp hành động. Hành vi của người xúi
giục cũng là một dạng chủ động về mặt tinh thần cho việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục không tự mình thực hiện tội phạm mà kích động, thúc đẩy, dụ dỗ người
khác thực hiện tội phạm, thông qua hành vi của người thực hành để thực hiện tội phạm.
- Kích động, được hiểu là bằng lời nói, cử chỉ, hành động, thư từ, thơ văn, nguỵ biên,
thần quyền, giáo lý… để khuyên nhủ, khêu gợi tác động vào tâm lý người khác làm họ
nảy sinh ý định phạm tội. Sự kích động cũng có thể bằng thủ đoạn khác nhau như đánh
6


vào tâm tư, tình cảm, sự ghen tuông, gây mâu thuẫn, bất mãn hoặc các khó khăn trong
đời sống người khác để hướng họ vào thực hiện tội phạm.
- Dụ dỗ, được hiểu là bằng lời nói, cử chỉ, hành động để mua chuộc, hứa hẹn vât chất,

tinh thần để tác động lên tâm lý người phạm tội làm họ nảy sinh ý định phạm tội
- Thúc đẩy, được hiểu là bằng các thủ đoạn khác nhau làm người bị xúi giục nảy sinh ý
định phạm tội và mau chóng thực hiện tội phạm.
Nếu người nào đó có lời cay nghiêt, kích động chung chung làm người khác căng thẳng
ức chế mà có hành vi phạm tội thì không phải người xúi giục.
Để xác định hành vi của người xúi giục cần chú ý:
- Hành vi của người xúi giục phải hướng người bị xúi giục vào thực hiện những hành vi
cụ thể (tội phạm nhất định), sự hô hào chung chung không phải là hành vi xúi giục…
- Hành vi xúi giục phải hướng vào những con người cụ thể.
Ta thấy trong lúc T và A xô xát ẩu đả, A nhiều lần la lớn chửi: “Chúng mày giết nó
cho tao”. Đây chỉ là sự hô hào chung chung, không nhằm đến một chủ thể nhất định. A
chỉ la lớn chửi nhằm đe doạ, uy hiếp tinh thần của T, chứ không nhằm mục đích lôi kéo,
kích động B đâm T. Hơn nữa, nếu cho việc A la lớn chửi là kích động, lôi kéo B phạm
tội thì sự kích động đó phải đánh vào tâm lý của người khác làm họ nảy sinh ý định
phạm tội. Tuy nhiên, trong tình huống này, ý định phạm tội của B chỉ nảy sinh khi B
thấy A và T đứng đối diện nhau và B tự cho rằng A đang bị T đánh, hơn nữa mối quan
hệ giữa A, C, T và H là có quen biết. Hành động la lớn chửi của A hoàn toàn không tác
động vào tâm lý của B nên không thể cho rằng A đã kích động lôi kéo B.
Vì vậy, A không phải là đồng phạm với B.
3. K có phải chịu TNHS, và tội danh của K là tội Che dấu tội phạm theo quy định
tại Điều 21 BLHS và Điều 313 BLHS.
Điều 21 BLHS quy định: “Tội che dấu tội phạm là hành vi của người tuy không
hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che dấu người phạm tội,
các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều
tra, xử lí người phạm tội”.
7


Người có hành vi che dấu chỉ phải chịu TNHS về tội che dấu tội phạm trong những
trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định. Theo quy định tại Điều 313 BLHS về tội che

dấu tội phạm thì người có hành vi che dấu tội phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu che dấu một trong các tội quy định tại điều này. Theo đó, hành vi che dấu tội giết
người (Điều 313 BLHS) có cấu thành tội Che dấu tội phạm.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể thường. Là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
luật định. Ở đây, K đáp ứng các điều kiện về chủ thể của tội phạm.
- Khách thể của tội phạm: Hoạt động bình thường của hoạt động tư pháp. Cụ thể, hành
vi của K gây khó khăn cho việc điều tra vụ án và bắt tội phạm.
- Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi của người này phải là không hứa hẹn trước,
bởi nếu có hứa hẹn trước với người có hành vi giết người là sẽ che dấu...thì sẽ trở thành
đồng phạm với người phạm tội giết người.
Điều luật quy định 3 dạng hành vi khách quan:
- Che dấu người phạm tội
- Che dấu các dấu vết, tang vật của tội phạm
- Có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người phạm tội
Theo tình huống đề bài đưa ra, rõ ràng B và K không có hứa hẹn trước bởi việc B
giết T là hành vi đột xuất và hoàn toàn không có dự định, kế hoạch từ trước,
Khi B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B
thì K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. Như
vậy, K đã có hành vi che giấu người phạm tội theo quy định tại Điều 83 bằng việc cung
cấp tiền, điện thoại cho B để B bỏ trốn.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Hình thức lỗi ở đây là cố ý. K nhận thức được hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy được hành vi che dấu tội phạm của mình là
hành vi trái pháp luật, sẽ gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm
tội nhưng vẫn thực hiện.
Vì vậy, hành vi của K cấu thành tội Che dấu tội phạm theo Điều 21, Điều 313
BLHS.

8



4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này của B là tái
phạm.
Để kết luận trường hợp của B có bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm ta căn
cứ theo quy định tại Điều 49 BLHS:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố
ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”.
Theo như đề bài nêu ta thấy, B chấp hành bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản
theo khoản 2 điều 138, mà ở khoản này mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm
tù. Đối chiếu với khoản 3 điều 8 BLHS thì đây là tội phạm nghiêm trọng. Mà khoản 2
Điều 49 lại quy định chỉ được coi là tái phạm nguy hiểm khi “đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”. Vậy, B không thể thuộc trường
hợp tái phạm nguy hiểm.
Xét theo khoản 1 điều 49 BLHS: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được
xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biết
nghiêm trọng do vô ý”. Người phạm tội đã bị toà án kết án về một tội phạm được quy
định trong luật Hình sự có thể là về một tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc vô ý và hình phạt có thể là
hình phạt tù hoặc hình phạt khác như cải tạo không giam giữ, cảnh cáo… kể cả trường
hợp họ được miễn trách nhiệm hình sự. Tội mà người phạm tội bị đưa ra xét xử phải là
một tội do cố ý hoặc tội do vô ý (đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm
trọng). Như đã nêu ở trên, B chấp hành bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
9



khoản 2 điều 138, mà ở khoản này mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù.
Đối chiếu với khoản 3 điều 8 BLHS thì đây là tội phạm nghiêm trọng. Đây thuộc
trường hợp tái phạm.
Vì vậy, có thể khẳng định trường hợp phạm tội của B là tái phạm.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự tập 2, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội_2007;
2. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội_ 2012;
3. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, giáo trình luật hình sự ( phần các tội phạm), Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội_2007;
4. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội_2000;
5. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội_2009;
6. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam ( bình luận chuyên sâu)
tập 1 – 10, Nxb TP. Hồ Chí Minh;
7. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư
pháp, Hà Nội_2006;

11



×