Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

So sánh quy định giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật việt nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà việt nam ký kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.8 KB, 12 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở nước ta có từ rất sớm. Tuy nhiên, đó chỉ
là những trường hợp cá biệt. Cùng với sự phát triển của kinh tế, giao thông,
thông tin… quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển. Đến
nay, quan hệ này không còn là quan hệ cá biệt nữa mà đã trở thành quan hệ
phổ biến. Do nhiều yếu tố mà hiện nay, những vụ việc ly hôn có yếu tố nước
ngoài ngày càng tăng về số lượng. Có thể nói, ly hôn là một trong những vấn
đề phức tạp trong các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Chính vì vậy, quan hệ này đòi hỏi một hệ thống pháp luật chặt chẽ điều chỉnh.
Trong pháp luật về hôn nhân và gia đình của các nước trên thế giới, có
nhiều điểm quy định về vấn đề ly hôn: điều kiện ly hôn, vấn đề nhân thân, vấn
đề tài sản… rất khác nhau. Để giúp đỡ các tòa án trong việc giải quyết các vấn
đề khi ly hôn có yếu tố nước ngoài, các nước đã ký kết một số hiệp định
tương trợ tư pháp với nhau.
Ở Việt Nam giải quyết các vấn đề ly hôn dựa trên cơ sở quy định của luật
trong nước và các hiệp định tương trợ tư pháp đã ký. Tuy nhiên, giữa pháp
luật Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết cũng có
những quy định khác nhau. Bài viết sau của nhóm chúng em tập trung “So
sánh quy định giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật Việt
Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết” để thấy
được sự khác nhau giữa luật trong nước và hiệp định tương trợ tư pháp mà
Việt Nam đã ký kết, đồng thời thấy được cách giải quyết của các Tòa án về
vấn đề này.

B.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN


1. Một số khái niệm
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Khoản 14 Điều 8
Luật HN&GĐ 2000): “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c) Giữa công dân Việt Nam với nau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài”
- Ly hôn(Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình): là chấm dứt quan hệ
hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc
của chồng hoặc của hai vợ chồng .
2. Nguyên dân dẫn đến xung đột pháp luật về ly hôn trong tư pháp quốc tế.
Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chung dẫn đến vấn đề xung đột pháp luật
trong tư pháp quốc tế là không có một quy phạm thực chất nào điều chỉnh quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra sự khác nhau về kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội dẫn đến pháp luật của các quốc gia cũng có sự khác nhau,
mà thực tiễn cho thấy rằng, cùng một lúc không thể đồng thời áp dụng hai hay nhiều
hệ thống pháp luật để điều chỉnh một quan hệ dân sự đó. Sở dĩ như vậy là vì các
quốc gia là các thực thể độc lập, có chủ quyền và bình đẳng với nhau trong việc điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến các quốc gia đó. Hơn nữa, các hệ thống
pháp luât của các quốc gia có liên quan thường không giống nhau về nội dung, và
nếu có giống nhau trong các quy đinh cụ thể nào đó thì việc áp dụng và giải thích
các quy định đó cũng không giống nhau.
Và đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự xung đột về pháp luật trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình, đặc biệt là trong vấn đề ly hôn. Chính vì có sự khác biệt
trong nội dung pháp luật của các nước quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình,
mà trước hết là độ tuổi kết hôn, việc đăng ký kết hôn cũng không giống
nhau....chính vì đó mà các quy định về vẫn đề ly hôn cũng có sự khác biệt.
II. Căn cứ pháp lý để giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn.

1. Cơ sở pháp lý để giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Việt Nam.
Theo Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, vấn đề lựa chọn pháp
luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài được giải quyết theo các trường
hợp sau:
- Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước
ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình được áp dụng để

2


giải quyết ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, cũng như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
với con cái.
- Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam
vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước
nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo
pháp luật Việt Nam (khoản 2 Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Pháp luật Việt Nam cũng được áp dụng trong trường hợp giải quyết ly hôn
giữa các công dân Việt Nam với nhau mà một bên cư trú ở nước chưa kí hiệp định
tương trợ tư pháp về các vấn đề hôn nhân và gia đình với nước ta.
2. Các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết về vấn đề giải quyết xung
đột pháp luật về ly hôn.
Hiện nay các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết với các nước
đều thiết lập các quy phạm xung đột thống nhất (trừ các Hiệp định tương trợ tư pháp
với Trung Quốc và Cộng Hòa Pháp). Các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các
quy phạm xung đột này để chọn luật áp dụng đối với từng vụ việc ly hôn cụ thể.
Nguyên tắc chủ yếu được ghi nhận trong các Hiệp định tương trợ tư pháp để giải
quyết các vụ việc ly hôn là nguyên tắc Luật quốc tịch và nguyên tắc luật nơi cứ trú
hoặc thường trú của vợ chồng.
Hiện nay, Việt Nam đã ký được 10 hiệp định:

- HĐTTTP và pháp lý dân sự, gia đình và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam với
Cộng hòa dân chủ Đức ký ngày 15/12/1980 ( hiện nay đã hết hiệu lực do Liên
bang Đức không thừa kế);
- HĐTTTP và pháp lý dân sự, gia đình và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam với
Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký ngày 10/12/1981; sau khi Liên bang Xô viết
tan rã thì Liên bang Nga kế thừa từ năm 1992; các nước Cộng hòa khác thuộc
Liên xô cũ không kế thừa;
- HĐTTTP và pháp lý dân sự, gia đình và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam với
CHXHCN Tiệp Khắc, ký ngày 12/10/1982, Tiệp Khắc phân chia thành 2 nước
là Cộng hòa Séc và Xlovakia thì cả hai nước cùng thừa kế hiệp định này;
- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước
CHXHCN Việt Nam với Cộng hòa Cu Ba, ký ngày 30/11/1984;
- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt
Nam với CHND Hungari, ký ngày 18/1/1985;
- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt
Nam với CHND Bungari, ký ngày03/10/1986;
- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt
Nam với CH Ba Lan, ký ngày 22/3/1993;

3


- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt
Nam với Bêlarút, ký ngày 14/9/2000;
- HĐTTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt
Nam với mông Cổ, ký ngày 17/4/2000.
III. Các quy định hiện hành về giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp và Việt Nam
ký kết.
1. Những điểm giống nhau của việc giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn

theo pháp luật Việt Nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt
Nam ký kết.
 Vợ chồng có cùng quốc tịch:
+ Theo các HĐTTTP: Nếu hai vợ chồng có cùng quốc tịch, thì áp dụng Luật
Quốc tịch chung (Điều 33, HĐTTTP Việt Nam – Hunggari; Điều 27,
HĐTTTP Việt Nam – Lào; Điều 26, HĐTTTP Việt Nam – Ba Lan)
+ Pháp luật Việt Nam: Nếu vợ chồng cùng có quốc tịch Việt Nam mà thường
trú ở nước ngoài, mặc dù luật hôn nhân gia đình không có quy định cụ thể
nhưng sẽ là hợp lý khi Tòa án Việt Nam áp dụng Luật Việt Nam – Luật Quốc
tịch chung của các đương sự. (Hệ thuộc Luật Quốc tịch chỉ áp dụng thay thế
trong trường hợp cụ thể còn hệ thuộc được áp dụng chính vẫn là hệ thuộc luật
nơi thường trú: việc ly hôn giữa hai người nước ngoài với nhau thường trú tại
Việt Nam vẫn giải quyết theo pháp luật Việt Nam – luật nơi thường trú chung)
 Vợ chồng khác quốc tịch:
+ Theo các HĐTTTP: nếu hai vợ chồng khác quốc tịch, thường trú chung tại
một nước ký kết thì giải quyết theo luật nơi thường trú chung của vợ chồng.
(Hệ thuộc luật nơi thường trú chung)
+ Khoản 1 Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình 2000: việc ly hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam thì giải quyết
theo pháp luật Việt Nam (Hệ thuộc luật nơi thường trú chung)
2. Những điểm khác nhau của việc giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt
Nam ký kết.
 Trường hợp ly hôn có một bên là công dân Việt Nam.
- Cả hai cùng thường trú tại Việt Nam:
Theo Hiệp định tương trợ tư pháp
Theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật nơi thường trú chung của 2 vợ Điều 104 khoản 1: Việc ly hôn giữa
chồng sẽ được áp dụng.
công dân Việt Nam với người nước

Khoản 2 Điều 26 HĐTTTP giữa Việt ngoài, giữa người nước ngoài với nhau
Nam và Liên bang Nga: Nếu vào thời thường trú tại Việt Nam được giải quyết
điểm gửi đơn xin ly hôn một người là theo quy định của Luật này.
công dân của Bên ký kết này, còn người Ví dụ: quan hệ ly hôn giữa vợ là người

4


kia là công dân của Bên ký kết kia thì
điều kiện ly hôn tuân theo pháp luật của
Bên ký kết nơi họ thường trú
Khoản 2 Điều 27 HĐTTTP giữa Việt
Nam và Lào: Nếu vợ chồng có quốc
tịch khác nhau nhưng cùng cư trú ở một
nước ký kết, thì việc ly hôn được giải
quyết theo pháp luật của Nước ký kết
nơi vợ chồng đó cùng cư trú
- Một bên thường trú tại Việt Nam:
Theo Hiệp định tương trợ tư
pháp
Pháp luật Việt Nam được áp
dụng trừ trường hợp điều ước
quốc tế có quy định khác. Nếu
các điều ước quốc tế có quy
định khác với pháp luật Việt
Nam thì theo các điều ước
quốc tế giữa Việt Nam và các
nước thì pháp luật của nước
nơi có tòa án giải quyết vụ
việc sẽ được áp dụng.

Khoản 2 Điều 27 HĐTTTP
Việt Nam và Lào: Nếu trong
thời gian đưa đơn xin ly hôn,
vợ chồng không cùng cư trú ở
một Nước ký kết, thì Cơ quan
tư pháp Nước ký kết nhận
được đơn xin ly hôn sẽ tiến
hành xét xử theo pháp luật của
nước mình

Hungari và chồng là người Việt Nam có
nơi thường trú tại Việt Nam thì pháp
luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ ly hôn
giữa hai người mà không cần phân biệt
ai là người xin ly hôn.

Theo pháp luật Việt Nam
Khoản 2 Điều 104 Luật HN&GĐ: Trong trường
hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú
tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì
việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của
nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ
không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật
Việt Nam.
Trường hợp bên là công dân Việt Nam thường trú
tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì áp
dụng Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP
+ Người nước ngoài ở nước ngoài yêu cầu ly hôn
với người Việt Nam ở trong nước (Điểm a Điều
2.3 Nghị quyết 01/2003): Nếu NNN là công dân

nước mà Việt Nam đã ký HĐTTTP mà HĐTTTP
đó có quy định khác thì áp dụng HĐTTTP, nếu
không khác thì áp dụng Luật HN&GĐ 2000; Nếu
NNN là công dân nước mà Việt Nam chưa ký
HĐTTTP thì áp dụng quy định của Luật HN&GĐ
2000, riêng bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn
thì giải quyết theo pháp luật nơi có bất động sản.
+ Công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn
với người nước ngoài cư trú ở nước ngoài (Điều
2.4 Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP): Tòa án
Việt Nam thụ lý giải quyết.

- Cả hai đều thường trú ở nước ngoài:
Theo Hiệp định Theo pháp luật Việt Nam

5


tương trợ tư pháp
- Trường hợp hai bên vợ chồng có nơi thường trú chung ở
nước ngoài vào thời điểm xin ly hôn: Theo Điều 104 Luật
HN&GĐ 2000 thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp
luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng
- Trường hợp hai bên vợ chồng không có nơi thường trú
chung ở nước ngoài vào thời điểm xin ly hôn: pháp luật
Việt Nam.
*Nên hiểu nơi thường trú chung của vợ chồng là cùng một
nước, chứ không nhất thiết phải cùng số nhà, đường phố (vì
khi phát sinh tranh chấp, khả năng ly thân có thể xảy ra)
 Trường hợp ly hôn có hai bên là công dân Việt Nam

- Một bên ở Việt Nam, một bên ở nước ngoài
Theo Hiệp định tương trợ tư pháp
Theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà Pháp luật Việt Nam không quy định
hai vợ chồng là công dân. Vậy luật Việt cụ thể là pháp luật của Việt Nam hay
Nam sẽ được áp dụng, không thể áp dụng pháp luật của nước mà các bên đang
pháp luật nước ngoài.
cư trú. Nhưng căn cứ vào quy định
Khoản 1 Điều 26 HĐTTTP Việt Nam – tại Khoản 4 Điều 100 Luật HN&GĐ
Mông Cổ: Đối với việc ly hôn sẽ áp dụng 2000 và yếu tố quốc tịch thì trường
pháp luật của Bên ký kết mà vợ chồng là hợp có một bên đang cư trú tại Việt
công dân vào thời điểm đưa đơn
Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam
Khoản 1 Điều 27 HĐTTTP Việt Nam – Lào: là hợp lý nhất. Vì các bên có quan hệ
Nếu vợ chồng có cùng quốc tịch thì việc ly gắn bó với Việt Nam hơn so với
hôn được giải quyết theo pháp luật của nước ngoài.
Nước ký kết mà vợ chồng là công dân.
- Hai bên đều ở nước ngoài
Theo Hiệp định tương trợ tư
pháp
Pháp luật Việt Nam được áp
dụng
Khoản 1 Điều 26 HĐTTTP
giữa Việt Nam và Ukraina: việc
ly hôn thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan tư pháp và
tuân theo pháp luật của bên kí
kết mà vợ chồng đều là công
dân vào thời điểm đưa đơn ly


Theo pháp luật Việt Nam
Cả hai cùng cư trú ở một nước: điều khoản duy
nhất hiện nay đề cập đến vấn đề này là khi các
bên có nơi thường trú chung ở nước ngoài (khoản
2 Điều 104) nhưng áp dụng cho trường hợp một
bên là công dân Việt Nam một bên là công dân
nước ngoài hay áp dụng cho cả trường hợp cả hai
đều là công dân Việt Nam thường trú chung ở
nước ngoài thì chưa quy định rõ ràng cụ thế.
Trong thực tế, Việt Nam giải quyết ly hôn trong

6


hôn
Khoản 1 Điều 26 HĐTTTP
giữa Việt Nam và Nga: Việc ly
hôn tuân theo pháp luật và
thuộc thẩm quyền giải quyết
của Cơ quan tư pháp của Bên
ký kết mà vợ chồng đều là công
dân vào thời điểm nộp đơn xin
ly hôn.

trường hợp này theo pháp luật Việt Nam.
Mỗi người sống ở một nước: quan hệ ly hôn
trong trường hợp này liên quan đến ba hệ thống
pháp luật: Luật Việt Nam, pháp luật nơi có chồng
thường trú, pháp luật nơi có vợ thường trú. Vì chỉ
có thể áp dụng một pháp luật duy nhất nên không

thể chọn pháp luật nơi vọe hoặc chồng thướng trú
vì không pháp luật nào trội hơn. Do vậy, trường
hợp này áp dụng pháp luật Việt Nam là hợp lý
nhất. Trong thực tế, tòa án có thẩm quyền áp
dụng pháp luật tòa án để giải quyết ly hôn.

 Trường hợp ly hôn khi cả hai bên không là công dân Việt Nam
Theo Hiệp định tương trợ Theo pháp luật Việt Nam
tư pháp
Nếu hai vợ chồng cùng Pháp luật Việt Nam được áp dụng trong trường hợp hai
quốc tịch thì việc ly hôn người nước ngoài thường trú tại Việt Nam (Khoản 1
được điều chỉnh bởi pháp Điều 104 Luật HN&GĐ 2000)
luật của nước mà họ là Pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về trường
công dân.
hợp: hai bên cùng quốc tịch nước ngoài, hoặc hai bên
khác quốc tịch trong trường hợp này.
IV. Việc thực thi các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã
ký kết và một số kiến nghị.
1. Thực trạng thực thi các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về ly
hôn theo pháp luật Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt
Nam ký kết
Mặc dù TANDTC đã ban hành Nghị quyết 01/2003/HĐTP có hướng dẫn: Với
những trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nhưng người
nước ngoài đã về nước mà không liên hệ với công dân Việt Nam, nay công dân Việt
Nam xin ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết nhưng thực tế, Tòa án không phải sau
khi thụ lý một vài tháng là có thể đưa ra xét xử, mà vẫn phải tiến hành điều tra, xác
minh và ủy thác tư pháp, đến khi không có kết quả trả lời từ phía cơ quan nhận ủy
thác tư pháp thì Tòa mới xử cho ly hôn, do đó, các vụ án vẫn kéo dài. Việc ly hôn
hiện nay đa số do công dân Việt Nam trong nước đứng nguyên đơn; bên bị đơn là

người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc đang cư trú, làm việc tại Việt Nam; hoặc
là công dân Việt Nam đang cư trú, làm việc, học tập ở nước ngoài (việc cư trú này
có trường hợp không hợp pháp); hoặc công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài (còn
quốc tịch Việt Nam, hoặc đã có quốc tịch nước ngoài); hoặc là người không xác định
được quốc tịch, đang cư trú tại Việt Nam (thường là công dân của nước có chung

7


biên giới với Việt Nam như Trung Quốc, Campuchia). Khi giải quyết quan hệ hôn
nhân, đa số là trường hợp xét xử vắng mặt một bên, hầu hết Toà án chỉ giải quyết
quan hệ hôn nhân, trường hợp giải quyết về con không nhiều, hầu như không có giải
quyết về tài sản; Khi giải quyết về con chung hầu hết không giải quyết về cấp dưỡng
nuôi con do các bên không yêu cầu, họ đã tự giải quyết, có lẽ do thấy Toà có giải quyết
cũng khó thi hành được.
Thực tế, những việc mà Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài
kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận được sự trả
lời, ngay cả đối với các nước mà Tòa án đã ký kết và gia nhập điều ước quốc tế.
Chính vì vậy việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản
ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét
xử.
Thực trạng về kết quả giải quyết của Toà án: ngoại trừ một số ít vụ án sau
khi thụ lý Toà án ra quyết định tạm đình chỉ do không tìm được địa chỉ của bị đơn;
một số ít vụ án Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do nguyên đơn rút
đơn kiện để tự về thu xếp hoà giải đoàn tụ; một số vụ Toà công nhận sự thuận tình
ly hôn của hai bên, còn tỷ lệ rất lớn là Toà án cho ly hôn; rất hiếm trường hợp Toà
bác đơn yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; một số trường hợp Toà xử hủy quan hệ
hôn nhân trái pháp luật (theo Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt
Nam và người nước ngoài năm 1993); hoặc không công nhận quan hệ hôn nhân...
2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về giải quyết

xung đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật Việt Nam và các hiệp định tương
trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết
Thứ nhất, kiến nghị về pháp luật: pháp luật Việt Nam đã quy định trường hợp
công dân Việt Nam ly hôn với người nước ngoài, hoặc việc ly hôn giữa người nước
ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam thì áp dụng theo pháp luật Việt Nam, theo ý
kiến nhóm em thì cho rằng quy định này chưa thật sự phù hợp trong trường hợp mà
người nước ngoài ly hôn với nhau tại Việt Nam. Nếu như trường hợp vợ chồng đó
đều mang quốc tịch của một nước hồi giáo, nhưng họ mới sang sinh sống và làm
việc tại Việt Nam, nếu như bắt buộc họ phải tuân theo pháp luật Việt Nam thì chưa
thật sự phù hợp, vì phong tục tập quán của Việt Nam khác họ hoàn toàn, do đó các
quy định của pháp luật Việt Nam cũng không sẽ trở nên không phù hợp với những
công dân nước ngoài này. Do đó, nhóm em kiến nghị, trong trường hợp công dân
nước ngoài thường trú tại VIệt Nam nhưng khi giải quyết việc ly hôn giữa người
nước ngoài với nhau thì sẽ do các bên thoả thuận lập áp dụng để phù hợp nhất với
lối sống của họ, nhưng sự lựa chọn này sẽ chỉ được áp dụng theo nguyên tắc luật
quốc tịch hoặc nơi cư trú. Toà án Việt Nam sẽ tôn trọng sự thoả thuận này của các
bên, chứ không mang tính bắt buộc phải áp dụng pháp luật Việt Nam.

8


Thứ hai: hiện nay Việt Nam ta mới ký kết 16 hiệp định tương trợ tư pháp với
các quốc gia. Việc áp dụng các quy định về ly hôn liên quan đến các quốc gia đã có
những hiệp định này là tương đối dễ dàng và phù hợp với quan điểm của cả 2 nước,
tuy nhiên với những trường hợp yếu tố nước ngoài đó lại liên quan đến quốc gia mà
Việt Nam chưa ký hiệp định thì vấn đề lại không đơn giản như vậy. Do vậy, nhóm
em kiến nghị Việt Nam cần xây dựng ký kết them một số hiệp định tương trợ tư
pháp khác quy định về vấn để ly hôn với một số quốc gia khác để việc vận dụng
pháp luật được hiệu quả, thực tế.
Thứ ba: ta thường đặt ra câu hỏi tại sao số lượng vụ việc ly hôn có yếu tố nước

ngoài hiện nay lại tăng lên một cách đáng kể như vậy? Đặc biệt là trong trường hợp
nữ công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước ngoài nay về Việt Nam yêu cầu ly
hôn? Vậy nguyên nhân do đâu? Phải chăng là do trình độ hiểu biết của công dân
Việt Nam còn nhiều hạn chế? Họ không ý thức được việc mình làm, không có kiến
thức xã hội chỉ nghĩ rằng lấy chồng ngoại quốc là thoả nguyện ước mơ đổi đời, sau
đó họ hối hận, sợ hãi về Việt Nam yêu cầu cho ly hôn. Như vậy nhóm chúng em
kiến nghị cần nâng cao vai trò của hội phụ nữ trong công tác nâng cao hiểu biết cho
chị em để tránh tối đa việc ly hôn do thiếu hiểu biết.

9


C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Ly hôn có yếu tố nước ngoài là một vấn đề phức tạp, làm đau đầu các nhà
làm luật cũng như các thẩm phán. Để giải quyết vế đề ly hôn có yếu tố nước
ngoài cần phải kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, thống nhất giữa luật trong nước
với các hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta đã ký kết với những nước
khác. Tuy có sự khác nhau song hai hệ thống pháp luật này cũng bổ sung cho
nhau, tạo hành lang pháp lý vững chắc để giải quyết quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài.
Hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật trong nước, đồng thời ký kết
thêm những hiệp định tương trợ tư pháp mới để giải quyết vấn đề ly hôn có
yếu tố nước ngoài là một việc làm cần thiết.
Mặc dù nhóm chúng em đã cố gắng tìm hiểu song bài viết không tránh
khỏi những sai sót. Chúng em rất mong cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để
bài viết của chúng em hoàn thiện hơn bài viết của mình.

MỤC LỤC
A.


ĐẶT VẤN ĐỀ.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ LY
HÔN
1
1. Một số khái niệm............................................................................................1
2. Nguyên dân dẫn đến xung đột pháp luật về ly hôn trong tư pháp quốc tế........1

10


II. Căn cứ pháp lý để giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn.

1

1. Cơ sở pháp lý để giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Việt Nam........1
2. Các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết về vấn đề giải quyết
xung đột pháp luật về ly hôn..................................................................................2
III. Các quy định hiện hành về giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp và Việt Nam ký
kết. 3
1. Những điểm giống nhau của việc giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam
ký kết......................................................................................................................3
2. Những điểm khác nhau của việc giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam
ký kết......................................................................................................................3
IV. Việc thực thi các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã

ký kết và một số kiến nghị. 6
1. Thực trạng thực thi các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết6
2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về giải quyết xung
đột pháp luật về ly hôn theo pháp luật Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam ký kết.......................................................................................7
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.

11


D. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Ly hôn có yếu tố nước ngoài là một vấn đề phức tạp, làm đau đầu các nhà
làm luật cũng như các thẩm phán. Để giải quyết vế đề ly hôn có yếu tố nước
ngoài cần phải kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, thống nhất giữa luật trong nước
với các hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta đã ký kết với những nước
khác. Tuy có sự khác nhau song hai hệ thống pháp luật này cũng bổ sung cho
nhau, tạo hành lang pháp lý vững chắc để giải quyết quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài.
Hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật trong nước, đồng thời ký kết
thêm những hiệp định tương trợ tư pháp mới để giải quyết vấn đề ly hôn có
yếu tố nước ngoài là một việc làm cần thiết.
Mặc dù nhóm chúng em đã cố gắng tìm hiểu song bài viết không tránh
khỏi những sai sót. Chúng em rất mong cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để
bài viết của chúng em hoàn thiện hơn bài viết của mình.

12




×