Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.13 KB, 1 trang )
Cá nhân 1 Tư pháp Quốc tế – “Xung đột pháp luật là hiện tượng xảy ra phổ biến trong các quan hệ pháp luật có yếu tố
nước ngoài”.
3 Votes
Đề bài: Nội dung dưới đây đúng hay sai? Tại sao? “Xung đột pháp luật là hiện tượng xảy ra phổ biến trong các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài”.
BÀI LÀM
Khẳng định: Nội dung là đúng.
Giải thích:
Tư pháp quốc tế là ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…) giữa công dân và pháp
nhân của các quốc gia với nhau. Khi tham gia vào tư pháp quốc tế, luật pháp của các quốc gia khác nhau thường có cách hiểu không giống nhau về cùng một vấn đề. Xung
đột pháp luật là hiện tượng hệ thống pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể tham gia để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng nhưng lại có cách
hiểu, cách quy định không giống nhau và cơ quan có thẩm quyền lựa chọn luật phải chọn một trong các hệ thống pháp luật đó. Nguyên nhân của sự xung đột pháp luật thì có
nhiều nhưng chủ yếu là do không có quy phạm pháp luật thực chất thống nhất hoặc là do nội dung pháp luật của các quốc gia khác nhau.
“Yếu tố nước ngoài” trong các quan hệ pháp luật không đơn giản chỉ là sự khác biệt về quan niệm luật pháp nước này với nước kia, mà bao hàm cả sự khác biệt về quốc tịch,
nơi xảy ra hành vi, nơi có tài sản, nơi giải quyết xung đột, …Vì thế, tư pháp quốc tế như một “vùng đệm”, hay “sự giao thoa” giữa luật quốc tế và luật quốc gia để giải quyết các
xung đột pháp luật trong các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài.
Thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện
giao lưu và hợp tác quốc tế, một số quan hệ thừa kế vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc gia, đó là những quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Một ví dụ cụ thể là: năm 1975, anh N.V.A sang sống cùng gia đình tại Pháp và sau đó nhập quốc tịch Pháp. Với sự mở cửa, anh N.V.A về Việt Nam cư trú từ năm 1995. Do tai
nạn, anh N.V.A qua đời tại Việt Nam năm 2001 và để lại di sản bao gồm: Một ngôi nhà ở ngoại ô Pháp (di sản A); một căn hộ cùng một số động sản tại Hà Nội (di sản B); một
số động sản quý tại một ngân hàng Thụy Sĩ (di sản C) và một số động sản gửi chị gái đang làm ăn tại Đức (di sản D). Do không tự thỏa thuận được với nhau, con anh N.V.A,
quốc tịch Pháp và em trai anh N.V.A quốc tịch Việt Nam yêu cầu Tòa án đứng ra giải quyết vấn đề thừa kế. Áp dụng giải pháp bằng cách giải thích pháp luật, chúng ta dẫn đến
kết quả sau: Vấn đề thừa kế nêu trên được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể là di sản A được điều chỉnh bợi pháp luật Pháp, di sản C được điều chỉnh bởi pháp
luật Thụy Sĩ, di sản D được điều chỉnh bởi pháp luật Đức và di sản B được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam.