Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài tập lớn học kỳ môn luật hình sựu việt nam 2 thấy chiếc máy cày của nhà ông h đang đậu trước sân, do hiếu kỳ nên a đã leo lên, nổ máy chơi không n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.71 KB, 10 trang )

Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
Mục lục
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.................................................................................2
1. Định tội danh cho A..............................................................................................2
2. Giả sử A mới 15 tuổi thì A có phải chịu trách nhiệm hình sự không?..............5
3. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm hãy xác định tội phạm do
A thực hiện là loại CTTP gì?................................................................................6
4. Giả sử chiếc máy cày đang đậu ở ven đường làng và A có hành vi nêu trên thì
tội danh của A có thay đổi không? Tại sao?.........................................................7
KẾT LUẬN..............................................................................................................8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................10

1


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
TÌNH HUỐNG
Thấy chiếc máy cày của nhà ông H đang đậu trước sân, do hiếu kỳ nên A
đã leo lên, nổ máy chơi. Không ngờ máy nổ. A lúng túng gạt phải cần số làm
máy cày chuyển động. Cạnh đó có một đám trẻ con đang chơi bắn bi không để
ý và có 2 em bị máy cày cán chết.
Hỏi:
1. Hãy định tội danh cho A. (2 điểm)
2. Giả sử A mới 15 tuổi thì A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? (2
điểm)
3. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm hãy xác định tội
phạm do A thực hiện là loại CTTP gì? (1 điểm)
4. Gia sử chiếc máy cày đang đậu ở ven đường làng và A có hành vi nêu
trên thì tội danh của A có thay đổi không? Tại sao? (2 điểm)

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG


1. Định tội danh cho A.
Ta khẳng định tội danh của A trong trường hợp này là Tội vô ý làm chết
người được quy định tại khoản 2 Điều 98_BLHS:“2. Phạm tội làm chết nhiều
người thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”
Căn cứ pháp lý của khẳng định trên như sau:
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội này là một trong những khách
thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn
trọng và bảo vệ tính mạng.

2


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
Đối tượng của tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ
về tính mạng. Đó là những người đang sống, những người đang tồn tại trong thế
giới khách quan với tư cách là con người – thực thể tư nhiên.
Trong trường hợp này A đã xâm phạm đến quyền sống, quyền bảo vệ tính
mạng của hai em nhỏ bằng hành vi vô ý lái máy cày cán chết hai em.
Mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của tội phạm:
Người phạm tội có hành vi vi phạm quy tắc an toàn. Đó là những quy tắc
nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người. Những quy tắc đó
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy phạm hóa hoặc có thể chỉ là
những quy tắc xử sự xã hội thông thường đã trở thành tập quán sinh hoạt, mọi
người đều biết và thừa nhận.
Tuy nhiên, máy cày không phải là phương tiện giao thông đường bộ và
đang ở trong sân thì không thể vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ
được. Vì vậy, đây không phải là “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ” theo Điều 202 BLHS. Đồng thời cũng không phải là hành
vi vi phạm quy tắc an toàn lao động (Điều 227 BLHS)

- Hậu quả của tội phạm: Hành vi vi phạm nói trên phải đã gây ra hậu quả
chết người. Hậu quả này là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Hậu quả trong trường hợp này là cái chết của 2 em đang chơi bắn bi trong
sân nhà.
- Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm :
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả đã xảy ra là dấu hiệu
bắt buộc của CTTP. Người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu TNHS về hậu quả
chết người đã xảy ra, nếu hành vi vi phạm của họ đã gây ra hậu quả này hay nói
cách khác là giữa hành vi vi phạm của họ và hậu quả chết người có quan hệ nhân
3


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
quả với nhau. Trong trường hợp này, chính vì hành vi vi phạm của A mà dẫn đến
cái chết cho 2 em đang chơi bắn bi gần đó. Đây chính là mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm của A và cái chết của 2 em nhỏ.
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý. Có thể là
vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
Cụ thể trong trường hợp này lỗi của A là vô ý vì cẩu thả được quy định tại
khoản 2 Điều 10 BLHS “người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả đó”.
Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy
trước được khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước
hoặc có thể thấy trước. Tiêu chí để xác định một người phải thấy trước và có thể
thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc
xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước, ngoài ra còn phải
căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề,…vv.
Trong hoàn cảnh này, do hiếu kỳ mà A đã leo lên máy cày nổ máy chơi, khi
máy nổ A lúng túng gạt phải cần số làm máy cày chuyển động. Hành vi A lúng

túng gạt phải cần số làm máy cày chuyển động đều nằm ngoài ý muốn và tầm
kiểm soát của A. Nghĩa là A hoàn toàn không chủ định làm máy cày chuyển động,
mà do trạng thái lúng túng nên A gạt phải cần số làm máy cày chuyển động. Như
vậy A không thể thấy trước được hậu quả chết người mà hành vi của mình có thể
gây ra. Hình thức lỗi này được quy định trong khoản 2 Điều 10 BLHS như
sau: “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.

4


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
Trong tình huống này, khi máy nổ “A mới lúng túng gạt phải cần số”.
Chính vì lỗi vô ý cẩu thả này của A đã khiến hành vi hiếu kỳ đó trở thành nguyên
nhân trực tiếp gây ra cái chết của hai em nhỏ.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này là người có năng lực TNHS và
đạt độ tuổi luật định.
Ở đây do đề bài đưa ra không đề cập đến năng lực TNHS và độ tuổi của A
nên ta mặc nhiên thừa nhận A có đủ các điều kiện trở thành chủ thể của tội phạm.
Mặt khác, trong trường hợp này A đã làm chết hai em nhỏ đang chơi bắn bi
gần đó.
Như vậy, A phạm tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 2 Điều
98 BLHS.
2. Giả sử A mới 15 tuổi thì A có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Trường hợp A 15 tuổi thì A không phải chịu trách nhiệm hình sự.
A phạm tội vô ý làm chết người theo khoản 2 Điều 98 BLHS với mức cao
nhất của khung hình phạt là mười năm tù: “2. Phạm tội làm chết nhiều người thì
bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.
Xét theo khoản 3 Điều 8 BLHS: “…tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối cới tội ấy là đến

bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây ngy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù…”.
Ở đây, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội vô ý làm chết người
theo khoản 2 Điều 98 BLHS của A là mười năm tù, đã vượt ra khỏi khung của tội
phạm nghiêm trọng và nhỏ hơn mức cao nhất của khung hình phạt tội rất nghiem
trọng. Vì vậy, theo khoản 3 Điều 8 BLHS thì tội của A thuộc loại tội phạm rất
nghiêm trọng.

5


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
Theo khoản 2 Điều 12 BLHS: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Trong tình huống này, tuy A phạm tội rất nghiêm trọng nhưng mặt chủ
quan của tội phạm là lỗi vô ý, không phải tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Vì
vậy, trường hợp A 15 tuổi thì A không phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm hãy xác định tội phạm
do A thực hiện là loại CTTP gì?
Tội phạm do A thực hiện là CTTP vật chất.
CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu
quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Điểm khác nhau giữa CTTP vật chất và CTTP hình thức ở chỗ nhà làm luật
quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc hay không phải là dấu hiệu bắt
buộc trong CTTP. Việc xác định loại tội nào có CTTP vật chất hay có CTTP hình
thức phải dựa vào quy định của luật,tránh quan niệm cho rằng nếu có hậu quả xảy
ra thì tội phạm đó có CTTP vật chất hay ngược lại, nếu hành vi phạm tội chưa gây

hậu quả thì tội có CTTP hình thức.
Việc xây dựng loại tội nào có CTTP cơ bản là CTTP vật chất hay hình thức
là xuất phát từ cơ sở khách quan sau:
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính
nguy hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác
định thì CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.

6


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể
hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả
hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì CTTP thường được xây dựng là CTTP vật chất.
Khoản 2 Điều 98 BLHS quy định: “2. Phạm tội làm chết nhiều người thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Như vậy, nhà làm luật quy định dấu hiệu hậu
quả ở khoản 2 Điều 98 BLHS là “ làm chết nhiều người” là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP tội vô ý làm chết người Khoản 2 Điều 98 BLHS
Mặt khác, chính vì hành vi vi phạm quy tắc an toàn của A mà dẫn đến cái
chết cho 2 em đang chơi bắn bi gần đó. Đây chính là mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm của A và cái chết của 2 em nhỏ.
Vì vậy tội phạm do A thực hiện là loại CTTP vật chất.
4. Giả sử chiếc máy cày đang đậu ở ven đường làng và A có hành vi nêu trên
thì tội danh của A có thay đổi không? Tại sao?
Ta khẳng định tội danh của A là không thay đổi. A vẫn phạm tội Vô ý làm
chết người theo quy định tại khoản 2 Điều 98 BLHS.
Trước hết, Theo quy định tại khoản 17 được cụ thể hóa tại các khoản 18 và
19 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 thì: máy cày không phải là phương
tiện giao thông đường bộ mà nó là xe máy chuyên dùng (cụ thể là xe máy nông
nghiệp). Theo quy định tại khoản 20 điều 3 Luật Giao thông đường bộ. “20. Xe

máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các
loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia
giao thông đường bộ......”.
Thứ hai là khoản 1 Điều 202 BLHS quy định: “1. Người nào điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
7


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm”. Có nghĩa là người điều khiển phương tiện phải vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ thì mới có thể cấu thành tội này.
Khi địa điểm là ở ven đường làng thì cũng không cấu thành tội theo Điều
202 BLHS. Vì trong trường hợp này máy cày đã tham gia giao thông đường bộ, đã
vi phạm về quy định về an toàn giao thông đường bộ, nhưng máy cày không phải
là phương tiện giao thông đường bộ. Điều luật quy định là: “Người nào điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ…” chứ không phải quy định là: “Người
nào điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ…”. Vì vậy, không thể
cho rằng đây là tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ theo Điều 202 được.
Măt khác, trong trường hợp này lỗi của A là vô ý vì cẩu thả được quy định
tại khoản 2 Điều 10_BLHS “người phạm tội không thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả đó”. Hành vi A lúng túng gạt phải cần số làm máy cày chuyển động
đều nằm ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của A. Nghĩa là A hoàn toàn không chủ
định làm máy cày chuyển động, mà do trạng thái lúng túng nên A gạt phải cần số
làm máy cày chuyển động.
Từ những phân tích trên, để đánh giá khách quan, đúng bản chất của tội

phạm thì trong trường hợp này tội danh của A không thay đổi, A vẫn phạm tội
“Vô ý làm chết người” theo khoản 2 Điều 98 BLHS.
KẾT LUẬN
Trong thực tiễn hiện nay việc phân biệt giữa tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ hoặc đường thủy với tội vô ý làm chết
người đang gây nhiều lúng túng cho các tòa địa phương. Nhiều tòa đã phải xin ý
8


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
kiến hướng dẫn nghiệp vụ của TAND Tối cao. Tòa Hình sự TAND Tối cao yêu
cầu các địa phương khi xét xử những vụ án loại này cần nghiên cứu kỹ các quy
định của pháp luật nội dung như Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông
đường thủy… để vận dụng trong từng trường hợp cụ thể. Theo đó, chỉ khi cơ quan
tố tụng chỉ ra được hành vi của bị can, bị cáo là vi phạm các quy tắc, quy định
pháp luật cụ thể về giao thông thì mới xử lý họ về tội phạm giao thông tương ứng.
Còn các trường hợp không chứng minh được hành vi của các bị can, bị cáo vi
phạm các quy tắc, quy định cụ thể nào của pháp luật về an toàn giao thông thì cần
xem xét xử lý họ về tội vô ý làm chết người. Có rất nhiều trường hợp người điều
khiển xe máy chuyên dùng gây thiệt hại về tính mạng cho người khác lại được xét
xử về tội Vi phạm quy định về an toàn giao thông theo Điều 202 BLHS. Vì vậy, để
xét xử đúng người, đúng tội cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng, thống
nhất giữa các điều luật.

9


Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự Việt Nam 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I và
tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2009;
2/ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
3/ Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;
4/ Luật giao thông đường bộ năm 2008.

10



×