Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

So sánh quy định giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn theo pháp luật việt nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà việt nam ký kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.37 KB, 9 trang )

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một lĩnh vực phát sinh nhiều vấn đề pháp lý trong tư
pháp quốc tế. Các nước trên thế giới hiện nay có quan niệm và những quy định giải pháp
khác nhau về vấn đề kết hôn, điều này dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật. Tìm hiểu về
vấn đề này nhóm em chọn đề tài: “ So sánh quy định giải quyết xung đột pháp luật về
điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà
Việt Nam ký kết”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Khái quát chung về vấn đề điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài và xung đột pháp
luật về điều kiện kết hôn trong tư pháp quốc tế.
1. Một số khái niệm
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn ( khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000).
Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình thuộc một
trong các trường hợp sau: giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước
ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật của nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài ( theo khoản 14 Điều 8 Luật HN&GĐ)
Điều kiện kết hôn có thể hiểu là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn giữa
hai bên nam nữ.
Xung đột pháp luật là một tình huống pháp lý hoặc một quan hệ pháp lý phát sinh có
thể chịu sự điều chỉnh của hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Cùng với sự tăng
cường và mở rộng các quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước. Số lượng các cuộc kết
hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề điều kiện kết hôn, pháp luật
1


Việt Nam và pháp luật các nước có những quy định khác nhau. Khi các chủ thể của quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài này tiến hành kết hôn với nhau thì dẫn đến việc pháp luật


của hai bên đều có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này. Điều này dẫn đến hiện
tượng xung đột pháp luật. Việc giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ này được thực
hiện bằng cách xây dựng các quy phạm thực chất và xung đột.
2. Cơ sở pháp lý giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài đã được quy định tại chương XI Luật
hôn nhân và gia đình (HN & GĐ) năm 2000. Cụ thể tại Điều 100, 101, 102, 103. Nghị định
168/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
HN&GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định 69/2006/NĐ-CP
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 168/ NĐ-CP. Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày
16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số Điều của Nghị định số 68/CP quy
định chi tiết thi hành một số Điều của Luật HN&GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, vấn đề này được quy định trong các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết. Hiện
nay nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kí rất nhiều HĐTTTP về dân sự, hôn nhân
– gia đình và hình sự với các nước: Đức (15 tháng 12 năm 1980- nay đã hết hiệu lực),Nga
(25 tháng 8 năm 1998, Điều 24), Séc, Cu Ba, ( 30 tháng 11 năm 1984, Điều 20, Điều 23);
Hungary (18 tháng 01 năm 1985, Điều 31); Bun-ga-ri (03/10/1986, Điều 20) và Ba Lan (22
tháng 03 năm 1993, Điều 23 ); CHDCND Lào (06/7/1998, Điều 25), Mông Cổ (17/4/2000,
điều 24), Bê-la-rút-xia ( 14/9/2000, Điều 26), CHDCND Triều Tiên (04/5/2000), Ucraina
( Điều 24). Ngoài ra, về vấn đề này nước ta cũng đã kí hiệp định về lãnh sự với nhiều quốc
gia khác.
II. Điểm giống nhau trong giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt
Nam với các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết.
1. Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có
yếu tố nước ngoài.
Có thể thấy pháp luật Việt Nam và các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết đều thừa
nhận nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu
tố nước ngoài đó là nguyên tắc bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Việt Nam hay nói cách khác pháp luật
Việt Nam và các HĐTTTP mà Việt Nam kí kết đều hướng tới mục đích bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Đây là
nguyên tắc chung của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài nói riêng. Nguyên tắc này được ghi nhận trong khoản 2 Điều 100 Luật
2


HN&GĐ. Theo đó, trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước
ngoài được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp
luật Việt Nam có quy định khác. Nguyên tắc này cũng được các HĐTTTP thừa nhận. Ví dụ
tại Điều 1 HĐTTTP Việt Nam- Nga có quy định: “ Công dân của bên ký kết này được
hưởng trên lãnh thổ của Bên ký kết kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như
công dân của Bên ký kết kia”.
2. Phương pháp giải quyết để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có
yếu tố nước ngoài.
Để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp
luật Việt Nam và các HĐTTTP mà nước ta đã ký kết đều thống nhất sử dụng phương pháp
xung đột. Phương pháp xung đột là việc xây dựng những quy phạm dẫn chiếu, ấn định luật
nước nào cần áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật trong một tình huống thực tế. Cụ thể
Tại khoản 1 Điều 103 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: . Trong việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình
về điều kiện kết hôn.. Ta có thể thấy quy phạm trên không trực tiếp quy định điều kiện kết
hôn cho công dân Việt Nam và công dân nước ngoài khi họ có nhu cầu kết hôn với nhau mà
chỉ dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật cần áp dụng ( luật của nước mà các bên mang quốc tịch
sẽ được áp dụng) trong trường hợp này. Ở pháp luật Việt Nam quy phạm xung đột được xây
dựng trong một số văn bản như Nghị định 68/2002/NĐ-CP , thông tư 07/2002/TT-BTP…
Tương tự trong các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết cũng sử dụng quy phạm xung
đột để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài. Ví dụ như.
Điều 24 HTTTTP giữa VN và Liên Bang Nga quy định :“ Về điều kiện kết hôn, mỗi bên
đương sự phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết mà người đó là công dân. Ngoài ra, về
những trường hợp cấm kết hôn, việc kết hôn còn phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết

nơi tiến hành kết hôn”. Phương pháp này cũng được sử dụng tại Điều 24 HĐTTTP giữa
Việt Nam và Mông Cổ, Điều 25 HĐTTTP giữa Việt Nam và Lào, khoản 1 Điều 20
HĐTTTP Việt Nam- Bungari…
3. Pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn.
Căn cứ vào Điều 103 Luật HN&GĐ 2000, Điều 23 hiệp định giữa Việt Nam- Cuba,
điều 31 hiệp định giữa Việt Nam- Hungari, Điều 24 Hiệp định giữa Việt Nam- Mông Cổ,
Điều 20 HĐTTTP giữa Việt Nam với Bungari, Điều 23 HĐTTTP giữa Việt Nam với Balan,
Điều 25 HĐTTTP giữa Việt Nam với Lào…có thể thấy pháp luật Việt Nam và các
HĐTTTP mà nước ta kí kết đều xác định hệ thuộc pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột
pháp luật về điều kiện kết hôn đó là hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn và hệ thuộc luật
3


quốc tịch trên cơ sở phân định điều kiện kết hôn thành điều kiện kết hôn về hình thức và
điều kiện kết hôn về nội dung.
3.1 Pháp luật áp dụng đối với điều kiện kết hôn hình thức.
Các điều kiện kết hôn hình thức bao gồm các điều kiện về trình tự thủ tục kết hôn
và nghi thức kết hôn. Để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn hình thức, cả
pháp luật Việt Nam và HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết đều thống nhất áp dụng hệ thuộc
luật nơi tiến hành kết hôn (hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi).
Điều này được ghi nhận trong HĐTTTP mà nước ta đã ký kết: Khoản 2 Điều 25
HĐTTTP Việt Nam- Lào: “ Nghi thức kết hôn được thực hiện theo pháp luật của nước ký
kết nơi tiến hành kết hôn…”Quy định này cũng được khảng định tại các khoản 1, Điều 31
HĐTTTP Việt Nam-Hunggari, …
Điều 11 Nghị định 68/2002/NĐ-CP: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định tại khoản 2 Điều 17 của Nghị
định này, nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam hoặc khoản 4 Điều 19 của Nghị định này, nếu
đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam; mọi nghi thức kết hôn khác đều
không có giá trị pháp lý. Nói cách khác, nghi thức, thủ tục kết hôn tại Việt Nam được xác
định theo pháp luật Việt Nam. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.

Như vậy luật nơi tiến hành kết hôn được cả các HĐTTTP mà VN ký kết và luật HN
& GĐ áp dụng. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi lẽ tuân thủ pháp luật nơi tiến hành kết
hôn cũng có nghĩa là tôn trọng pháp luật nước sở tại, tôn trọng giá trị văn hóa, thuần phong
của nước này, thể hiện được sự hòa nhập của vợ chồng vào xã hội mới. Hệ thuộc luật nơi
tiến hành kết hôn được hiểu là các bên phải tiến hành kết hôn theo các thủ tục, nghi thức mà
pháp luật nơi tiến hành kết hôn quy định
3.2 Pháp luật áp dụng đối với điều kiện kết hôn nội dung
Điều kiện kết hôn về nội dung là vấn đề liên quan đến nhân thân của đương sự như:
độ tuổi, ý chí, tình trạng độc thân… Pháp luật Việt Nam và các HĐTTTP mà Việt Nam ký
kết đều ghi nhận hệ thuộc luật quốc tịch và hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn để giải quyết
những xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn nội dung. Cụ thể:
a) Xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài.
Hệ thuộc luật quốc tịch được áp dụng để giải quyết điều kiện kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài. Hệ thuộc luật quốc tịch được hiểu là khi kết hôn công dân
nước nào thì phải tuân thủ điều kiện kết hôn của nước nơi mình là công dân.
Điều này được quy định trong khoản 1 Điều 103 Luật HN&GĐ: “ Trong việc kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước
4


mình về điều kiện kết hôn…”. Ví dụ: A là công dân Việt Nam muốn kết hôn với B là công
dân Bungari thì điều kiện kết hôn đối với A sẽ xác định theo quy định của pháp luật Việt
Nam, đối với B sẽ xác định theo pháp luật của Bungari. Điều này được ghi nhận trong
khoản 1 Điều 20 HĐTTTP Việt Nam- Bungari: “ các điều kiện kết hôn giữa công dân của
hai nước ký kết sẽ xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người kết hôn là công dân”.
Khoản 1 Điều 23 HĐTTTP Việt Nam-Cuba: “ điều kiện kết hôn đối với công dân mỗi nước
ký kết do pháp luật nước ký kết mà họ là công dân quy định”.
Sở dĩ các HĐTTTP có quy định về điều kiện kết hôn phải tuân thủ theo pháp luật của
nước ký kết mà người đó là công dân bởi khi công dân mỗi nước có chính sách bảo vệ công

dân của mình riêng. Các nước đều có những quy định về độ tuổi kết hôn, các điều kiện kết
cấm kết hôn nhằm bảo vệ cho các cặp vợ chồng, bảo vệ sự bền vững của mỗi gia đình. Ví
dụ Việt Nam quy định độ tuổi kết hôn là từ 18 trở lên đối với nữa, từ 20 trở lên đối với nam,
trong khi đó, pháp luật Đài Loan lại quy định độ tuổi kết hôn của công dân là 16 tuổi trở
lên. Như vậy, HĐTTTP không quy định các điều kiện kết hôn của mỗi bên đương sự phải
tuân theo pháp luật mỗi nước là hợp lý. Nguyên tắc này cũng nhằm bảo vệ công dân của
nước mang quốc tịch khi có các sự kiện liên quan đến quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản
giữa hai vợ chồng.
b)Xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài trước cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
Hệ thuộc luật quốc tịch và hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn được áp dụng song
song để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 103 luật HN & GĐ Việt Nam thì khi việc kết hôn được tiến
hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì ngoài việc tuân thủ theo pháp
luật của nước nơi họ là công dân ( tức là áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch) thì người nước
ngoài còn phải tuân theo quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam về điều kiện kết hôn và các
trường hợp cấm kết hôn ( áp dụng hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn). Điều 10 Nghị định
68/2002/NĐ-CP cũng quy định: “1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người
nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia
đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn
được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam”. Ví dụ: A là nữ công
dân Việt Nam xin đăng ký kết hôn với B là nam công dân Pháp ( khi theo pháp luật của
Pháp thì điều kiện kết hôn của nam, nữ đều là 18 tuổi) tại Việt Nam. Ở đây B thỏa mãn điều
5


kiện kết hôn theo pháp luật của Pháp nhưng vi phạm điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt
Nam (điều kiện kết hôn của nam là 20 tuổi) nên không được đăng ký kết hôn tại Việt Nam.

Điều này cũng được thừa nhận trong một số HĐTTTP mà nước ta kí kết Khoản 1
Điều 24 HĐTTTP Việt Nam- Mông Cổ: “ Điều kiện kết hôn giữa công dân Bên ký kết này
với công dân Bên ký kết kia phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết mà những người đó là
công dân. Ngoài ra, còn phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết nơi tiến hành kết hôn về
các trường hợp cấm kết hôn..”. Điều 25 HĐTTTP Việt Nam- Lào, Điều 3 HĐTTTP Việt
Nam- Hunggari, Điều 23 HĐTTTP Việt Nam- BaLan…
c. Xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp kết hôn giữa người nước ngoài
với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền Việt Nam
Trong trường hợp kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam, trước cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước
mà họ là công dân về điều kiện kết hôn; ngoài ra, còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và
Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường
hợp cấm kết hôn (Theo quy định tại Điều 103 luật HN & GĐ và hướng dẫn tại Khoản 2
Điều 10 Nghị định 68/2006/ NĐ-CP quy định). Như vậy, trong trường hợp này, hệ thuộc
luật quốc tịch và luật nơi tiến hành kết hôn cũng được áp dụng song song để giải quyết.
Tương tự trong các HĐTTTP mà Việt Nam đã kí kết cũng áp dụng kết hợp cả hai hệ
thuộc này. Điều 25 HĐTTTP Việt Nam- Lào quy định: “ trong việc kết hôn giữa công dân
các nước ký kết, mỗi bên phải tuân theo điều kiện kết hôn quy định trong pháp luật của
Nước ký kết mà họ là công dân. Trong trường hợp kết hôn tiến hành tại cơ quan có thẩm
quyền của một nước ký kết, thì họ còn phải tuân theo pháp luật của nước ký kết đó về điều
kiện kết hôn”. Tóm lại, người nước ngoài, ngoài việc tuân thủ các điều kiện kết hôn theo
luật của nước họ mang quốc tịch thì còn đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật Việt
Nam nơi họ tiến hành kết hôn.
III.Điểm khác nhau về quy định về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam và theo HĐTTTP mà Việt Nam kí kết.
1. Phương pháp giải quyết xung đột
Khác với các HĐTTTP mà Việt Nam đã kí kết, Pháp luật Việt Nam ngoài việc sử
dụng phương pháp xung đột để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố
nước ngoài thì còn sử dụng cả phương pháp thực chất. Phương pháp thực chất là giải quyết
xung đột pháp luật bằng cách sử dụng các quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh các quan

hệ pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế. Quy phạm thực chất là quy phạm quy định cụ
thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Ví dụ tai Khoản 2 Điều 100 Luật HN&GĐ quy
định : “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại
6


Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp
pháp luật Việt Nam có quy định khác”.
Điều này cũng dễ dàng lý giải bởi quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài nói chung
và các quy định về điều kiện kết hôn nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, văn hóa,
phong tục tập quán,… của mỗi nước nên sự khác nhau về điều kiện kết hôn là điều không
tránh khỏi. Vì vậy việc hai bên cùng nhau xây dựng quy phạm thực chất để giải quyết xung
đột về điều kiện kết hôn, dung hòa được lợi ích của hai bên là rất khó, sẽ xảy ra hiện tượng
thỏa mãn được lợi ích của bên này mà không thỏa mãn được lợi ích của bên kia.
2. Pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn
Ngoài việc sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch và hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn thì
trong việc giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn pháp luật Việt Nam còn sử
dụng hệ thuộc luật nơi thường trú trong khi các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết không sử
dụng hệ thuộc này. Cụ thể, trong pháp luật Việt Nam hệ thuộc luật nơi thường trú được áp
dụng trong trường hợp giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn giữa những người
không quốc tịch hoặc giữa những người có hai hay nhiều quốc tịch.
Áp dụng hệ thuộc luật nơi thường trú để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện
kết hôn trong trường hợp kết hôn giữa những người không quốc tịch trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền Việt Nam ( khoản 1 Điều 760 BLDS 2005) và cụ thể hóa trong khoản
2 Điều 10, khoản 3 Điều 79 và điểm a khoản 1 Điều 80 Nghị định 69/2006/NĐ-CP. Theo
đó, đối với người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam thì điều kiện kết hôn được xác định
theo pháp luật Việt Nam ( luật nơi thường trú). Người nước ngoài không quốc tịch muốn
kết hôn với công dân Việt Nam và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam, thì giấy tờ sử dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền
của nước người đó định cư hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước đó cấp.

Đối với việc kết hôn giữa những người có hai hay nhiều quốc tịch sẽ được áp dụng
theo quy định tại khoản 2 Điều 760 BLDS 2005, cụ thể trong điểm b khoản 1 Điều 80 Nghị
định 68/2002. Theo đó pháp luật áp dụng đối với người có hai hay nhiều quốc tịch nước
ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời thường trú, nếu người đó
không thường trú tại một trong các nước có quốc tịch thì theo pháp luật của nước mà người
đó mang hộ chiếu.Giấy tờ xác định điều kiện kết hôn của họ sẽ theo pháp luật của nước mà
người đó có quốc tịch đồng thời thường trú vào thời điểm đăng ký kết hôn, nếu người đó
không thường trú tại một trong các nước có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ quan có thẩm
quyền của nước mà người đó mang hộ chiếu cấp.
Việc HĐTTTP không áp dụng hệ thuộc này để giải quyết xung đột pháp luật về điều
kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài bởi lẽ HĐTTTP được ký kết để bảo vệ quyền lợi của
7


công dân hai nước bên ký kết còn đối với người không quốc tịch thì không phải đối tượng
của HĐTTP về dân sự, hôn nhân gia đình.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua việc so sánh quy định giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật Việt Nam với các hiệp định mà Việt Nam đã kí kết ta có thể thấy
rằng việc giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn đã được quy định khá cụ thể.
Đây là cơ sở để giải quyết những tranh chấp trên thực tế về vấn đề nàỳ, thông qua đó nhằm
bảo vệ hơn nữa quyền lợi của công dân nước ta khi ở nước ngoài.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư pháp quốc tế - Trường Đại Học Luật Hà Nội – NXB Tư Pháp
2. Tư pháp quốc tế Việt Nam – TS.Đỗ Văn Đại - PGS.TS Mai Hồng Quỳ - NXB Đại học
quốc gia TP.HCM
3. BLDS 2005
4. Nghị định 168/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật HN&GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài,

5. Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 168/ NĐ-CP.
6. Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một
số Điều của Nghị định số 68/CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật HN&GĐ
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
7. Tư pháp quốc tế - Th.s Lê Thị Nam Giang – NXB Đại học quốc gia TP.HCM
8. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ nhân thân và tài sản trong Tư pháp quốc tế
- Kỷ yếu hội thảo- Nhà pháp luật Việt Pháp 2005.
9. Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
Lào : Khoá luận tốt nghiệp,Hà Nội, 2010
10. Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp,Hà Nội, 2010
11. Đỗ Văn Chỉnh, Kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật
12Vũ Thị Phương, Kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp,Hà
Nội, 2011
8


13 Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, nxb tư pháp, hn 2006.
14. Các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân, gia đình.

9



×