Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích những điểm bất cập trong quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.88 KB, 17 trang )

BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II

MỤC LỤC
Trang
I. LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………2
II. NỘI DUNG……………………………………………………………...2
1.KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI…………………………………2
2. NHỮNG ĐIỂM BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI…………………………………………………...7
a. Về hình thức khuyến mại…………………………………………………………...7
b. Quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại……..11
c. Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại……………………………………….12
3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHUYẾN MẠI…………...12

III. KẾT LUẬN…………………………………………………………...15

1


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
TM2. HK -1. Phân tích những điểm bất cập trong quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định đó.

Bài làm
I. LỜI MỞ ĐẦU
Luật thương mại quy định khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương
nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách
hàng những lợi ích nhất định. Và việc thực hiện khuyến mại trong thực tế đã bộc lộ nhiều
những điểm bất cập. Vậy ta có dưới đây là“ Những điểm bất cập trong quy định của pháp
luật về hoạt động khuyến mại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định đó”


II. NỘI DUNG
1.KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
Khuyến mại là cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho
khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất( được cung
ứng dịch vụ miễn phí). Và theo khoản 1 Điều 88 luật thương mại thì “Khuyến mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Nội dung cơ bản về hình thức khuyến mại, quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt
động khuyến mại, các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại, thủ tục thực hiện khuyến
mại được quy định từ điều 88 đến điều 101, Luật thương mại năm 2005, từ điều 4 đến điều
20 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04/4/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt
động xúc tiến thương mại.
Điều 92. Các hình thức khuyến mại

2


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
“ 1. Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả
tiền.
2. Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền.
3. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ
trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo. Trường hợp
hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này
được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
4. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để
khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định.
5. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao
thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
6. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may

rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng
thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
7. Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho
khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực
hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hoá, dịch vụ
hoặc các hình thức khác.
8. Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và
các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.
9. Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại
chấp thuận.”

3


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
Các quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc khuyến mại:
1. Trung thực, công khai, minh bạch: Chương trình khuyến mại phải được thực hiện
hợp pháp, trung thực, công khai, minh bạch và không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng, của các thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác.
2. Không phân biệt đối xử: Không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham gia
chương trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại.
3. Hỗ trợ khách hàng: Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải bảo đảm
những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải
quyết rõ ràng, nhanh chóng các khiếu nại liên quan đến chương trình khuyến mại (nếu có).
4. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ: Thương nhân thực hiện khuyến mại có trách nhiệm
bảo đảm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng dùng
để khuyến mại.
5. Không lạm dụng lòng tin: Không được lợi dụng lòng tin và sự thiếu hiểu biết, thiếu
kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại nhằm phục vụ cho mục đích riêng của
bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân nào.

6. Cạnh tranh lành mạnh: Việc thực hiện khuyến mại không được tạo ra sự so sánh trực
tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch và của thương nhân, tổ chức hoặc cá
nhân khác nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
7. Không khuyến mại thuốc chữa bệnh: Không dược dùng thuốc chữa bệnh cho người,
kế cả các loại thuốc đã được phép lưu thông để khuyến mại.
Và khi áp dụng các hoạt động khuyến mại trong thực tiễn, đã có nhiều vấn đề nảy sinh.
Để tránh việc khách hàng bị thiệt hại về quyền lợi khi tham gia các chương trình khuyến

4


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
mại, các nhà soạn luật đã có những chỉnh lý thích hợp để đảm bảo nguyên tắc khi thực hiện
khuyến mại.
Về thời hạn giảm giá: Nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20%
hay 30%, nhưng bảng đó được yết quanh năm, với mức giá là một con số tuyệt đối không
thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá giảm và hành vi này được coi là
lừa dối khách hàng. Bởi vậy, để tránh việc lừa dối khách hàng bằng giảm giả ảo, Nghị định
37 ngày 4/4/2006 của Việt Nam quy định: Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại
bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90
(5ang mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45
(bốn mười lăm) ngày. Như vậy, các doanh nghiệp vẫn có thể quanh năm thực hiện giảm giá,
nhưng là sự giảm giá luân phiên từng nhóm mặt hàng mà mình kinh doanh vẫn không vi
phạm quy định. Hình thức giảm giá luân phiên thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có
số mặt hàng kinh doanh lớn như các siêu thị; đối với các doanh nghiệp chuyên doanh áp
dụng ở mức hạn chế hơn.
Về mức giảm giá. Để tránh việc doanh nghiệp lợi dụng hình thức khuyến mại này để
bán phá giá hàng hóa, dịch vụ, pháp luật quy định: Mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá,
dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước
thời gian khuyến mại. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc

hết thời trang, muốn thực hiện “đại hạ giá” ở mức 60 - 80%. Do giá bán khuyến mại chỉ so
sánh với giá “ngay trước thời gian khuyến mại” nên để thực hiện được điều này, doanh
nghiệp phải chia làm nhiều chặng thời gian giảm giá (mỗi chặng có thể ngắn, hết chặng đầu
có thể nâng lên cao hơn một chút và sau đó lại giảm mạnh ở chặng thứ hai) mà vẫn không
trái với quy định. Giá trị của hàng hoá khuyến mại và hàng hoá dùng để khuyến mại. Hàng
hoá dùng để khuyến mại là “Hàng hoá, dịch vụ được thương nhân dùng để tặng, thưởng,
cung ứng không thu tiền cho khách hàng”, tức là hàng tặng kèm khách hàng khi mua hàng.
Theo quy định, giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được
5


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
khuyến mại không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại
đó trước thời gian khuyến mại, trừ các trường hợp giải thưởng trúng thưởng của các chương
trình mang tính may rủi.
Về xử lý giải thưởng không có người trúng: Có những doanh nghiệp khi thực hiện các
chương trình may rủi chưa trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số
nắp chai có in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng
trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ cào trúng
thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt… Do dó, có những chương trình khuyến
mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp
“câu” người tiêu dùng mua nhiều hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi
phí giải thưởng cho khách hàng. Nhằm tránh những chương trình như vậy, pháp luật quy
định: giải thưởng không có người trúng thưởng của chương trình khuyến mại mang tính may
rủi phải được trích nộp 50% giá trị đã công bố vào ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp hạch
toán khoản nộp 50% giá trị giải thưởng không có người trúng thưởng của chương trình
khuyến mại vào chi phí giá thành của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hình thức cụ thể của
khuyến mại mang tính may rủi khá đa dạng. Do đó, một doanh nghiệp thực hiện chương
trình một cách trung thực và minh bạch vẫn có thể xảy ra việc không có người trúng giải
(giải cao hoặc thấp) và phải thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách.

Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại. Ngoài những quy định có tính tổng
quát như cấm khuyến mại hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hoặc chưa được phép lưu
thông, cung ứng; hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con
người; còn những quy định cấm khác:
1. Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi.
2. Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại
dưới mọi hình thức.
6


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
3. Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng
4. Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
5. Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
6. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
7. Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá
hạn mức tối đa 50% hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa 50%.
2. NHỮNG ĐIỂM BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG KHUYẾN MẠI
a. Về hình thức khuyến mại
Từ thực tiễn hoạt động khuyến mại, việc áp dụng các hình thức khuyến mại đã nảy sinh
nhiều những bất cập thể hiện tính hạn chế của một số điều luật của pháp luật về hoạt động
khuyến mại hiện hành.
Thứ nhất, nếu thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ mà mình được kinh doanh hợp
pháp để phát tặng không thu tiền của khách hàng, không kèm theo hành vi mua bán thì khi
nào là hình thức hàng mẫu, khi nào là hình thức tặng quà
Ta có rất khó phân biệt giữa hình thức hàng mẫu và hình thức tặng quà. Ví dụ như đối
với việc công ty Cocacola tổ chức thực hiện việc phát tặng, uống tại chỗ số lượng lớn chai

cocacola tại nhiều các địa điểm và gần đây nhất là tại trường đại học Luật Hà Nội. Vậy đây
là hình thức hàng mẫu hay hình thức tặng quà? Đối với tình huống này, rất khó để phân biệt.
Và đối với hàng mẫu và tặng quà thì nó lại có hai chế độ pháp lý khác nhau, nếu là hàng mẫu
7


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
thì thương nhân sẽ không phải thực hiện bất cứ quy định nào về hạn mức khuyến mại, nếu là
tặng quà thì phải thực hiện quy định tại khoản 2 điều 5 Nghị định số 37/2006/NĐ – CP ngày
04/4/2006 về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa dùng để khuyến mại( tổng giá trị của hàng hóa,
dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50%
tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại).
Về vấn đề này ta biết, mục đích của thương nhân khi đưa hàng mẫu cho khách hàng là
muốn giới thiệu với họ về hàng hóa, dịch vụ của mình, định hướng hành vi mua bán của họ
sau khi kiểm nghiệm chất lượng của hàng mẫu. Còn về mục đích của hình thức tặng quà là
dùng giá trị của quà tặng để thu hút khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ của thương nhân bởi
cùng với loại hàng hóa có chất lượng tương đương thì khách hàng sẽ có tâm lý muốn mua
hàng hóa đang được khuyến mại, khách hàng vì quà tặng mà mua hàng.
Chính vì thế mà pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo việc mua bán hàng
hóa, sử dụng dịch vụ. Còn lại thì các trường hợp đưa hàng hóa cho khách hàng không thu
tiền sẽ được coi là hình thức hàng mẫu. Tuy nhiên, sự phân biệt này sẽ không còn là cần thiết
nếu như quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại được xóa
bỏ trong pháp luật hiện hành. Và việc xác định rõ bản chất của hình thức tặng quà còn cho
phép việc phân biệt nó với các hình thức xúc tiến thương mại khác.
Thứ hai, về các hình thức khuyến mại, mặc dù có bổ sung thêm mục đích xúc tiến việc
mua hàng, nhưng quy định về các cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập trung vào hoạt động
xúc tiến việc bán hàng
Trong số các cách thức khuyến mại được quy định tại Điều 92 Luật Thương mại năm
2005, chỉ có thể áp dụng hình thức tặng quà, hình thức tổ chức chương trình khách hàng
thường xuyên và tổ chức các sự kiện quy định tại khoản 2 và khoản 7, 8 cho hoạt động

khuyến mại để mua hàng. Trên thực tế, nếu như việc giảm giá để tiêu thụ hàng hóa có thể
làm nảy sinh hiện tượng bán phá giá thì việc nâng giá để thu mua, gom hàng hóa cũng có thể
8


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
làm xuất hiện những nguy cơ đáng kể cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong cùng
lĩnh vực hoạt động.
Thứ ba, quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại gặp
khá nhiều vướng mắc khi thi hành.
Đối với các chương trình khuyến mại của thương nhân kinh doanh dịch vụ thì việc xác
định hạn mức giá trị dùng để khuyến mại rất khó thực hiện. Nếu thương nhân tặng dịch vụ
cho khách hàng không thu tiền thì hạn mức tổng giá trị dịch vụ dùng để khuyến mại không
được vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ được khuyến mại. Cả hai mức “ tổng giá trị” này chỉ
có thể xác định sau khi thời gian khuyến mại kết thúc. Nếu xác định vi phạm và xử lý vi
phạm khi chưa hết thời gian khuyến mại sẽ không tránh khỏi sự bất đồng giữa cơ quan quản
lý và thương nhân, do mọi số liệu có thể chỉ là ước tính.
Và còn có trường hợp thương nhân thực hiện nhiều hình thức khuyến mại trong một
chương trình khuyến mại và việc xác định hạn mức giá trị dùng để khuyến mại cũng không
đơn giản do còn thiếu cơ sở pháp lý để tính toán cụ thể. Ví dụ như việc thực hiện chương
trình “Những số 6 may mắn” của Viettelmobile được thực hiện từ 26/03/2006 đến
26/05/2006 với nội dung các thuê bao được tham gia rút thăm trúng thưởng 6 xe Innova,
tặng ngay 60% cước hòa mạng và miễn phí 6 tháng cước thuê bao cho khách hàng trả sau,
tặng 60% giá trị bộ hòa mạng và 25% mệnh giá thẻ của 6 thẻ nạp tiền tiếp theo cho khách
hàng trả trước, tặng 25% giá trị thẻ nạp tiền đầu tiên cho khách hàng trả trước khóa 2 chiều
trước ngày 26/03/2006. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xem xét chương
trình khuyến mại này có nội dung nào vi phạm hay không sẽ gặp khá nhiều vướng mắc như:
- Rất khó xác định được tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại, làm cơ sở
xác định tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại có vượt quá 50% tổng giá trị của
hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại hay không, bởi mỗi hình thức khuyến mại trong chương

trình lại có đối tượng khách hàng khác nhau: việc rút thăm trúng thưởng dành cho tất cả các
9


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
thuê bao đã hòa mạng từ trước đến nay, việc giảm giá, tặng quà lại chỉ dành cho các thuê bao
hòa mạng trong thời gian khuyến mại.
- Việc xác định hạn mức giá trị vật chất tối đa dùng để khuyến mại sẽ xác định trên cơ
sở tổng hợp cả ba hình thức hay xác định riêng cho từng hình thức. Pháp luật hiện hành
không có quy định cụ thể về vấn đề này.
- Chỉ có thể tính chính xác giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại sau khi kết
thúc đợt khuyến mại trên cơ sở xác định được số thuê bao hòa mạng mới, số thẻ được bán ra,
thời gian cụ thể không thu cước thuê bao mà khách hàng sử dụng trên thực tế.
- Đối với việc tặng 60% cước hòa mạng và 60% giá trị bộ hòa mạng mà Viettel thông
báo, sẽ có những ý kiến khác nhau về việc xác định đây là hình thức khuyến mại: là tặng quà
hay giảm giá. Nếu đây là hình thức giảm giá thì nó sẽ phải thực hiện thêm quy định hạn mức
giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ không được vượt quá
50% đơn giá của hàng hóa, dịch vụ trước thời gian khuyến mại, nếu vậy thì mức giảm giá
trong trương hợp này đã vượt quá hạn mức mà pháp luật hiện hành cho phép, không những
thế với thời gian giảm giá tối đa cho một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ là 90 ngày/năm;
mỗi đợt giảm giá không được quá 45 ngày mà đợt khuyến mại của Viettel là diễn ra trong 60
ngày vậy nếu thực hiện theo đúng như quy định của pháp luật thì sẽ rất phức tạp nếu như từ
ngày thứ 46 Viettel không giảm giá phí hòa mạng cho khách hàng và các lợi ích khác vẫn
giữ nguyên.
Và đối với việc quy định về hạn mức giá trị và thời gian khuyến mại, ở pháp luật cạnh
tranh, luật cạnh tranh chỉ cấm doanh nghiệp độc quyền, doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi “ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh” còn trong Luật thương mại thì quy định tất
cả hành vi giảm giá phải dưới 50% giá hàng hóa, dịch vụ và mọi hành vi giảm giá vi phạm
các quy định về hạn mức này của mọi doanh nghiệp đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật

10


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
về xúc tiến thương mại. Vậy đây chính là sự khác biệt không cần thiết giữa Luật thương mại
và Luật cạnh tranh.
Từ các phân tích trên ta thấy quy định về hạn mức giá trị vật chất dùng để khuyến mại
và thời gian khuyến mại không những có thể gây khó khăn trong việc thực hiện chống cạnh
tranh không lành mạnh mà còn có thể gây cản trở cho việc thực hiện quyền tự do hoạt động
xúc tiến thương mại và quyền tự do cạnh tranh của thương nhân.
b. Quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại
Với mục đích để cho hoạt động khuyến mại diễn ra lành mạnh, an toàn, tôn trọng lợi
ích của người tiêu dùng và các thương nhân khác, pháp luật đã quy định cho thương nhân
khuyến mại các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Thương nhân có các quyền như: quyền lựa chọn
hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại; quy định những lợi ích cụ thể mà khách hàng
được hưởng…. cùng với đó, thương nhân còn phải thực hiện các nghĩa vụ: nghĩa vụ thực
hiện đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục pháp lý cần thiết để thực hiện các hình thức
khuyến mại; nghĩa vụ thông báo công khai các nội dung thông tin về hoạt động khuyến mại
cho khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế, tình trạng thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ lại
diễn ra khá phổ biến. Và việc quy định quyền và nghĩa vụ của thương nhân có đủ sức làm
lành mạnh hóa các hoạt động khuyến mại? có tránh được gian lận thương mại?
Khi mà đối với một số quy định về pháp luật vẫn còn những thiếu sót như:
Thứ nhất, quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại
theo khoản 4 điều 96 Luật thương mại đã gây phản ứng trong giới thương nhân, nhiều
thương nhân cho rằng nó không bảo đảm được quyền lợi của thương nhân hoạt động khuyến
mại. Về lý thuyết cũng như thực tế thì số hàng hóa khuyến mại là sẽ tương ứng với lượng
hàng hóa cần tiêu thụ, và khi doanh số bán hàng không đạt dự kiến mà thương nhân lại mất
chi phí dành cho khuyến mại thì rõ ràng lợi ích kinh doanh của họ đã không còn được đảm
bảo. Ngoài ra, nhiều rắc rối khác cũng nảy sinh như hàng hóa khuyến mại là hiện vật nhưng
11



BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
nộp vào ngân sách nhà nước lại tính ra giá trị; giá mua vào, giá bán lại hiện vật đó sẽ khác
nhau, chưa kể chi phí cần thiết cho việc mua, việc bán đó.
Thứ hai, quy định pháp luật về trách nhiệm của thương nhân khuyến mại chưa thật sự
đầy đủ để bảo đảm lợi ích của khách hàng. Trong thực tế, khách hàng là người phải chịu
thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại, do các sai sót kỹ thuật trong in ấn tem, phiếu,
vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất mà khách hàng được hưởng trong đợt
khuyến mại.
Thứ ba, để đảm bảo sự trung thực của thương nhân về giải thưởng trong các chương
trình khuyến mại mang tính may rủi, pháp luật quy định “thương nhân có nghĩa vụ thực hiện
đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng” là chưa đủ.
c. Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại
Pháp luật chưa quy định các điều kiện cần đáp ứng để thương nhân được sự xác nhận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quyền của thương nhân khi bị từ chối xác nhận việc
đăng kí thực hiện chương trình khuyến mại. Với thiếu sót này có thể biến thủ tục “đăng kí”
thành thủ tục “xin phép” và dẫn đến tình trạng tùy tiện, thiếu cơ sở của cơ quan công quyền
khi thực hiện quyền hạn của mình và có khả năng làm cho quyền tự do hoạt động khuyến
mại của thương nhân khó được thực hiện một cách đầy đủ.
3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHUYẾN MẠI
a. Sớm nghiên cứu, xem xét việc hủy bỏ quy định nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải
thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng
thưởng.
Khoản 4 Điều 96 Luật thương mại 2005 quy định: Đối với hình thức khuyến mại bán
hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc
tham gia chương trình gắn liền với việc mua bán hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa
12



BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố, thương nhân phải
trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có
người trúng thưởng.
Ta thấy là đối với quy định này thì có thể thấy được các nhà làm luật đã nghĩ đến một
vấn đề đó là muốn cho những tình huống gian lận trong khuyến mại không xảy ra với việc
buộc thương nhân phải nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước
trong trường hợp không có người trúng thưởng, đây theo như suy nghĩ của nhà làm luật thì
chính là một giải pháp cho việc hạn chế tình trạng gian dối, thiếu trung thực của thương nhân
về cơ cấu, số lượng giải thưởng và sự phân phối giải thưởng đến khách hàng. Tuy nhiên
không phải khi nào thì trong trường hợp khuyến mại cũng có sự gian dối, cũng có những khi
mà hoạt động khuyến mại là hoàn toàn trung thực, và khi đó do sự trúng thưởng của khách
hàng là do yếu tố may rủi vậy nên việc còn lại giải thưởng sau khi thời gian khuyến mại hay
chưa hết thời gian khuyến mại mà toàn bộ giải thưởng đã có khách hàng trúng thưởng cũng
là điều tất yếu, và ta biết là trên lý thuyết cũng như từ thực tế thì khi mà phải nộp lại 50% giá
trị giải thưởng cho công quỹ nhà nước thì lúc đó sẽ thiệt về cho thương nhân khi mà số hàng
hóa khuyến mại thường là sẽ tương ứng với số hàng cần bán ra, vậy nên như thế thì khi
thương nhân vừa không tiêu thụ được số hàng như dự kiến lại còn phải nộp cho nhà nước
một số tiền, vậy nên tất cả những thiệt hại lúc đó sẽ thuộc về thương nhân và nhiều rắc rối
khác cũng sẽ nảy sinh. Vậy nên trong quá trình thực thi pháp luật thì cơ quan quản lý nhà
nước về thương mại cần có biện pháp để phát hiện tình trạng gian lận về giải thưởng cũng
như việc đề xuất mức xử lý vi phạm tích đáng đối với người đã vi phạm. Và trên cơ sở việc
phân tích về những hạn chế cũng như lợi ích của việc quy định nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải
thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng
thì ta thấy nó không phải là giải pháp phù hợp và hiệu quả, có nên chăng nên xem xét để bãi
bỏ nó.

13



BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
b. Sớm nghiên cứu việc hủy bỏ các quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa,
dịch vụ dùng để khuyến mại, hạn mức về thời gian thực hiện khuyến mại.
Các quy định về hạn mức tối đa giá trị dùng để khuyến mại có thật sự cần thiết khi mà
ngay cả trong luật cạnh tranh hiện hành cũng chỉ phòng ngừa nguy cơ bán phá giá để cạnh
trranh đối với thương nhân hoặc nhóm thương nhân có vị trí thống lĩnh thị trường, thương
nhân độc quyền. Đối với khuyến mại thì mọi hành vi vi phạm các quy định về hạn mức tối
đa giá trị dùng để khuyến mại của mọi doanh nghiệp đều là hành vi vi phạm pháp luật về xúc
tiến thương mại. Khi mà kiểm soát về việc thực hiện quy định này, việc xác định đúng giá
bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trước thời gian khuyến mại để xác định mức giảm giá có
vượt quá quy định của pháp luật hay không là rất khó. Hơn nữa, ttrong việc thực thi pháp
luật về xúc tiến thương mại, vấn đề kiểm tra, xử lý việc tuân thủ quy định trên cũng không
đơn giản do pháp luật không quy định cụ thể nguyên tắc, tiêu chí xác định hạn mức giá trị tối
đa dùng để khuyến mại, đặc biệt là đối với chương trình khuyến mại của thương nhân kinh
doanh dịch vụ và các chương trình khuyến mại có kết hợp nhiều hình thức khuyến mại. Vậy
tức là, tính khả thi của quy định này không cao và tạo ra những phức tạp không cần thiết. Và
khi mà việc khuyến mại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và không gây nguy hại hay đe
dọa gây nguy hại cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào thì Nhà nước cũng không cần phải quy
định những khuôn khổ thực hiện quá chật hẹp. Các quy định ngăn cấm không cần thiết sẽ là
yếu tố cản trở tự do thương mại, không thúc đẩy, khuyến khích cạnh tranh. Vậy, ta thấy rằng,
các quy định về hạn mức tối đa giá trị dùng để khuyến mại và thời gian thực hiện khuyến
mại là không cần thiết và nên bãi bỏ. Để ngăn ngừa hành vi cạnh tranhh không lành mạnh thì
cũng chỉ cần thực hiện theo quy định của luật cạnh tranh là đủ, việc hủy bỏ quy định này vừa
có ý nghĩa trong việc ghi nhận đầy đủ quyền tự do hoạt động xúc tiến thương mại vừa góp
phần tạo ra sự thống nhất giữa luật thương mại và luật cạnh tranh tron việc điều chỉnh với
các hoạt động xúc tiến thương mại.

14



BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
c. Để bảo đảm tính trung thực về giải thưởng và chọn người trúng thưởng trong
các chương trình khuyến mại mang tính may rủi, cần bổ sung quy định về trách nhiệm
cá nhân của thương nhân hoặc người đại diện hợp pháp của thương nhân và trách
nhiệm cá nhân của người được giao tổ chức chương trình khuyến mại
Pháp luật hiện hành đã quy định nghĩa vụ trung thực của thương nhân trong hoạt động
khuyến mại, tuy nhiên thì tình trạng thiếu khách quan hay gian lận trong việc chọn người
trúng thưởng vẫn cứ xảy ra. Bên cạnh việc quy định nghĩa vụ trung thực thì pháp luật còn
quy định việc bốc thăm, trao giải phải thực hiện với sự có mặt của đại diện cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Những quy định này nếu có được thực hiện tốt thì cũng chỉ có tác dụng bảo
đảm tính khách quan khi chọn người trúng thưởng. Còn đối với việc kiểm soát cơ cấu, số
lượng giải thưởng mà thương nhân đã đăng kí và công bố thì pháp luật và cơ quan thực thi
pháp luật vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu. Với thực tế trên thì ngoài việc quy định các
nghĩa vụ của thương nhân, pháp luật cần bổ sung quy định buộc thương nhân hoặc người đại
diện hợp pháp của thương nhân, người được giao trách nhiệm tổ chức chương trình khuyến
mại phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự về những hành vi gian lận, lừa
dối khách hàng trong chương trình khuyến mại. Mặc dù biện pháp này vẫn chưa phải là biện
pháp triệt để nhưng khi đã quy trách nhiệm về cá nhân và việc chịu trách nhiệm trước pháp
luật là của cá nhân thì nguyên tắc trung thực trong hoạt động khuyến mại sẽ được thực hiện
tốt hơn.

III. KẾT LUẬN
Theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị trường Nielsen tại báo cáo thường niên “Xu
hướng tiêu dùng”, trong đó tìm hiểu về hoạt động mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam
tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ, thực hiện
tháng 10-11 năm 2010 trên cơ sở phỏng vấn 1.500 người độ tuổi từ 18 tới 65, những người
thường mua sắm và ra quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy:
87% người Việt Nam sẵn 15ang mua hàng khuyến mại, trong khi tỷ lệ bình quân khu vực chỉ
15



BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
là 68%; 56% người tiêu dùng Việt Nam hay tìm các sản phẩm khuyến mại khi đang đi mua
sắm, so với mức 38% của khu vực. Hoạt động khuyến mại tại Việt Nam khá là phổ biến
cũng như khá là nhộn nhịp, những dịp cuối năm, đầu năm… các doanh nghiệp đổ xô khuyến
mại, tuy nhiên đó cũng là đánh vào tâm lý người tiêu dùng, thích dùng hàng có khuyến mại.
Tuy nhiên các quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại đã bộc lộ nhiều điểm bất cập
theo các phân tích trên. Và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định đó nê được thực hiện
trong thời gian tới, giúp cho hoạt động khuyến mại của thị trường Việt Nam ngày càng lành
mạnh, tránh được gian lận, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, cua những thương nhân khác
cũng như lợi ích của những thương nhân hoạt động khuyến mại, tránh cho việc thiên về bảo
vệ lợi ích cho một bên nào. Đồng thời bảo đảm được quyền tự do kinh doanh, đảm bảo yếu
tố cạnh tranh lành mạnh trong thương mại, khiến cho nền kinh tế phát triển bởi không có
cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ không thể phát triển.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại, Trường đại học Luật Hà Nội, nxb.CAND, năm 2006
2. Luật thương mại 2005
16


BÀI TẬP HỌC KÌ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI II
3. Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tiến
sĩ Nguyễn Thị Dung, nxb.Chính trị quốc gia, năm 2007.
4. />
17




×