Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.89 KB, 10 trang )

Bài tập lớn học kỳ

Môn: tố tụng dân sự

ĐỀ BÀI: Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động xét xử là hoạt động có tính chất đặc biệt, hoàn toàn dựa trên hoạt
động tư duy của các thành viên hội đồng xét xử. Để đảm bảo việc xét xử giải quyết
vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật thì khi xét xử thẩm phán, hội thẩm
nhân dân phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều này đã được ghi nhận theo
tinh thần và nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta có
nêu cần phải có sự nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của Toà án trong bộ máy nhà
nước và những nguyên tắc hoạt động cơ bản của Toà án, trong đó có nguyên tắc "
Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối việc giải quyết vụ án dân sự nên
đã được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự. Chính hoạt
động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhằm mục đích
bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật nhưng vì
nhiều lý do mà nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để ở Việt Nam.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở của nguyên tắc
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật khi xét xử là điều kiện cần thiết đảm bảo tính khách quan, công bằng trong
xét xử dân sự và vì vậy nó được quy định trong các điều ước quốc tế cũng như
trong pháp luật của mỗi quốc gia. Ở nước ta nguyên tắc: “Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được ghi nhận từ rất sớm,
trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch Thẩm phán
đó là: Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các vị thẩm phán sẽ chỉ


trong pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào tư pháp.
Mỗi thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền
lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án. Mặt khác Pháp
lệnh số 13 còn quy định “Các hội thẩm nhân dân còn có bổn phận lấy lý chí sáng
suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến, không vì tư thù mà
bênh vực hay làm hại ai”. Sau đó nguyên tắc được được hiến định trong các bản
Hiến pháp: từ điều 69 - Hiến pháp 1946 đến điều 100 - Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến pháp 1980 và hiện nay là điều 130 - Hiến pháp 1992. Qua mỗi lần sửa đổi,
nguyên tắc ngày càng được hoàn thiện và chính xác, khẳng định“Khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này cũng đã được
đưa vào Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 (Điều 5) và trở thành một trong
những nguyên tắc cơ bản ở Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 12). Điều 12 của Bộ luật
tố tụng dân sự quy định tương đối đầy đủ các vấn đề về nội dung của nguyên tắc,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thẩm phán, hội thẩm nhân dân thực hiện được
nhiệm vụ xét xử của mình.
II. Nội dung của nguyên tắc
Trần Thị Chiền-HC33C037

1


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, không dựa vào ai, không
nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”. Nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được hiểu dưới hai khía cạnh là độc
lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong.
Nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
” này được quy định tại Tuyên bố Bắc Kinh 1995 về các nguyên tắc độc lập tư pháp
do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao của 20 nước thông qua trong đó có Việt Nam.
Sự thừa nhận độc lập tư pháp phải bao gồm 3 yếu tố :

- Tòa án phải được trao thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề mang tính chất tư
pháp.
- Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định vụ việc đang yêu cầu giải
quyết có thuộc thẩm quyền xét xử của mình hay không.
- Quyết định cuối cùng của Tòa án không phải chịu bất kì sự xét duyệt của bất
kì cơ quan quyền lực nào.
Phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, nội dung nguyên
tắc quy định tại điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự đã khẳng định: “Khi xét xử vụ án dân
sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được xác
định với những nội dung sau:
a, Đòi hỏi sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử trong việc
nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết luận về sự việc
phạm tội và người thực hiện tội phạm không bị phụ thuộc vào quan điểm của các
thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Cơ sở pháp lý của việc độc lập xét xử giữa
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được ghi nhận thành nguyên tắc của luật tố
tụng, đó là: Việc xét xử các vụ án dân sự có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy
định của Bộ luật này. Khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán
( Điều 11 Bộ luật tố tụng dân sự). Những quy định trên đã loại trừ việc Thẩm phán
lạm quyền, tác động đến hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân. Và vì vậy Hội
thẩm nhân dân tuy là người không chuyên làm công tác xét xử nhưng khi thực
hiện quyền xét xử phải độc lập với Thẩm phán trong mọi khâu của quá trình xét
xử, tránh sự phụ thuộc vào Thẩm phán. Thẩm phán phải là người phát biểu sau
cùng để không ảnh hưởng tới tính độc lập của Hội thẩm. Các vấn đề của vụ án đều
phải được giải quyết bằng cách biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý
kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào hồ
sơ vụ án.
b, Sự độc lập của Hội đồng xét xử với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các
cá nhân. “Cấp trên của quan tòa là luật pháp” (Các Mác) có nghĩa là, khi xét xử,
Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi

bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác
động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ
quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh
hưởng tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên
trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến
Trần Thị Chiền-HC33C037

2


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
của các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng
khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến
bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án.
c, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật
để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi
hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều
cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét
xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến
xét xử tùy tiện.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện
mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Luật nội dung và luật Tố tụng là chuẩn
mực để các thành viên Hội đồng xét xử xem xét đối chiếu với sự việc xảy ra, với
hành vi được mang ra xét xử. Ngoài việc tuân theo pháp luật khi xét xử Thẩm phán
và Hội thẩm không bị phụ thuộc bởi bất kì điều kiện nào.

d, Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử còn được thể hiện giữa
các cấp xét xử. Đó là Tòa án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án
cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể.
Hiện nay, Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và
chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, phải tách bạch từng mối quan hệ. Trong
hoạt động nghiệp vụ, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới là mối
quan hệ tố tụng, chứ không phải là mối quan hệ quản lý hành chính. Tòa án cấp
trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử,
nhưng không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một
vụ án cụ thể.
e, Việc quy định nguyên tắc độc lập trong xét xử không mâu thuẫn với nguyên
tắc quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992 về sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội (vì pháp luật thể
hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thể chế hóa
đường lối của Đảng nên việc tuân thủ pháp luật cũng chính là phục tùng sự lãnh đạo
của Đảng. Mọi sự can thiệp của các cấp ủy Đảng vào việc xét xử từng vụ án cụ thể
của Hội đồng xét xử đều là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án.
Những nội dung trên của nguyên tắc chỉ áp dụng khi Thẩm phán, Hội thẩm
thực hiện chức năng xét xử, ngoài ra khi họ hoạt động với tư cách công chức thì phải
tuân theo các quy định của Luật Cán bộ Công chức, pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính.
Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật không đồng nghĩa với sự tùy tiện,
chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đồng thời cũng không mâu thuẫn
với việc trao đổi bàn bạc với đồng nghiệp hoặc Tòa án cấp trên để lựa chọn phương
3
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ

Môn: tố tụng dân sự
án tối ưu khi giải quyết các vụ án (hiện nay theo quy chế của mỗi tòa án thông
thường đều quy định những vụ việc phải được đưa ra bàn án trước khi xét xử. Sau
khi trao đổi, bàn bạc, lắng nghe ý kiến của người khác Thẩm phán tự mình phải
phân tích, tổng hợp, đánh giá khách quan, toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án
để đề ra các quyết định xử lý một cách độc lập, trên cơ sở quy định của pháp luật cả
về nội dung và hình thức).
Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” với những nội dung được nhận thức thống nhất như đã trình bày ở trên là phù
hợp với thông lệ quốc tế và là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi
xét xử.
III. Ý nghĩa của nguyên tắc
1.Về mặt chính trị xã hội
Nguyên tắc đã xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống các
cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tiến tụng nói riêng. Chỉ có Tòa
án mới có quyền xét xử và khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Không một cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt
động xét xử của Tòa án. Nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án phải
đúng người đúng tội qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân tham gia giám sát
các hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử.
2.Về mặt pháp lý
Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để thẩm phán và hội thẩm tiến hành hoạt động
xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo cho Hiến
pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành
pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách khác, pháp
luật chỉ có ý nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc“độc lập xét xử” được tuân thủ
một cách triệt để.
3.Về mặt thực tiễn
Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật đảm bảoviệc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không cần thiết thậm chí tiêu cực của các
cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm và đảm
bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử.
IV. Các điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc
Để bảo đảm nguyên tắc thẩm phán nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự , theo em cần tiếp tục thực hiện một loạt biện pháp, từ tổ
chức, cán bộ đến cơ sở vật chất kỹ thuật, từ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
đến xây dựng và hoàn thiện các thể chế về xét xử, dưới đây em xin nêu một số vấn
đề:
1. Cách thức tổ chức hệ thống tòa án
Ở nước ta hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp hành chính (lãnh thổ) theo
đó có tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân tối
Trần Thị Chiền-HC33C037

4


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
cao. Với cách thức tổ chức hệ thống tòa án theo tiêu chí lãnh thổ thì bên cạnh những
ưu điểm như: hoạt động xét xử của tòa án bám sát nhiệm vụ chính trị, xã hội của địa
phương, … còn bộc lộ những hạn chế không đảm bảo được tính độc lập của Thẩm
phán và hội thẩm khi xét xử. Những hạn chế này có nguyên nhân từ việc Tòa án ở
những mức độ khác nhau phải chịu sự chi phối của chính quyền địa phương về tài
chính, nhân sự, đến định hướng xét xử … Chính sự ràng buộc này đã tác động đến
tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử và là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến bản án thiếu tính khách quan, làm oan người vô tội. Khắc phục
những hạn chế này, Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010 của
Bộ chính trị đã khẳng định: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không

phụ thuộc vào đơn vị hành chính”. Theo đó hình thành hệ thống tòa án gồm : Tòa án
sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án thượng thẩm và tòa án tối cao thay cho
hệ thống tòa án ba cấp: huyện, tỉnh và Tòa án tối cao như hiện nay. Đây là một định
hướng đúng vì với mô hình toà án như vậy, mối quan hệ giữa toà án cấp trên và toà
án cấp dưới lúc này sẽ theo hướng chủ yếu là quan hệ tố tụng, tránh được các hiện
tượng lâu nay vần còn tồn tại như thỉnh thị án, duyệt án, bàn án làm cho toà án cấp
dưới hay thẩm phán bị động, giảm tính độc lập của thẩm phán và Hội thẩm. Bởi lẽ
thực tiễn xét xử của một số nước Tòa án nước ta còn một số tiền lệ trái với nội dung
nguyên tắc này, điển hình là tiền lệ “ bàn án”. “ Bàn án ” hay “ báo cáo án” là việc
thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ án báo cáo kết quả chuẩn bị xét xử sơ thẩm
và dự kiến phương hướng giải quyết vụ án trước lãnh đạo để lãnh đao tòa án đóng
góp ý kiến về đường lối giải quyết vụ án hay còn gọi là “ chỉ đạo án”. Vì vậy, cần bỏ
“bàn án” và chuẩn bị “dự thảo bản án” với tư cách là một chế độ làm việc. Điều đó
tạo ra sự khách quan, công bằng trong xét xử. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết
vụ án khi gặp khó khăn về chuyên môn các thẩm phán hoàn toàn có thể học hỏi trao
đổi kinh nghiệm với các thẩm phán khác kể cả lãnh đạo tòa án nhưng nếu coi đó là
một chế dộ làm việc thì vi phạm nguyên tắc độc lập khi xét xử.
2. Cách thức quản lý Tòa án
Cách thức quản lý tòa án cũng là một trong những điều kiện đảm bảo cho
nguyên tắc được thực hiện một cách tốt nhất. Cách thức quản lý tòa án được xem
xét dưới hai khía cạnh: quản lý hành chính và quản lý chuyên môn nghiệp vụ. Về
quản lý chuyên môn nghiệp vụ được giao cho Tòa án tối cao và tùy thuộc vào từng
hệ thống tòa án của mỗi quốc gia mà tòa án cấp trên sẽ có trách nhiệm hướng dẫn về
chuyên môn trong hệ thống tòa án. Đây được xem như là thông lệ quốc tế mà hầu
hết các quốc gia đều tuân theo bởi tính hợp lý của nó.
Ở nước ta một thời gian dài đã giao việc quản lý tổ chức hành chính Tòa án
địa phương cho Bộ Tư pháp nhưng gần đây Tòa án tối cao lại được giao quản lý
toàn diện đối với Tòa án các địa phương. Trong quá trình cải cách tư pháp cần có sự
đánh giá tác động của quy định này nhất là ảnh hưởng của nó đối với nguyên tắc
độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Nghị quyết 49 đã chỉ rõ cẩn phải

“phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn của tư
pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp”. Định hướng này là cơ sở để xác định thẩm
quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp của Tòa án theo hướng Tòa án tối cao chỉ
Trần Thị Chiền-HC33C037

5


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
quản lý tòa án cấp dưới đối với hoạt động thuộc thẩm quyền xét xử, còn quản lý tổ
chức, hành chính Tòa án sẽ do Bộ tư pháp đảm nhiệm.
3. Ngân sách cho tòa án và hoạt động xét xử
Nguồn tài chính được bố trí chưa đủ đảm bảo để Tòa án thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, chưa có sự
ưu tiên về tài chính cho hoạt động của Tòa án. Khắc phục hạn chế này, Nghị quyết
49 khẳng định: “Nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp
với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”. Việc đảm bảo cơ sở
vật chất cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là điều kiện
để Thẩm phán, Hội thẩm được độc lập trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh
đó Nghị quyết cũng chỉ ra: “ Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho
các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách do Quốc hội phân bổ và giao
cho cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng có sự giám sát, kiểm tra của cơ
quan tư pháp Trung ương”. Với định hướng này, điều kiện kinh phí sẽ góp phần đảm
bảo cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa
án.
4. Về hệ thống pháp luật
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
chỉ có thể được đảm bảo khi có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với
đời sống kinh tế - xã hội làm nền tảng cho các phán quyết của Tòa án. Thông thường

pháp luật luôn chậm trễ so với sư vận động của xã hội nên muốn đảm bảo cho Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử đúng pháp luật thì hệ thống pháp luật cần phải không ngừng
được hoàn thiện rút ngắn khoảng cách của sự chậm trễ, tránh sự mâu thuẫn chồng
chéo và đặc biệt không để có những quy phạm làm cản trở đối với sự phát triển của
xã hội.
Nhận xét về hệ thống pháp luật nước ta những năm vừa qua, Nghị quyết 49
nêu rõ: “nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ thiếu thống nhất,
tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn
nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện”. Trên cơ sở này Nghị
quyết cũng đề ra mục tiêu: “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”. Do đó cần xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi
hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp
luật.
5, Vai trò của các tổ chức, cá nhân
Cần tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội
đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng
hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung
cấp thông tin về hoạt động xét xử. xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức, bổ trợ
tư pháp vững mạnh. Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư
pháp như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch... tuy không trực tiếp quyết định
các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư
Trần Thị Chiền-HC33C037

6


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự

pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư
pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét
xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không đúng pháp luật. Vì vậy,
trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp luật về luật sư, công chứng,
giám định, hộ tịch theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản và thuận tiện cho
người dân.
6. Các yếu tố cá nhân của Thẩm phán và Hội thẩm
– Nhiệm kì của Thẩm phán:
Nhiệm kì của Thẩm phán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự độc
lập của cá nhân Thẩm phán. Nhiệm kỳ năm năm đối với Thẩm phán các cấp hiện
nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh
nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, cần kéo dài nhiệm kỳ của
Thẩm phán. Nếu Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời hoặc với nhiệm kì dài thì tính
độc lập của họ sẽ được bảo đảm hơn. Nếu Thẩm phán trong suốt thời gian công tác
của mình luôn phải đối mặt với việc tái nhiệm hoặc bầu lại thì họ thường chịu nhiều
ảnh hưởng từ phía các cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm đối với họ nhiều hơn. Quá
trình cải cách tư pháp cũng cần có những nghiên cứu để thay đổi thời hạn cũng như
cách thức bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng kéo dài hoặc bổ nhiệm Thẩm phán suốt
đời. Mặt khác, để thực hiện bổ nhiệm Thẩm phán có chất lượng, phải thực hiện
thường xuyên quy trình luân chuyển cán bộ, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên
nên là Thẩm phán cấp dưới trong một thời hạn nhất định, nguồn bổ nhiệm Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án cấp trên nên chú trọng lấy từ các Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án cấp dưới đã làm tốt công tác quản lý, xét xử.
– Tiền lương và chế độ đãi ngộ:
Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa
án. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm
việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối
với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ
phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Do đó việc trả lương cho thẩm phán
và các chức danh khác của tòa án nên lấy từ ngân sách riêng, không nên phụ thuộc

vào ngân sách địa phương. Việc khen thưởng thẩm phán, tăng lương, tăng ngạch
nên thực hiện một cách độc lập, không theo phương pháp quản lý đặc trưng của hệ
thống hành chính. Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về độc lập tư pháp quy
định phải đảm bảo mức lương thỏa đáng cho Thẩm phán để họ có thể đưa ra một
phán quyết công tâm, không thiên vị, không tư lợi. Thẩm phán phải được đảm bảo
có mức lương thỏa đáng, không chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu mà phải có mức
sống khá trong xã hội.. . Mặt khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh
đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành công vụ.
– Cơ chế đảm bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của Thẩm phán
và thành viên gia đình họ:
Thẩm phán là một trong những nghề “nguy hiểm”, do tính chất của hoạt động
xét xử mà Thẩm phán có thể bị tước bỏ tính mạng, bị thương hoặc bị xâm phạm đến
Trần Thị Chiền-HC33C037

7


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
danh dự, uy tín, nhân phẩm bởi những người có liên quan đến vụ án. Vì vậy đa
phần các quốc gia đều thiết lập một cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có thể yên tâm
đưa ra các phán quyết công tâm. Điều 40 Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc
lập tư pháp năm 1995 đã chỉ ra: “Các cơ quan hành pháp có thẩm quyền phải luôn
đảm bảo an ninh và an toàn thân thể cho Thẩm phán và gia đình họ”. Ở Việt Nam
cũng cần sớm hình thành cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có thể thực thi tốt nhiệm
vụ xét xử của mình.
– Trình độ, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán, Hội thẩm.
Các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào
tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và

thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật
quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ
lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng,
tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc
hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán
sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán,
các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức
pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.
Nghị quyết 49 đã chỉ ra việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực phẩm chất cho đội
ngũ Thẩm phán, Hội thẩm cần theo hướng “cập nhật các kiến thức mới về chính trị,
pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tế, có phẩm chất,
đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý”. Định hướng này sẽ làm cơ sở
cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử nói chung và bảo đảm nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật . Do
đó việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay đó là đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo kĩ năng nghề nghiệp đối với Thẩm phán,
Hội thẩm.
+) Về đổi mới cơ chế tuyển chọn thẩm phán, cần mở rộng nguồn để tuyển
chọn. Để có được những thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn thẩm phán
không chỉ từ đội ngũ cán bộ toà án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác
như điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề
thẩm phán nhưng chưa làm thẩm phán. Để được làm thẩm phán, các ứng viên cần
trải qua một kỳ thi quốc gia nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa
họ cho chức danh này. Vì vậy, cần nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển
thẩm phán ở từng cấp toà án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia.
+) Nâng cao năng lực của Hội thẩm: Cải cách tư pháp sẽ không đi theo
hướng "chuyên môn hoá", "thẩm phán hoá" Hội thẩm mà trái lại, tiếp tục duy trì
và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người có đủ khả năng, kiến
thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết để tham gia xét xử. Họ cần được bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ rất cơ bản để có thể tham gia có hiệu quả vào

hoat động xét xử.
Trần Thị Chiền-HC33C037

8


Bài tập lớn học kỳ

Môn: tố tụng dân sự

C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Nhà nước giao trọng trách đảm bảo
công lý. Thẩm phán có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nên rất cần những vị “quan tòa” dũng cảm cao, công bằng, tôn trọng sự thật khách
quan. “Tính khách quan tột bậc, sự lịch thiệp, sự tế nhị cao trong xử sự cá nhân và
những điều kiện khác làm hình thành nên cơ sở đạo đức trong hoạt động của Thẩm
phán”. Do đó có thể nói nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự đã khẳng định trong hoạt động xét xử,
thẩm phán không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các
nhận định đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không
được can thiệp vào các hoạt động xét xử của tòa án. Điều đó đã góp phần nâng cao
trách nhiệm của các thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt
là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án,
không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết
luận của Viện Kiểm sát đưa ra. Chính vì vậy mà việc làm cần thiết trong chiến lược
cải cách tư pháp hiện nay đó là phải đảm bảo tốt các điều kiện thực hiện nguyên tắc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam. Trường đại học luật Hà Nội.
Nhà xuất bản tư pháp. Hà Nội- 2005

2. Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020
4. Phiên tòa sơ thẩm dân sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Bùi Thị Huyền-Luận án tiến sỹ luật học.
Trường đại học luật Hà Nội. Hà Nội – 2008
5. Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong Luật tố tụng dân sự, Nguyễn Hữu Hiến. Khóa luận tốt nghiệp
Trường đại học Luật Hà Nội. Hà Nội- 1997
6. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự. Hà Minh Phương- Khoá luận tốt nghiệp. Hà Nội-1997

Trần Thị Chiền-HC33C037

9


Bài tập lớn học kỳ
Môn: tố tụng dân sự
7. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự : Luận văn thạc sĩ Luật học / Từ Thị Hải Dương; Người hướng
dẫn: TS. Hoàng Thị Minh Sơn . - H., 2009
8. />9.
10. />ItemID=4

Trần Thị Chiền-HC33C037

10




×