Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BT học kỳ công pháp quốc tế tác động của luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật việt nam trong lĩnh vực bảo vệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.01 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................ 1
1. Một số khái niệm cơ bản...........................................................................................1
1.1. Quyền của phụ nữ là gì?....................................................................................1
1.2. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ...........................................1
2. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ................................2
3. Tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ........................................................................2
3.1. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ trước khi có sự tác động của
Luật quốc tế (trước năm 1982 – thời điểm Việt Nam phê chuẩn Công ước CEDAW)
..................................................................................................................................... 2
3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ sau khi kí kết các Công ước
quốc tế (sau thời điểm Việt Nam phê chuẩn Công ước CEDAW)...............................3
4. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
và một số phương hướng hoàn thiện...........................................................................7
KẾT LUẬN.......................................................................................................................7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................8

0


LỜI NÓI ĐẦU
Trong một thời gian dài của lịch sử, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, không
phải lúc nào người phụ nữ cũng được hưởng một cuộc sống tươi đẹp, xứng đáng với
những hy sinh, vất vả mà họ phải gánh chịu, họ thường bị phân biệt đối xử, bị ngược đãi
mà không nhận được sự quan tâm, bảo vệ thích đáng của xã hội. Vì vậy, vấn đề bảo vệ
quyền của phụ nữ, tạo điều kiện cho họ phát triển tốt nhất khả năng của mình trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là vấn đề mang tính toàn cầu, thu hút sự quan tâm của
cả cộng đồng quốc tế hiện nay.


Từ sau Cách mạnh tháng Tám năm 1945, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ lợi ích của phụ nữ là vấn đề luôn được Đảng và Nhà
nước Việt Nam quan tâm, thể hiện trong các chính sách pháp luật mang tính nhất quán.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước còn thông qua nhiều chủ trương, chính sách để tiến hành
“nội luật hóa” các quy định của Luật quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ một cách mạnh
mẽ và thu được nhiều thành tựu nhất định. Vậy những chủ trương, chính sách đó là gì và
nó có những điểm phù hợp, tiến bộ như thế nào? Bài viết sau đây xin được phân tích và
làm rõ “Tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của hệ
thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền của phụ nữ”.

NỘI DUNG
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Quyền của phụ nữ là gì?
Quyền của phụ nữ đã được các quốc gia và cộng đồng quốc tế công nhận thông
qua các văn kiện pháp lý quốc tế. Tuy nhiên việc định nghĩa quyền phụ nữ lại không hề
đơn giản bởi nó được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau. Trong đó, nổi bật là việc
tiếp cận quyền phụ nữ với tư cách là một bộ phận cấu thành nên quyền con người.
Xuất phát từ bản chất và nội dung, quyền phụ nữ có thể được định nghĩa như sau:
Quyền của phụ nữ bao gồm tất cả những gì cần có để phụ nữ được sống, hoạt động và
phát triển một cách tích cực và bình đẳng.
1.2. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ
Xét một cách khái quát có thể đưa ra khái niệm của pháp luật về bảo vệ quyền phụ
nữ như sau: “Pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội, có tính đến sự ưu tiên dành cho nữ giới và được Nhà nước đảm bảo thực hiện”.
Pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ ghi nhận các quyền con người của
phụ nữ mà còn quy định các biện pháp đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện và các
1



biện pháp bảo vệ các quyền đó. Bởi trên thực tế, do ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo,
định kiến xã hội và sinh lý nên quyền của phụ nữ thường hay bị xâm phạm và người phụ
nữ thường phải chịu sự phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực.

2. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ
Vào đầu thế kỉ XX, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước
có ý nghĩa bảo vệ người phụ nữ. Tuy nhiên, những công ước này chỉ giới hạn trên lĩnh
vực lao động, việc làm và trợ cấp xã hội chứ chưa đề cập đến khái niệm cụ thể là “quyền”
của phụ nữ. Vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ chỉ nhận được mối quan tâm đặc biệt và
có những chuyển biến mạnh mẽ kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập. Trong lời nói
đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã xác định mục tiêu của tổ chức này là: “…khẳng
định lòng tin tưởng ở những quyền cơ bản của con người ở phẩm giá và giá trị của con
người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ…”.
Để thực hiện mục tiêu này, Liên hợp quốc đã tiền hành thành lập Ủy ban về địa vị
phụ nữ trực thuộc Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên Hợp Quốc vào năm 1946.
Năm 1949, Liên hợp quốc đã ban hành Công ước về trấn áp việc buôn người và
bóc lột mại dâm người khác.
Năm 1952, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước về các quyền chính
trị của phụ nữ.
Năm 1957, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua công ước thứ ba, đó là Công
ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn.
Năm 1962, Điều ước quốc tế thứ tư nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ được
ban hành, đó là Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối thiểu khi kết hôn và kết hôn tự
nguyện.
Năm 1967, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua tuyên ngôn về xóa bỏ tất cả
các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
Năm 1972, Công ước CEDAW về xóa bỏ tất cả những hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ được soạn thảo và có hiệu lực từ ngày 03/09/1981. Hiện nay, có 186 quốc gia
trên thế giới tham gia Công ước. CEDAW đã và đang trở thành một khuôn khổ pháp lý

quốc tế thống nhất hành động giữa các quốc gia trong việc thừa nhận, bảo đảm thực hiện
và phát triển quyền bình đẳng của phụ nữ trong thế giới hiện tại.

3. Tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định
của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ
3.1. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ trước khi có sự tác động của
Luật quốc tế (trước năm 1982 – thời điểm Việt Nam phê chuẩn Công ước CEDAW)
2


Dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ Việt Nam bị trói buộc trong môi trường xã
hội chịu nhiều ảnh hưởng của triết lý Nho giáo “tam tòng tứ đức”, “an phận thủ thường”,
họ phải chịu sự thiệt thòi, bất công. Chính vì vậy, giải phóng phụ nữ, tạo mọi điều kiện để
người phụ nữ phát huy tài năng, sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước đã được
Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu và gắn nó với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp. Điều này được thể hiện rõ trong Luận cương chính trị năm 1930 của Tổng
Bí thư Trần Phú: “…giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ, ba
nhiệm vụ đó được tiến hành cùng lúc và hỗ trợ cho nhau trong cuộc đấu tranh chung”.
Chính quan điểm đó là nền tảng vững chắc giải phóng năng lực cho phụ nữ, qua đó giúp
phụ nữ ngày càng củng cố được vị thế của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được mở rộng và cụ thể hóa hơn trong Hiến
pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam. Với việc đưa nguyên tắc nam nữ
bình quyền vào Hiến pháp: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”
(Điều 9) đã đánh dấu một bước ngoặt về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên,
trong thời gian này, pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát
triển mà mới chỉ trong giai đoạn sơ khai.
3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ sau khi kí kết các Công ước
quốc tế (sau thời điểm Việt Nam phê chuẩn Công ước CEDAW)
Việt Nam có những bưới tiến bộ rất lớn khi tham gia nhiều công ước quốc tế quan
trọng liên quan đến quyền của phụ nữ, trong đó phải kể đến việc Việt Nam đã phê chuẩn

Công ước CEDAW loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1981; Công
ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1982. Trong lĩnh vực lao động, Việt Nam đã phê
chuẩn nhiều công ước quan trọng đảm bảo quyền của người lao động, trong đó có quyền
của phụ nữ như: Công ước số 45 năm 1935 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về làm
việc dưới mặt đất của phụ nữ; Công ước số 100 năm 1951 của ILO về bình đẳng trong trả
công lao động; Công ước số 111 năm 1958 của ILO về phân biệt đối xử về việc làm, nghề
nghiệp… Việc tham gia các công ước này, Nhà nước Việt Nam thừa nhận giá trị cao quý
về các quyền và tự do cơ bản của phụ nữ, từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật
trong công cuộc đổi mới.
Để thực hiện các công ước quốc tế trên, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản
pháp luật để “nội luật hóa” quy định của các công ước. Có thể nói rằng, việc “nội luật
hóa” các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền phụ nữ đã được Đảng, Nhà nước và các
ngành chức năng hết sức quan tâm. Cho đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống văn bản
pháp luật khá đầy đủ điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. Vấn đề này được thể
hiện rõ trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật lao động năm 1994; Luật hôn nhân gia
3


đình năm 2000; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003; Luật đất đai năm
2003; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh phòng chống tệ nạn mại
dâm năm 2003; Pháp lệnh Dân số năm 2003; Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Bình đẳng
giới năm 2006; Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật Quốc tịch năm
2008… Có thể điểm qua những quy định đáng chú ý như:
3.2.1. Trong lĩnh vực chính trị
Quyền chính trị của phụ nữ là một trong những quyền quan trọng, nhạy cảm được
đề cập khá toàn diện, sâu sắc trong CEDAW. Theo Công ước "các quốc gia thành viên
của công ước cam kết đảm bảo quyền bình đắng giữa nam và nữ đối với tất cả các quyền
kinh tế, xã hội... mà Công ước này đề ra'' (Điều 3). Tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Công dân nữ và nam ngang quyền nhau về mọi mặt chính trị, văn hóa, xã hội và

gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ… Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không
ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội…”. Bên cạnh đó, tại Điều 54 Hiến pháp
1992 quy định: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Như vậy, những quy định của Hiến
pháp đã góp phần tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội tham gia bình đẳng vào mọi hoạt
động của xã hội, góp phần phát huy vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Những quy
định của Hiến pháp cho thấy Nhà nước Việt Nam luôn quyết tâm để đưa các nguyên tắc
cơ bản được ghi nhận trong Công ước CEDAW vào văn bản pháp luật tối cao của đất
nước.
Ngoài ra, để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, quyền chính trị của phụ nữ
còn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành như: quyền bầu cử, ứng cử vào
các cơ quan quyền lực nhà nước được quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm
1997 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm
2003; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội được quy định trong Luật tổ chức
Chính phủ, Luật tổ chức tòa án nhân dân, Pháp lệnh cán bộ công chức…
3.2.2. Trong lĩnh vực dân sự
Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra những quy tắc bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ
trên các phương diện: không phân biệt giới tính trong việc công nhận và bảo vệ quyền
nhân thân; không phân biệt giới tính trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ pháp luật dân sự; phụ nữ bình đẳng với nam giới trong việc xác lập và thực hiện
quyền sở hữu về tài sản.
3.2.3. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định tinh thần bình đẳng giới qua
4


những quy định “nội luật hóa” những nội dung được quy định tại khoản 2 Điều 4, Điều

5a, khoản 1 Điều 9, Điều 12 và đặc biệt là Điều 16 của Công ước CEDAW. Các nội dung
này được quy định trên cơ sở tính đến sự khác biệt đặc thù về giới tính giữa nam và nữ
nhằm xóa bỏ những định kiến truyền thống của xã hội về vai trò của nam giới và nữ giới,
xác lập những khuôn mẫu ứng xử trên cơ sở bình đẳng giới. Quyền bình đẳng giới theo
quy định của pháp Luật hôn nhân gia đình 2000 được thể hiện qua các góc độ: bình đẳng
trong việc kết hôn của nam và nữ; bình đẳng trong quan hệ vợ chồng; bình đẳng giữa cha
và mẹ trong việc thực hiện quyền cha mẹ đối với con.
- Điều 1 Công ước 1957 về quốc tịch của người phụ nữ lấy chồng quy định: “Mỗi
nước kí kết thỏa thuận rằng không vì việc kết hôn, li hôn giữa công dân và người nước
ngoài, không vì việc thau đổi quốc tịch của người chồng trong thời gian hôn nhân mà có
thể đương nhiên có hiệu lực với quốc tịch của người vợ...". Để phù hợp với tinh thần của
Công ước, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: "Việc vợ hoặc chồng nhập hoặc
mất quốc tịch Việt Nam không làm thay đổi quốc tịch của người kia".
- Luật Đất đai năm 2003 thể hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam không có sự
phân biệt theo giới. Nam, nữ bình đẳng trước pháp luật về đất đai. Điều 195, 106 Luật Đất
đai năm 2003 quy định hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất có các quyền chung của
người sử dụng đất. “Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng thì
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng” (Khoản 3
Điều 48 Luật Đất đai 2003).
- Pháp lệnh Dân số năm 2003 quy định: “Nghiêm cấm hành vi lựa chọn giới tính
thai nhi dưới mọi hình thức”.
- Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2008 góp phần củng cố, xây dựng gia
đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc và tiến bộ; chú trọng các biện pháp phòng ngừa bạo lực
gia đình, xử lý nghiêm minh các hành vi bạo lực gia đình và có các biện pháp bảo vệ nạn
nhân, nhất là phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi…
3.2.4. Trong lĩnh vực lao động
- Công ước quốc tế số 111 của ILO về chống phân biệt đối xử trong việc làm và
nghề nghiệp năm 1960 ghi nhận nguyên tắc: “Mọi người không phân biệt chủng tộc, màu
da, giới tính, tôn giáo… đều có cơ may về đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, trên cơ
sở không có sự ưu đãi hay biệt đãi vì bất kì lí do gì”. Pháp luật Việt Nam cũng tiếp cận

vấn đề bảo vệ quyền lợi của lao động nữ với quan niệm tương tự, khoản 1 Điều 111 Bộ
luật lao động quy đinh: “…Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng
nam nữ về quyền sử dụng lao động”
Sự cụ thể hóa và vận dụng linh hoạt các quy định của các Công ước quốc tế về bảo
vệ quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh sau: bảo
vệ quyền làm việc và học nghề của lao động nữ; quyền lợi của lao động nữ trong việc ký
5


kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng lao động; bảo vệ quyền lợi của lao động nữ trong trả
lương; đảm bảo các điều kiện lao động thuận lợi cho lao động nữ.
3.2.5. Trong lĩnh vực hình sự
Luật hình sự Việt Nam bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ ở hai phương
diện: với tư cách là nạn nhân của tội phạm và với tư cách là người phạm tội.
Luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng có những điều khoản bảo về quyền lợi cho
phụ nữ trong các quy định về: việc tạm giam đối với phụ nữ; việc tiến hành khám xét đối
với phụ nữ; việc xử phạt và thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ; việc thi hành hình
phạt tù đối với phụ nữ
3.2.6. Một số văn bản khác
- Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được Quốc hội thông qua năm
2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các Công ước quốc tế liên quan đến bảo
vệ quyền của phụ nữ. Theo quy định tại Điều 6, việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật phải đảm bảo không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế và khi có các
quy định trái với điều ước quốc tế thì các quy định của điều ước quốc tế được ưu tiên áp
dụng.
- Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng
và Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, đồng
thời “nội luật hóa” tinh thần của Công ước CEDAW về loại trừ mọi hình thức phân biệt
đối với phụ nữ vào từng điều khoản của Luật. Đây là văn bản pháp luật toàn diện nhằm
đảm bảo sự bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực. Cả ba nguyên tắc cơ bản của Công ước

CEDAW là bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia đã được ghi nhận
tại Điều 6 Luật Bình đẳng giới.
Với hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện phù hợp với đặc điểm, tình hình
của đất nước, nhận thức xã hội về bảo vệ quyền của phụ nữ ngày càng được nâng cao.
Theo “Báo cáo phân tích tình hình giới ở Việt Nam” năm 2006 của Ngân hàng Thế giới,
Ngân hàng phát triển châu Á, Vụ phát triển quốc tế Anh và Cơ quan phát triển quốc tế
Canada thì: “Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia
các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới… là
quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới trong hai
mươi năm qua ở khu vực Đông Á”

4. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt
Nam hiện nay và một số phương hướng hoàn thiện
Sau gần 30 năm thực hiện và áp dụng các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của
phụ nữ, địa vị của phụ nữ Việt Nam trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã được cải
6


thiện và nâng cao. Quyền bình đẳng thực chất của phụ nữ ngày càng được bảo đảm hơn.
Việt Nam đã từng bước khắc phục tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ từ trong gia đình
đến ngoài xã hội. Là một trong những nước đứng đầu khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (chiếm 25,76% nhiệm kỳ 2007 – 2011, tăng 4% so
với nhiệm kỳ 1981 – 1987), tỷ lệ biết đọc, biết viết của phụ nữ tăng từ 82,,3% năm 1993
lên 90,5% năm 2008. Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực
hiện mục tiêu thiên niên kỷ với 5/8 mục tiêu cơ bản hoàn thành trước thời hạn, trong đó
có mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao địa vị cho phụ nữ. Báo cáo Phát triển con
người năm 2010 của Liên hợp quốc đã đánh giá Việt Nam có chí số bất bình đẳng giới
đứng thứ 58/138 quốc gia, ở vị trí tốt hơn so với các nước như Thái Lan, Philipppin.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam cũng gặp không ít khó
khăn, thách thức trong quá trình triển khai CEDAW và thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền

của phụ nữ trong chính sách, pháp luật và việc thực thi trên thực tế còn khoảng cách khá
xa, nhiều vấn đề còn tồn tại, cần được khắc phục. Các quyền của phụ nữ đã được đưa vào
luật từ rất lâu, nhưng nhiều phụ nữ hoàn toàn không được hưởng lợi từ các quy định này,
pháp luật vẫn chưa đi vào cuộc sống của đại đa số người dân.
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện các cam kết quốc tế mà Vệt Nam đã kí
kết về bảo vệ quyền của phụ nữ cần tiến hành đồng bộ các giải pháp như: hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ; hoàn thiện và phát triển mô hình thiết chế từ
trung ương đến địa phương, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các thiết chế quốc gia trong
việc triển khai thực hiện; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền
của phụ nữ cho mọi tầng lớp nhân dân; tăng cường hợp tác quốc tế và gia nhập các điều
ước quốc tế có liên quan đến bảo vệ quyền của phụ nữ…

KẾT LUẬN
Trong những năm qua, với sự áp dụng linh hoạt các Công ước quốc tế có liên quan
đến bảo về quyền của phụ nữ, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này đã đạt được những thành tựu đáng kể, chiếm một vị trí quan trọng trong lĩnh
vực lập pháp của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường tuy mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội
mới, song cũng mang lại cho chúng ta nhiều thách thức mới đối với vấn đề bình đẳng giới
nói chung và bảo vệ quyền phụ nữ nói riêng. Do đó, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của phụ nữ là nhu cầu khách quan và cần có sự quan tâm hơn nữa của cả cộng đồng.

7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách và tạp chí
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
2. Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân & Ths. Chu Mạnh Hùng (Đồng Chủ biên), Giáo trình
luật quốc tế, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010.
3. Đỗ Thị Khánh Huyền, “Việt Nam và cơ chế thực hiện công ước quốc tế về xóa bỏ

mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)”, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội,
2011.
4. Mai Thị Diệu Thúy, “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một
số lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay”, Luận án thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2007.
5. TS. Lê Mai Anh, “Tổng quan các vấn đề pháp lí cơ bản của Công ước quốc tế về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)”, Tạp chí luật học, số
3/2006.
6. TS. Lê Hồng Bắc, “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong pháp luật quốc tế và pjap
luật VIệt Nam”, Tạp chí luật học, số đặc san 3/2004.
7. ThS. Nguyễn Thị Phương, “Hiến pháp Việt Nam với việc thực hiện quyền bình
đẳng nam nữ theo Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW)”, Tạp chí luật học, số 3/2006.
8. TS. Đỗ Ngân Bình, “Bảo vệ quyền lợi của lao động nữ theo Công ước quốc tế về
xóa bo mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và pháp luật lao động Việt Nam”,
Tạp chí luật học, số 3/2006.
9. TS. Dương Tuyết Miên, “Pháp luật hình sự Việt Nam với việc bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ”, Taph chí luật học, số 3/2006.

Văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế
10. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
11. Bộ luật lao động năm 1994.
12. Bộ luật hình sự năm 1999.
13. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
14. Luật bình đẳng giới năm 2006
15. Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2008.
16. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948.
17. Công ước về cấc quyền chính trị của phụ nữ năm 1952.
18. Công ước số 100 năm 1951 của ILO về bình đẳng trong trả công lao động
19. Công ước số 111 năm 1958 của ILO về phân biệt đối xử về việc làm, nghề nghiệp.
20. Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)

năm 1979.
8


Website
21.
22.
23.
24.
25.

9



×