Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG, THỜI CƠ, THÁCH THỨC, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH THIẾU NHI TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.24 KB, 69 trang )

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

BAN CHẤP HÀNH HUYỆN ĐIỆN BÀN
-----ššššššš-----


THÁNG 6/2008
Chuyên đề 1:
BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG, THỜI CƠ, THÁCH THỨC, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH THIẾU NHI
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
-------------------------Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, là hệ quả tất yếu
của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và phát triển
của nền kinh tế thị trường. Đây cũng là sản phẩm tất yếu của văn minh nhân loại, mà không
một quốc gia nào đứng ngoài. Trong quá trình đó, mỗi quốc gia vừa có thời cơ, vừa có thách
thức; vừa thúc đẩy hợp tác, đồng thời có cả sức ép cạnh tranh, đòi hỏi phải chủ động trong
hội nhập, có lộ trình, bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, truyền thống
văn hoá, an ninh – quốc phòng… của đất nước, của dân tộc mình trong quá trình phát triển.
I-BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG, THỜI CƠ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH THIẾU NHI TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1- Bối cảnh quốc tế, trong nước tác động đến tình hình thanh niên, công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi
1.1- Bối cảnh Quốc tế
* Thuận lợi
- Trong những năm tới, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, mặc dù tình hình thế giới rất phức tạp, nhất là sau sự
kiện 11-9-2001 ở Mỹ, nhưng sự vận động của những mâu thuẫn chủ yếu của thời đại cho
thấy, không phải các thế lực thù địch muốn làm gì cũng được, đang gặp nhiều khó khăn và
buộc phải có sự điều chỉnh nhất định trong thực hiện chiến lược toàn cầu. Các nước lớn
đang tranh thủ thời cơ vươn lên mạnh mẽ. Lợi ích đan xen của các nước lớn tạo cục diện
vừa đấu tranh, vừa hợp tác.


- Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển. Trong những năm tới, do
tận dụng được ưu thế về công nghệ và ưu thế trong quá trình toàn cầu hoá, kinh tế Mỹ vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Kinh
tế các nước châu Á vẫn có tốc độ phát triển kinh tế cao, góp phần vào tốc độ tăng trưởng
chung của thế giới, trong đó kinh tế Trung Quốc vẫn giữ tốc độ tăng trưởng rất cao (khoảng
8-9% năm); kinh tế Nhật Bản dần dần đang thoát khỏi tình trạng trì trệ; kinh tế Nga, Ấn Độ
đang đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 7% năm; kinh tế các nước trong liên minh châu Âu
(EU), Mỹ Latinh cũng có tốc độ tăng trưởng tích cực.
- Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra
triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu.

2


- Các nước Đông Nam Á tiếp tục tăng cường hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, mở
rộng quan hệ với các nước và khu vực khác qua Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Diễn đàn
hợp tác Á – Âu (ASEM), khu vực kinh tế Đông Á (EEA), có uy tín và vị thế trên thế giới.
Về kinh tế, những cam kết của các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA với Trung Quốc
bắt đầu có hiệu lực và đang xây dựng chương trình đến năm 2020 biến ASEAN thành một
cộng đồng trên ba trụ cột: kinh tế, an ninh và văn hoá. Khu vực kinh tế Đông Á, bao gồm
các nước Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Úc đã hình thành. Điều đó có lợi cho sự phát
triển của mỗi quốc gia, khu vực.
* Khó khăn
- Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay
gắt, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua
vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên
giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu khí tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp nên rất khó giải quyết.

- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển. Cạnh tranh kinh tế- thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng thị
trường, nguồn vốn, công nghệ giữa các nước ngày càng gay gắt.
- Nhiều vấn đề toàn cầu, bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối
hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng
lớn; sự gia tăng dân số và các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn
kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo
những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều
hướng gia tăng.
- Khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiềm ẩn những yếu tố gây mất
ổn định, như tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài
nguyên giữa các nước lớn. Một số nước có nguy cơ bất ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.
1.2- Bối cảnh trong nước
* Thuận lợi
- Những thành quả của 20 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng làm cho
thế và lực nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước. Tính thu nhập bình quân đầu người,
nước ta đã đạt mức của các nước đang phát triển có thu nhập thấp.
- Việc mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững môi trường hòa bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh
tế xã hội với tốc độ nhanh hơn. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 168 nước
trên thế giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị
lớn trên thế giới, đưa các quan hệ trên vào xu thế ổn định lâu dài dựa trên các thoả thuận đã
được ký kết.
Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các tổ chức quốc
tế, khu vực như: Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, ASEAN,
APEC, ASEM, tham gia các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA);
trở thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
* Khó khăn, thách thức
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn,

đan xen nhau tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách
thức nào.
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn tồn tại. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, số liệu năm 2004, thì GDP của nước ta
3


bằng 1/37 của Trung Quốc; chưa bằng 1/3 của Thái Lan và Malaixia. GDP bình quân đầu
người chưa bằng 1/2 của Trung Quốc, 1/3 của Thái Lan, 1/8 của Malaixia, 1/2 của
Philippin. Nếu tốc độ phát triển của nước ta không nhanh hơn các nước thì bao giờ chúng ta
đuổi kịp họ.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Sự suy thoái về
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi.
Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng. Tỷ lệ nói nhiều, ít làm, nói nhưng
không làm, làm không đến nơi, đến chốn còn diễn ra ở nhiều nơi. Tệ quan liêu, xa dân,
thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật còn tồn tại ở các cấp, các ngành. Tham nhũng,
nhũng nhiễu dân, gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm thất thoát tài sản, tiền của Nhà
nước, của nhân dân, cả tiền vay của nước ngoài, gây nhiều bức xúc trong nhân dân.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Chưa
nhận thức rõ được xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, nhất là việc giữ vững vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Quá nhấn mạnh vào các chỉ tiêu lợi nhuận trong hoạt động kinh tế,
chưa quán triệt đầy đủ việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bức đi và
từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, vẫn đang
triệt để sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để tác động, gây mất
ổn định chính trị, xã hội ở một số nơi. Trong quan hệ với nước ta, họ vẫn gắn các vấn đề
trên với các vấn đề kinh tế.

Bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước tác động cả tích cực và tiêu cực đan xen với
nhau tác động đến tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống của thanh niên, công tác tập hợp,
đoàn kết, giáo dục thanh thiếu nhi trong những năm tới.
2- Thời cơ đối với công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong tình hình
mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh
niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đảng xác định
thanh niên là người chủ hiện tại và tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà
nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt đối với
thanh niên và tổ chức Đoàn, nhất là trong thời kỳ phát triển đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Theo chương trình làm việc của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), kỳ họp
thứ 7 (giữa năm 2008) sẽ bàn và ra Nghị quyết về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Nhà nước tăng cường quản lý Nhà nước về công tác thanh niên thông qua việc triển
khai, thực hiện Luật thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010 và nhiều
chính sách thích hợp khác nhằm bồi dưỡng, phát huy thanh niên và tạo điều kiện về cơ sở
vật chất, phương tiện cho công tác thanh niên; quá trình xã hội hóa công tác thanh niên ngày
càng được triển khai rộng rãi tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng và phát huy
thanh niên.
- Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, phấn
đấu đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 là điều kiện, môi trường
thuận lợi để thanh niên thể hiện tài năng, sức trẻ, cống hiến cho đất nước. Với đường lối
đúng đắn của Đảng, đất nước tiếp tục ổn định, vị thế không ngừng tăng lên đã tạo cơ hội lớn
4


cho thanh niên học tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri thức, nhất là những thành
tựu khoa học – công nghệ. Đồng thời, những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được qua

hơn 20 năm đổi mới, sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ không ngừng tăng lên là
cơ sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo tốt hơn cho thanh niên những năm tới
đây.
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, các hoạt động của Đoàn bám sát
nhiệm vụ chính trị của đất nước, phù hợp với từng đối tượng thanh niên, phát huy vai trò
xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn từng bước quan tâm, chăm lo tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của thanh
niên, trở thành người bạn gần gũi của thanh niên. Hoạt động của Đoàn, đặc biệt là các hoạt
động tình nguyện ngày càng được xã hội ghi nhận và đánh giá cao. Đây chính là nền tảng
quan trọng đẩy mạnh công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
3- Thách thức đối với công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong tình
hình mới.
Sau hơn 20 năm đất nước đổi mới, tình hình thanh niên nước ta đã có những chuyển
biến mạnh mẽ, đan xen cả những yếu tố tích cực và tiêu cực tác động đối với công tác thanh
niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi.
- Số lượng thanh niên trong cơ cấu dân số liên tục tăng. Năm 1999, tổng số thanh
niên là 21.183.207 người, chiếm 27,7% dân số. Năm 2007, tổng số thanh niên là 23.758.218
người, chiếm 28,1% dân số cả nước. Trong đó, thanh niên nam 51,5%, nữ 49,5%; thanh
niên công nhân 10%; thanh niên nông thôn 51,5%; thanh niên đô thị 48,5%; thanh niên học
sinh, sinh viên 20,6%; thanh niên dân tộc thiểu số 13%; thanh niên tín đồ tôn giáo 31%;
thanh niên là trí thức trẻ chiếm 35% trong tổng số trí thức trẻ cả nước. Chính sự đa dạng về
đối tượng, văn hoá, vùng miền của thanh niên Việt Nam đã tạo ra thách thức không nhỏ cho
công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu, công tác mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh
niên trong tình hình hiện nay.
- Bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực bên ngoài, các âm mưu xoá bỏ những
thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu của các thế lực thù địch là luôn nhằm vào thanh niên, coi
đây là đối tượng dễ lung lạc để dùng các thủ đoạn kinh tế, chính trị và văn hoá tác động làm
biến chất, tạo mầm mống chống đối chế độ; ra sức lôi kéo, tha hoá thanh niên, kích động

thanh niên tham gia các hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị đất nước.
Tình trạng thanh niên học sinh, sinh viên bị tác động, lôi kéo vào các hoạt động phức
tạp liên quan đến an ninh, trật tự tăng lên (năm 2007 diễn ra 89 vụ với hơn 1000 lượt sinh
viên tham gia gây rối trật tự công cộng bị xử lý); đáng chú ý là hoạt động tuyên truyền, phát
triển đạo Tin lành trái pháp luật trong học sinh, sinh viên gia tăng; có sinh viên tham gia vào
nhóm chống đối của các thế lực phản động trong nước. Công tác quản lý lưu học sinh Việt
Nam ở nước ngoài còn buông lỏng, các thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong tìm
cách mua chuộc, khống chế sinh viên tham gia các hoạt động chống phát Việt Nam.
- Nền kinh tế đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp, nguy cơ
tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Những vấn đề xã hội của thanh
niên về học tập, nghề nghiệp, việc làm, thu nhập, sức khỏe, nhu cầu vui chơi, giải trí, hôn nhân,
gia đình; những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, thờ ơ chính trị trong một bộ phận
thanh niên chậm được khắc phục. Sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo
ngày càng gia tăng, những tiêu cực và tệ nạn xã hội, quá trình đẩy mạnh nền kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những thách thức đối với thanh niên về trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, bản lĩnh và tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lối sống
5


của thanh niên. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra ở nhiều lĩnh vực; tác động của mặt
trái công nghệ thông tin sẽ là lực cản ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ trẻ.
- Cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển khu
vực công nghiệp, dịch vụ và thu hẹp khu vực nông nghiệp, kéo theo sự chuyển dịch lao
động trẻ, cơ cấu xã hội, nghề nghiệp của thanh niên. Số thanh niên từ nông thôn ra thành
phố, các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế; thanh niên lao động tự do, thanh niên thiếu
việc làm, thu nhập không ổn định vẫn ngày càng có chiều hướng gia tăng. Theo kết quả
điều tra lao động, việc làm của Tổng cục thống kê- Bộ Lao động Thương binh và xã hội
năm 2006, dân số thanh niên nước ta hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là
53,4%; công nghiệp xây dựng 24,2%; dịch vụ 22,4% và dự báo xu hướng chuyển dịch cơ
cấu lao động trên sẽ tiếp tục tăng. Trong đó, số thanh niên làm việc trong các thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh nghiệp chiếm vị trí chủ đạo (khoảng 91%); chỉ có 9% thanh niên
làm việc trong khu vực nhà nước; 17,7% thanh niên làm việc hưởng lương ngoài khu vực
Nhà nước; 53,5% lao động trong hộ gia đình không hưởng lương; 16,5% tự lo cho bản thân
đặc biệt có 1% chủ doanh nghiệp tư nhân và 0,3% tự làm thuê có lao động.
Bên cạnh đó, trong thanh niên có sự phân hoá, chênh lệch ngày càng lớn về mức
sống, về trình độ học vấn, thu nhập, về địa vị kinh tế, điều kiện hưởng thụ văn hoá, vui chơi
giải trí.
- Sự biến động phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, sự tác động của toàn cầu
hoá, sự xâm lăng văn hoá, cổ vũ lối sống phương Tây, dân chủ Mỹ trong thanh niên diễn ra
mạnh mẽ, bằng nhiều con đường, nhất là qua Internet, các phương tiện truyền thông sẽ tác
động trực tiếp, liên tục với cường độ cao đến lối sống, nếp sống của thanh niên, tạo sức ép,
gây nhiều khó khăn, phức tạp cho việc bảo vệ và phát huy văn hoá dân tộc trong giới trẻ.
- Mặt trái của kinh tế thị trường sẽ tác động mạnh đến thanh niên. Một bộ phận không
nhỏ thanh niên chỉ đề cao giá trị đồng tiền, sống thiếu tình người, ích kỷ, cá nhân, thực
dụng, sống gấp, không quan tâm đến tập thể, thờ ơ trước nỗi đau của đồng bào; bản lĩnh
chính trị, niềm tin vào tương lai đất nước dễ bị lung lay, dao động, lo lắng trước những khó
khăn của đất nước, yếu kém trong quản lý xã hội, tác động của tiêu cực, tệ nạn xã hội, tội
phạm, sự chống phá của thế lực thù địch.
- Sự gia tăng của các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, tội phạm nguy hiểm, côn
đồ, hung hãn, băng nhóm chưa được ngăn chặn, mà trong đó thanh niên chiếm tỷ lệ cao;
môi trường xã hội chưa lành mạnh; sức khoẻ sinh sản, tỷ lệ nhiễm HIV trong thanh niên sẽ
còn diễn biến phức tạp, ở mức báo động... đã, đang và sẽ tác động xấu đến số đông thanh
niên, báo hiệu nguy cơ tích chứa, hình thành một xã hội không ổn định, không lành mạnh
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thanh niên nếu không kịp thời ngăn chặn.
Tình hình phạm tội trong thanh niên vẫn chiếm tỷ lệ cao, khoảng 55-65% trong tổng
số người phạm tội. Xét về các loại tội phạm, thanh niên thường mắc chủ yếu là các án hình
sự và ma tuý, những năm gần đây xuất hiện loại tội phạm về công nghệ thông tin. Năm
2003, cả nước có 58.603 người bị bắt giữ và khởi tố, trong đó có 33.548 người phạm tội
thuộc nhóm tuổi thanh thiếu nhi, chiếm 57,3%; năm 2004 có 59.491 người phạm tội, trong
đó thanh niên chiếm 56%. Số thanh niên nghiện ma tuý hiện có khoảng 169 nghìn người,

chiếm 70% người nghiện có hồ sơ kiểm soát.
II- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG
TRÀO THANH THIẾU NHI TRONG THỜI GIAN TỚI.
1- Hiệu quả giáo dục của Đoàn chưa cao. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của
Đoàn chưa thật phù hợp với từng đối tượng thanh niên. Các hoạt động định hướng, giáo dục
đạo đức, lối sống chưa tác động có hiệu quả đến đối tượng thanh thiếu niên chậm tiến.
Phương thức giáo dục của Đoàn chậm đổi mới, chưa đáp ứng nhu cầu, tâm lý của đoàn
6


viên, thanh niên. Đoàn chưa thật sự tiếp cận để định hướng, hướng dẫn thanh niên trước
những xu hướng, trào lưu mới. Công tác tư tưởng và định hướng dư luận xã hội trong thanh
niên còn hạn chế; việc nắm bắt tình hình, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của thanh niên
niên công nhân trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thanh niên địa bàn dân cư, trí
thức trẻ không chắc chắn.
Khắc phục những vấn đề trên, để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực sự là trường học xã
hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam, là người trực tiếp giúp Đảng thực hiện nhiệm vụ
công tác thanh niên, phát động và tổ chức phong trào hành động cách mạng của thanh niên,
là cầu nối giữa thanh niên với Đảng, phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong. Trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải “Xây dựng Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là đội hậu bị tin cậy của Đảng, là hạt
nhân chính trị của phong trào thanh niên”. Đồng thời, phải mở rộng và củng cố mặt trận
đoàn kết tập hợp thanh niên và xây dựng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh vững
mạnh. Chức năng cơ bản phân biệt Đoàn với các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ
là trường học XHCN của thanh niên, đội hậu bị tin cậy của Đảng. Nhiệm vụ chính trị hàng
đầu của Đoàn là giáo dục lý tưởng cộng sản cho thanh niên, góp phần "bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau". Do vậy, trong mỗi hoạt động của Đoàn đều phải có mục tiêu và
biện pháp để góp phần nâng cao nhận thức chính trị của đoàn viên, thanh niên.
2- Vai trò của Đoàn trong bảo vệ quyền lợi, chăm lo lợi ích chính đáng của thanh
niên chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, đòi hỏi Đoàn phải gắn bó và mở rộng ảnh hưởng hơn

đối với thanh niên, thực sự là đại diện cho lợi ích chính đáng của thanh niên. Chức năng đó
hết sức quan trọng để gắn kết thanh niên với tổ chức Đoàn. Muốn vậy, Đoàn phải thực sự "
Người bạn thân thiết của thanh niên, vì thanh niên, đồng hành với thanh niên lập thân, lập
nghiệp", là cầu nối thực sự giữa thanh niên với Đảng, với hệ thống chính trị. Để làm được
điều đó, mỗi cấp bộ Đoàn phải nắm bắt đầy đủ, thường xuyên tình hình thanh niên, có
chương trình hành động cụ thể phù hợp với các đối tượng thanh niên và phối hợp với các
ngành chính quyền để thúc đẩy việc cải thiện tình hình thanh niên tại địa phương, đơn vị
mình. Mỗi cơ sở Đoàn phải nắm được số thanh niên gặp khó khăn, có biện pháp hoặc đề
xuất, kiến nghị để giúp đỡ họ. Các cấp bộ Đoàn cần chủ động tổ chức nghiên cứu, tham
khảo lấy ý kiến thanh niên và phản ánh nguyện vọng, kiến nghị của thanh niên (mà không
phải là suy nghĩ chủ quan của một số cán bộ Đoàn) với cấp uỷ, chính quyền các cấp, các bộ,
ngành và Chính phủ, về những chủ trương, chính sách có liên quan đến lợi ích của thanh
niên. Sinh hoạt Đoàn định kỳ ở tất cả các cấp phải có một nội dung không thể thiếu là đánh
giá tình hình thanh niên và đề ra các biện pháp để cải thiện tình hình thanh niên tại địa
phương, đơn vị mình. Nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn cần phải phù hợp với
nhu cầu, nguyện vọng và trình độ nhận thức của thanh niên hơn. Cần phát huy được vai trò
chủ thể của thanh niên trong các hoạt động, sinh hoạt, không để họ làm khán giả thụ động.
Cán bộ Đoàn phải kiên quyết khắc phục hành chính hoá trong công tác và sinh hoạt.
3- Một số nội dung, phong trào của Đoàn chưa tác động hoặc chưa đủ sức tập
hợp rộng rãi các đối tượng thanh niên cả nước, nhất là ở khu vực đường phố, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; công tác tập hợp và phát huy vai
trò của trí thức trẻ, văn nghệ sĩ trẻ chưa được quan tâm thoả đáng. Vẫn còn những hoạt động
hình thức, nặng về bề nổi, thiếu chiều sâu, không bền vững, nhất là chưa quan tâm đến hiệu
quả thực tế.
Đòi hỏi Đoàn phải thực sự đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động mới thu
hút, tập hợp, giáo dục thanh niên đạt hiệu quả. Nội dung và phương thức hoạt động của
Đoàn phải bắt nhịp và đón đầu được sự phát triển về trình độ văn hoá của thanh niên, sự đa
dạng của nhu cầu, sở thích của các đối tượng thanh niên, công tác Đoàn phải thực sự là một
7



khoa học, nghệ thuật. Đoàn phải chủ động khai thác, sử dụng các phương tiện hiện đại, như:
truyền hình, internet để giáo dục, định hướng hoạt động cho thanh thiếu nhi. Cần phải xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, đơn vị để các hoạt động của Đoàn không bị phân
tán, tập trung mọi nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đoàn. Cán bộ Đoàn cần
nghiên cứu chuẩn bị tốt nội dung cho mỗi buổi sinh hoạt, mỗi hoạt động để đảm bảo sự hấp
dẫn và hiệu quả, phù hợp với đối tượng của mình. Cần tham khảo các tài liệu hướng dẫn,
các phương tiện thông tin đại chúng, tham khảo ý kiến của những người lớn tuổi tại địa
phương, đơn vị, phát huy được trí tuệ tập thể của đoàn viên, thanh niên trong quá trình
chuẩn bị và triển khai các hoạt động. Cần tìm hiểu, đánh giá được phản ứng, nhận xét của
thanh niên sau mỗi hoạt động để không ngừng cải tiến, nâng cao hiệu quả hoạt động. Để
làm được những việc đó, mỗi cấp bộ Đoàn cần phải có kế hoạch để nâng cao trình độ,
nghiệp vụ, năng lực cho đội ngũ cán bộ Đoàn.
4- Chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn, chất lượng cán bộ Đoàn chưa đáp ứng yêu
cầu công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên. Khả năng tập hợp, thuyết phục, tuyên truyền
vận động thanh niên của nhiều cán bộ đoàn yếu kém; thiếu đức tính hy sinh, ngại tiếp xúc
với thanh niên; tính gương mẫu chưa cao; đòi hỏi nhiều hơn cống hiến; xuất hiện tình trạng
công chức hoá đội ngũ cán bộ đoàn. Cán bộ của Đoàn luôn trong tình trạng thiếu về số
lượng, yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, nguyên do nhiều cấp bộ Đoàn tuyển dụng cán bộ đầu
vào không đủ tiêu chuẩn, còn nể nang trong tuyển dụng, chính sách đầu ra cho cán bộ đoàn
không được quan tâm đúng mức. Vai trò, vị trí và tính tiền phong gương mẫu của đoàn viên
trong thanh niên và trong xã hội chưa rõ, chưa được phát huy đầy đủ. Chất lượng sinh hoạt
Đoàn thiếu chiều sâu
Những vấn đề trên yêu cầu Đoàn phải tập trung củng cố tổ chức, đổi mới nội dung,
phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn. Khắc phục biểu hiện hành chính
hóa, quan liêu, phô trương hình thức trong Đoàn.Nhanh chóng khắc phục sự bất cập của đội
ngũ cán bộ Đoàn các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn có trình độ, năng lực, có khả năng
vận động, tập hợp thanh niên trong giai đoạn mới. Đổi mới mạnh mẽ phong cách làm việc
và phương pháp công tác của cán bộ đoàn.
--------------------------


Chuyên đề 2
XÂY DỰNG HÌNH MẪU THANH NIÊN THỜI ĐẠI MỚI VÀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG,
PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
A. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của công
tác Đoàn và phong trào thanh niên, thái độ và ý thức chính trị của thanh niên có nhiều
chuyển biến tích cực; thanh niên chủ động hơn, quan tâm hơn và có trách nhiệm hơn với
những vấn đề của đất nước và quốc tế. Lòng nhân ái, nhân văn, tính tích cực chính trị - xã
hội và tinh thần xung phong, tình nguyện, ý thức chia xẻ, tương thân, tương ái của thanh
niên ngày càng được khơi dậy mạnh mẽ và khẳng định bằng những hành động, nghĩa cử cao
đẹp trong cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, một bộ phận thanh niên thiếu ý thức rèn
luyện, non kém về nhận thức chính trị, chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn, sống
thực dụng, thụ động, thờ ơ, ngại tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, vi phạm pháp
luật, tin vào những điều mê tín dị đoan…
8


Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề bồi dưỡng, hình thành
lớp thanh niên có đầy đủ phẩm chất và năng lực, đại diện cho thế hệ thanh niên mới đáp yêu
cầu của thời đại, nhu cầu nguồn nhân lực trẻ của đất nước và phát huy ảnh hưởng tích cực
trong công tác giáo dục thế hệ trẻ là một nội dung hết sức quan trọng của công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi. Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:
Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng cách mạng, có
bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam.
B. Nội dung
I. Quan điểm mục tiêu xây dựng hình mẫu thanh niên trong thời đại mới theo
Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX.
1. Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng cách

mạng, có bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam với những phẩm chất cơ bản như sau:
- Giàu lòng yêu nước, biết xử lý hài hoà lợi ích của bản thân trong lợi ích chung của
tập thể, cộng đồng;
- Có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng;
- Có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi;
- Có văn hóa và sống tình nghĩa;
- Có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh;
- Giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần tình nguyện.
2. Hướng tới mục tiêu ngày càng có nhiều những cán bộ quản lý trẻ giỏi, doanh
nhân trẻ giỏi, công nhân trẻ giỏi, nhà khoa học trẻ giỏi, chiến sỹ trẻ giỏi, văn nghệ sỹ
trẻ giỏi...tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trong thời kỳ hội nhập.
II. Những nội dung cơ bản trong xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới
1. Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước
1.1- Tổng kết toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chỉ rõ
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến mọi thắng lợi của quá trình đó, Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước”.
1.2- Phát huy truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc: Suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước, cũng như quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, lớp lớp các thế hệ thanh niên Việt Nam không quản ngại khó khăn, gian khổ,
thậm chí phải xả thân quên mình vì Tổ quốc thân yêu. Truyền thống yêu nước đã nâng lên
và trở thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam.
1.3- Chủ nghĩa yêu nước là điểm cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam: Là
sợi dây bền chặt nhất gắn bó mỗi người dân Việt Nam trong mọi hoàn cảnh, tinh thần yêu
nước được coi là một thứ quý (lời Bác Hồ). Do đó, các cấp bộ Đoàn phải thường xuyên
tuyên truyền, giải thích cho đoàn viên, thanh thiếu nhi; làm cho tinh thần yêu nước phải trở
thành hành động cách mạng thiết thực của tuổi trẻ trong học tập, lao động, sinh hoạt và
công tác hằng ngày.

2. Xây dựng lớp thanh niên có lối sống đẹp, có lý tưởng cách mạng
2.1- Đảng ta và Bác Hồ luôn coi việc bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ là một vấn đề
trọng tâm của cách mạng, quan hệ tới tương lai dân tộc, tiền đồ của sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Đối với lớp trẻ phải coi trọng bồi dưỡng cả đạo đức và tài năng, trong đó phải đặc
biệt quan tâm bồi dưỡng lý tưởng cách mạng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
đã chỉ rõ: “Đối với thế hệ trẻ thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo
9


đức, lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giảI trí, phát triển thể lực, trí tuệ góp phần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
2.2- Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng là gì?
- Theo từ điển tiếng Việt: Lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta
phấn đấu đạt tới. Như vậy, đã là con người, ai cũng cần có lý tưởng để phấn đấu. Đặc biệt ở
lứa tuổi thanh niên - Tuổi đẹp nhất của đời người, mỗi thanh niên dù ở điều kiện và cương
vị khác nhau đều hướng tới những mơ ước cao nhất và đẹp nhất của đời mình. Tuy nhiên,
phấn đấu để đạt được lý tưởng bao giờ cũng là sự phấn đấu lâu dài và đầy gian nan, thậm
chí phải xả thân quên mình.
- Cùng với sự lãnh đạo, tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước, sự định hướng của tổ
chức Đoàn, mỗi thanh niên cần có ý chí cao để thực hiện lý tưởng đúng đắn của mình.
- Trong phạm trù lý tưởng, các lĩnh vực sau đây là quan trọng nhất, đó là:
+ Lý tưởng chính trị - xã hội: Phấn đấu cho mục đích cao cả và tốt đẹp nhất về mặt xã
hội, đây là lĩnh vực quan trọng nhất thể hiện trách nhiệm của bản thân đối với xã hội của
mỗi con người.
+ Lý tưởng đạo đức: Rèn luyện, phấn đấu cho một xã hội và cho cá nhân mình có đạo
đức và phẩm giá cao đẹp, hình thành chuẩn mực giá trị xã hội.
+ Lý tưởng nghề nghiệp: Học tập, lựa chọn, phấn đấu để có một nghề yêu thích. Thực
tế cho thấy, đứng trước ngưỡng của cuộc đời mà thanh niên phải lựa chọn, thì vấn đề chọn
nghề cho mình bao giờ cũng là vấn đề khó khăn và nhiều bất ngờ nhất.

+ Lý tưởng thẩm mỹ: Quan niệm về cái đẹp, đánh giá cái đẹp, hướng tới cái đẹp cả
nội dung bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài.
Trong 4 lĩnh vực trên, lý tưởng chính trị - xã hội là quan trọng nhất.
- Lý tưởng chính trị - xã hội hiện nay của thanh niên cần rèn luyện, phấn đấu và vươn
tới chính là “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đó là mục tiêu phấn đấu của cách mạng
Việt Nam, là trọng tâm công tác bồi dưỡng giáo dục tuổi trẻ, đối với Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh với chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên thì vấn đề này càng trở
nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, nội dung cụ thể của giáo dục lý tưởng chính trị
- xã hội cho đoàn viên, thanh niên là:
+ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, cần cù lao động, năng động, sáng tạo, quyết
tâm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
+ Quá trình hội nhập với quốc tế phải tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; phải giữ vững độc lập, tự chủ, tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài.
2.3- Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và xây dựng lối sống đẹp trong thanh niên có
mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
- Mỗi thanh niên vừa có lý tưởng cách mạng, vừa có lối sống đẹp - Đó là những
người làm tròn trách nhiệm của mình đối với xã hội, là người con hiếu thảo trong gia đình,
là công dân tốt, là những người có hành động và nghĩa cử đẹp…
- Đoàn thanh niên các cấp cần tập trung làm tốt một số nội dung sau:
+ Tuyên truyền để thanh niên rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân, xây
dựng lối sống có văn hoá.
+ Động viên thanh niên tích cực học tập, lao động sáng tạo, chủ động vươn lên lập
thân, lập nghiệp và làm giàu chính đáng.
+ Nêu cao tinh thần xung phong tình nguyện, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao.
10



2.4- Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và lối sống đẹp cho thanh niên cũng chính là
thực hiện nội dung “Xây hoài bão lớn” cho tuổi trẻ Việt Nam.
- Theo từ điển tiếng Việt: Hoài bão là ấp ủ trong lòng ý muốn làm những điều lớn lao,
tốt đẹp.
+ Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn chính là hoài bão lớn của cả dân tộc ta. Vì vậy, thanh niên phải có hoài
bão lớn thì mới trở thành lực lượng xung kích cách mạng, góp phần thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của Đảng và dân tộc là “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
+ Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài
phát biểu chỉ đạo quan trọng và thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng thanh niên
Việt Nam bức trướng mang dòng chữ: “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, đoàn kết, sáng
tạo, xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Lý tưởng, hoài bão, lối sống đẹp xét đến cùng đều gắn với những điều tốt đẹp. Do
đó, trong giao đoạn cách mạng hiện nay, mỗi thanh niên cần phải ấp ủ trong mình những
hoài bão lớn - Đó cũng là khẳng định trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự phát triển trường
tồn của dân tộc.
3. Xây dựng lớp thanh niên có bản lĩnh văn hoá con người việt nam
3.1- Văn hoá là gì?
- Văn hoá có rất nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung lại, văn hoá là tổng thể
các hoạt động sáng tạo của các cá nhân, các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Hoạt động
sáng tạo ấy tạo nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu, tập quán - Những yếu tố
xác định đặc tính mỗi dân tộc.
- Văn hoá cũng là sức mạnh tạo ra của cải vật chất và văn minh tinh thần của xã hội.
Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Con người không phải ngay khi sinh ra đã có văn hoá, mà phải được nuôi dưỡng,
dạy dỗ, rèn luyện để biết suy nghĩ và động theo các chuẩn mực xã hội, để trở thành người
có văn hoá. Vì thế, thanh niên muốn có bản lĩnh văn hoá của con người Việt Nam, thì không
cách nào khác, đó là phải được bồi dưỡng, giáo dục truyền thụ lý tưởng và không ngừng rèn

luyện, vươn lên để trở thành người có văn hoá, làm những công việc ích nước, lợi dân và
phát triển bản thân.
- Khái niệm bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam là một nét độc đáo dược khẳng
định trong trong đường lối phát triển văn hoá và xây dựng con người mới của Đảng ta được
thể hiện rõ nhất ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII và Hội nghị Trung ương 10
khoá IX xủa Đảng và được tiếp tục trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: “Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc trong thời kỳ CNH-HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn
hoá trong thanh niên, học sinh sinh viên đặc biệt lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ,
đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”
3.2- Nền văn hoá nước ta đã có những đặc trưng của một nền văn hoá tiên tiến.
* Một nền văn hoá tiên tiến là:
- Tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trí, về trình độ khoa học công nghệ.
- Tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống.
- Tiến tiến chính là sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống.
* Nền văn hoá nước ta hiện nay có đặc trưng của một nền văn hoá tiên tiến, đó là :

11


- Dân tộc ta có nền văn hoá lâu đời với mấy ngàn năm lịch sử, giàu tinh hoa, giàu tính
nhân văn và nhiều sáng tạo. Sức mạnh ấy được tôi luyện và phát huy trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến là sự kết hợp truyền thống dân tộc với chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Mọi hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thụ lý tưởng cách mạng, văn hoá,
nghệ thuật của từng cá nhân, tập thể ở nước ta đều hướng vào xây dựng một nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Tuy rất tự hào về truyền thống, khẳng định những giá trị văn hoá tốt đẹp của nước
nhà, thanh niên chúng ta cần phải nhận thức rõ một số điểm hạn chế sau:

- Một là: Cách suy nghĩ và lối sống thiếu văn hoá của một bộ phận thanh niên đang
trở thành một vấn đề hết sức nhức nhối của xã hội (động lắc, đầu tóc, trang phục...).
- Hai là: Tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật, mắc tệ các nạn xã hội trong thanh
niên ngày càng có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng lớn đến thuần phong mỹ tục của dân tộc
(ma tuý, đua xe, phạm tội...).
- Ba là: Thanh niên là đối tượng tiếp cận gần như đầu tiên và cũng bị ảnh hưởng lớn
nhất bởi văn hoá phẩm độc hại (đặc biệt là internet “đen”, sách - đĩa phản văn hoá, đồi
truỵ... ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của giới trẻ hiện nay).
III. đổi mới nội dung, phương thức giáo dục của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh
1. Vị trí, vai trò công tác giáo dục của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
1.1- Hoạt động giáo dục là chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
- Hoạt động giáo dục của Đoàn là giáo dục ngoài nhà trường, giáo dục thông qua các
hoạt động thực tiễn, thực hiện nguyên lý giáo dục: lý luận kết hợp với thực tiễn, học đi đôi
với hành.
- Hoạt động giáo dục của Đoàn là chức năng cơ bản của Đoàn. Chức năng chi phối
toàn bộ các hoạt động của Đoàn.
- Hoạt động giáo dục của Đoàn thể hiện Đoàn là trường học xã hội chủ nghĩa của
thanh niên Việt Nam.
1.2- Mục đích công tác giáo dục của Đoàn: Góp phần bồi dưỡng, đào tạo tuổi trẻ
Việt Nam trở thành nguồn lao động chất lượng cao; người chủ hiện tại và tương lai của đất
nước; người kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn.
1.3- Chủ thể trong công tác giáo dục của Đoàn:
- Chủ thể tập thể gồm:
+ Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, nhà trường,
các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp... (toàn xã hội).
+ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt
Nam, lực lượng Thanh niên xung phong, Hội các nhà Doanh nghiệp trẻ Việt Nam...
- Chủ thể cá nhân gồm:

+ Cán bộ và đoàn viên.
+ Đảng viên, cán bộ các đoàn thể nhân dân, cán bộ các lực lượng vũ trang...
+ Chính bản thân thanh niên: Họ vừa là khách thể nhận sự giáo dục và là chủ thể tự
rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Phải nhấn mạnh việc thanh niên tự giáo dục (biến quá trình
giáo dục thành quá trình tự giáo dục), tự rèn luyện, tự chịu trách nhiệm.
1.4- Đổi mới phương thức giáo dục của Đoàn:
- Đổi mới phương thức giáo dục của Đoàn là nhiệm vụ cần thiết.
12


- Cần đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục phù hợp với địa phương, đơn vị,
đối tượng và nội dung.
- Phải khẳng định: Phương thức giáo dục của Đoàn là tổng thể các hoạt động của
Đoàn, Hội. Những hoạt động đó bao gồm: các hoạt động về tổ chức như: tập hợp, vận động,
đoàn kết thanh niên; xây dựng tổ chức Đoàn trong sạch, vững mạnh; tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Thông qua phong trào hành động cách mạng,
phong trào thi đua yêu nước để giáo dục, rèn luyện thanh niên.
2. Để thực hiện tốt các nội dung trên, từ nay đến hết nhiệm kỳ IX, các cấp bộ
Đoàn phải tập trung và làm tốt các nội dung sau
2.1- Tổ chức tốt việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ IX: Coi đây là đợt sinh hoạt chính trị, học tập, quán triệt và tuyên
truyền Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX một cách sâu rộng, thiết thực trong
đoàn viên, thanh niên.
2.2- Tiếp tục triển khai thực hiện CVĐ “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác” với các nội dung cụ thể:
* Phương châm chỉ đạo thực hiện CVĐ trong thời gian tới là:
- Một là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng đạo đức cách
mạng của Bác thấm sâu và trở thành ý thức tự giác, thường trực trong mỗi đoàn viên và
TTN. Các cấp bộ Đoàn, đặc biệt là cán bộ chủ chốt các địa phương, đơn vị, phải luôn năng
động, sáng tạo xây dựng được nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp với

tuổi trẻ; đồng thời, phải thực sự là tấm gương sáng, gương mẫu, đi đầu thực hiện CVĐ.
- Hai là: Trong tổ chức thực hiện CVĐ, cần gắn chặt giữa “nói và làm”, “ học tập và
làm theo lời Bác”, lấy “làm theo lời Bác” làm trọng tâm. Tập trung chỉ đạo các địa phương,
đơn vị và từng đối tượng đoàn viên, thanh niên xây dựng được các chỉ tiêu cụ thể về hành
động của mình. Gắn nội dung và hình thức tiến hành CVĐ với nhiệm vụ chính trị và phong
trào hành động cách mạng “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”
và “Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” do Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ
IX phát động ở từng địa phương, đơn vị.
- Ba là: Kịp thời làm tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Tập trung xây
dựng các tập thể, cá nhân tiêu biểu, chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến
trong thực hiện CVĐ, tạo động lực thi đua sôi nổi, động viên, lôi cuốn đông đảo cán bộ,
đoàn viên, TTN tự giác thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Bốn là: Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ phận, các lực lượng của tổ chức
Đoàn thanh niên từ Trung ương tới cơ sở; giữa tổ chức Đoàn với các ban, ngành, đoàn thể
các cấp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong tổ chức, triển khai CVĐ; đưa kết quả CVĐ
vào chỉ tiêu thi đua, khen thưởng hằng năm trong hệ thống tổ chức của Đoàn thanh niên.
* Các hoạt động cụ thể cần tập trung:
- Tổ chức sinh hoạt chi đoàn theo nội dung “5 xây - 5 chống”. Nội dung cụ thể của
“5xây - 5 chống” là:
+ Xây dựng tinh thần đoàn kết, tình nguyện, tương thân, tương ái vì cộng đồng;
Chống lối sống bàng quan, vị kỷ cá nhân, thiếu trách nhiệm của tuổi trẻ.
+ Xây dựng ý thức tiết kiệm, tiêu dùng đúng khả năng, thực hiện cần kiệm là nếp
sống đẹp của tuổi trẻ; Chống tham nhũng, lãng phí, xa hoa trong sinh hoạt, lao động.
+ Xây dựng thái độ học tập, nghiên cứu khoa học thực chất, làm việc gì cũng phải
học, học suốt đời; bồi đắp ý chí tự lực, tự cường, tự tin trong hội nhập kinh tế quốc tế;
Chống tiêu cực, bệnh thành tích trong học tập, thi cử; sự tụt hậu về trình độ, kiến thức khoa
học và nhận thức xã hội, những biểu hiện tự ti, mặc cảm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
13



+ Xây dựng tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, kỷ luật, trong lao động phấn đấu đạt
năng xuất và chất lượng cao; Chống chây lười, thụ động, ỷ lại, thiếu sáng tạo, vô kỷ luật
trong lao động.
+ Xây dựng ý thức công dân, ý thức cộng đồng, thói quen ứng xử văn hóa, tôn trọng
và bảo vệ lẽ phải, tích cực tham gia xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Chống
tự do, tùy tiện, biểu hiện coi thường pháp luật cũng như các hành vi thiếu văn hóa trong đời
sống, các hành vi xâm hại đến lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
- Triển khai xây dựng tủ sách, sổ vàng thanh niên, nhật ký cá nhân “Học tập và làm
theo lời Bác”.
- Ban hành tiêu chí danh hiệu “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác”. Tổ chức tuyên
dương “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác” trong các đối tượng thanh niên, cấp tỉnh và
cấp toàn quốc 5 năm 2 lần.
- Phát hiện nhân rộng các điển hình tiên tiến coi đây là một phương thức giáo dục có
hiệu quả, nhiệm vụ thường xuyên của các cấp bộ Đoàn. Triển khai thực hiện Chương trình
“Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam” trong thanh thiếu nhi cả nước: Tổ chức để các nhà
hoạt động xã hội, các nhà khoa học, các doanh nhân, văn nghệ sỹ nổi tiếng các điển hình
tiên tiến trong các lĩnh vực giao lưu, trao đổi với thanh thiếu nhi để định hướng lý tưởng, lối
sống, kỹ năng sống cho thanh thiếu nhi.
2.3- Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của Đoàn:
* Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục chính trị cho đoàn viên, thanh niên:
- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương sửa đổi, bổ sung nội dung chương trình lý
luận chính trị cho ĐVTN theo hướng thiết thực, phù hợp với các đối tượng thanh niên.
- Thử nghiệm và mở rộng các hình thức thông tin, trao đổi trực tuyến thông qua mạng
internet, các diễn đàn trên truyền hình, phát thanh; đa dạng hoá các hình thức cung cấp
thông tin cho thanh niên.
- Xây dựng và phát triển đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên của
Đoàn.
* Tăng cường giáo dục truyền thống cho thanh thiếu nhi:
- Tổ chức thường xuyên “Hành trình đến với bảo tàng, đến với các địa danh lịch sử”.

Tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn: 80 năm ngày thành lập Đảng (2010); 55
năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (2009); 120 năm ngày sinh của Bác (2010); 35 năm
ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (2010); 65 năm ngày thành lập nước
(2010); 80 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2011); 70 năm ngày thành lập
Đội TNTP Hồ Chí Minh (2011); 55 năm ngày truyền thống Hội LHTN Việt Nam vào năm
(2011); 60 năm ngày truyền thống học sinh, sinh viên và Hội SVVN (2011; 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội (2010) và các sự kiện của địa phương, đơn vị.
- Biên soạn và phát hành các ấn phẩm giáo dục truyền thống, lịch sử dân tộc, địa
danh lịch sử, danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc, gương liệt sỹ…dưới dạng VCD, DVD,
CD-ROM; Phối hợp với các Đài truyền hình, các công ty tổ chức sự kiện sản xuất các
chương trình trò chơi, tái hiện các sự kiện lịch sử truyền thống… trên sóng phát thanh,
truyền hình.
* Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh thiếu nhi:
- Phối hợp tổ chức tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
trên địa bàn dân cư”.
- Tổ chức các hội nghị biểu dương, tôn vinh các gia đình văn hoá trẻ tiêu biểu các cấp
tiến tới hội nghị các gia đình văn hoá trẻ toàn quốc.
* Giáo dục pháp luật và ý thức công dân cho thanh thiếu nhi:
14


- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu nhi.
- Xây dựng tủ sách nghiệp vụ, pháp lý ở từng cơ sở Đoàn.
* Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc, tinh thần cảnh giác cách mạng cho thanh thiếu nhi
trong tình hình mới:
- Định kỳ tổ chức các buổi nói chuyện thời sự, gặp gỡ, đối thoại với thanh niên về
tình hình trong nước và quốc tế.
- Tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nghĩa vụ và trách
nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm thất bại mọi âm
mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù

địch. Định hướng và vận động ĐVTN sử dụng internet lành mạnh.
2.4- Phát huy các nguồn lực xã hội trong bồi dưỡng, giáo dục thanh thiếu nhi:
- Xã hội hóa các hoạt động của Đoàn, Hội, Đội. Vận động các tổ chức, doanh nghiệp,
tập thể, cá nhân hỗ trợ thanh thiếu nhi.
- Phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác chăm lo, bồi dưỡng, giáo
dục thanh thiếu nhi.
2.5- Nắm tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, tâm tư, nguyện vọng của thanh niên; giải
quyết các nhu cầu hợp pháp của thanh niên.
2.6- Lồng ghép các hoạt động giáo dục với các hoạt động trong hệ thống của Đoàn,
vớí các hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
2.7- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác giáo dục của Đoàn; có
hình thức khen đúng, kịp thời những cơ sở làm tốt.
C. Kết luận
Xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới và đổi mới nội dung, phương thức giáo
dục của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là nội dung rất quan trọng của công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi trong thời gian tới. Quan tâm và tập trung làm tốt, làm có hiệu
quả các nội dung trên sẽ giúp cho đoàn viên, thanh niên nâng cao ý thức chính trị, rèn luyện
tác phong, tu dưỡng đạo đức cách mạng, có phẩm chất trong sáng và lối sống cao đẹp, xứng
đáng là lớp người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “Hồng”, vừa “Chuyên” như Đảng
ta và Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn và tin tưởng ở thanh niên.

Chuyên đề 3:
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
-------------

I. các cơ sở đề xuất phong trào hành động cách mạng của đoàn tncs hồ chí minh:
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên và công tác thanh
niên.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò và vị trí của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, Người căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin
và mong đợi ở thanh niên, Người chỉ rõ “Dân tộc Việt nam có được vẻ vang sánh vai các
cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Người cũng biểu lộ một niềm tin vững chắc vào thế hệ trẻ, là lớp người “Xung phong trong
công tác phát triển kinh tế, văn hoá, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ” và “Trong
mọi việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh
niên”.
15


- Trên cơ sở nhìn nhận vai trò quyết định của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng
và tương lai của dân tộc, đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt tới
công tác thanh niên, với luận điểm nổi tiếng “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
trăm năm thì phải trồng người”. Bác cũng chỉ rõ nội dung công tác thanh niên là hình thành
“Lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên”. Đề cập đến vai trò
của Đoàn thanh niên trong việc xung kích thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước,
Bác căn dặn: “Về phần mình Đoàn phải nghiên cứu, tìm ra những hình thức và phương
pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc để làm
tròn những nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó cho thanh niên...".
- Bác lưu ý: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ nhất,
nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên xung phong đều làm cho tốt". Người chỉ ra
cần phát động phong trào thi đua và mọi người dân, trong đó có thanh niên phải hăng hái
tham gia: "Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những
người yêu nước nhất " .
- Như vậy, phương pháp giáo dục thanh niên mà Bác Hồ dạy chúng ta là phải giáo
dục thanh niên trong hành động, trong thực tiễn, phải đào tạo bồi dưỡng thanh niên bằng
thử thách qua việc giao nhiệm vụ khó khăn với lòng tin yêu, tạo điều kiện và cổ vũ động
viên thanh niên hoàn thành nhiệm vụ là "Cách tốt nhất" , là phương pháp phù hợp với đặc

điểm thanh niên.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của thanh niên và
công tác thanh niên.
- Lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của mình, trong suốt lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn quan tâm tới thanh niên và công tác thanh niên, với các quan điểm cơ bản như
sau:
- Thanh niên và công tác thanh niên có vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đảng luôn xác định Đoàn thanh niên là “Đội quân
xung kích của cách mạng và là lực lượng hậu bị của Đảng", có thể đi bất cứ nơi đâu, làm
bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng yêu cầu. Từ vai trò chiến lược to lớn của thanh niên, Đảng ta
coi chính thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con
người.
- Đảng luôn quan tâm chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển,trưởng thành của thanh niên: “Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều
kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng
cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khoẻ, lao động giỏi, sống có
văn hoá và nghĩa tình, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”.
- Đảng ta luôn coi trọng việc tổ chức, phát huy lực lượng và tiềm năng của thanh niên
với quan điểm thanh niên là lực lượng kế thừa cách mạng, là lực lượng xung kích cách
mạng: “ Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to
lớn của thanh niên để thanh niên thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu
tranh chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội văn
minh”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII nêu rõ
“Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên”.
- Trong giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác
định cần “ Xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng
16



và tổ chức, thực sự là đội dự bị tin cậy của Đảng, là hạt nhân chính trị của phong trào thanh
niên”.
- Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng tiếp tục đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định đối với thế hệ trẻ: "Thường xuyên giáo dục
chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
làm nòng cốt và phụ trách.
- Trên đây là những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò
của thanh niên và công tác thanh niên. Nắm chắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan
điểm của Đảng là yếu tố hết sức quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác thanh
niên và công tác Đoàn, phong trào thanh thiếu nhi trong hiện tại và tương lai.
1.3. Cơ sở đề xuất phong trào hành động cách mạng của tổ chức Đoàn.
- Đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, là đội quân xung kích cách mạng
do đó Đoàn cần tổ chức các phong trào hành động cách mạng để thu hút tập hợp thanh niên
tham gia các hoạt động phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, góp
phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn là hạt
nhân chính trị của phong trào thanh niên, do đó Đoàn phải là nòng cốt chính trị của Hội
LHTN Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam trong việc tổ chức các hình thức tập hợp đoàn kết
thanh niên, phát huy tinh thần xung phong, tình nguyện và khả năng sáng tạo của thanh niên
để động viên thanh niên tham gia phát triền kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Đoàn là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, do đó Đoàn cần tổ chức các
hoạt động kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN để tạo môi trường bồi
dưỡng, rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ và phát huy những tiềm năng, thế mạnh của thanh
niên, thông qua đó tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên các chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí vươn lên. Tổ chức Đoàn

các cấp cũng phải góp phần dắc lực trong việc định hướng giá trị cho thanh niên, hướng họ
tới cái thật, cái tốt, cái đẹp trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng an ninh
và các quan hệ xã hội khác; góp phần hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường tác động
tới thanh niên.
- Đoàn là người đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thanh niên, do đó
Đoàn cần tổ chức và tạo điều kiện cho thanh niên đảm nhận các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
giữ vững quốc phòng, an ninh để ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống, làm giàu cho
bản thân, gia đình và cho đất nước. Đoàn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp,
tích cực hướng dẫn, hỗ trợ thanh niên tự lập thân, lập nghiệp bằng các hình thức thiết thực
hiệu quả, sẵn sàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của thanh niên.
1.4. Cơ sở đề xuất phong trào 5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, nhiệm kỳ 2007 - 2012.
- Đoàn cần phải phát huy tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ Việt Nam xung kích “Sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện
thắng lợi công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước’’ vì mục tiêu Dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Phong trào thanh niên trong nhiệm kỳ 2007- 2012 phải là sự kế thừa và phát triển
các phong trào hành động cách mạng của thanh niên trong các thời kỳ đã qua, tiếp tục thực
hiện chức năng đội quân xung kích cách mạng của Đoàn. Trong đó phải thể hiện rõ vai trò
17


xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ CNH- HĐH.
- Nội dung phong trào thực sự thiết thực, phù hợp với các đối tượng thanh niên trong
xung kích phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tạo môi trường
giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, kết hợp hài hoà việc bảo vệ, chăm lo, bồi dưỡng và phát
huy thanh niên thông qua các phong trào hành động cách mạng trong thanh niên.
Do đó, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã quyết định phát động phong trào "5
xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc" nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng

của thanh niên, đồng thời tạo môi trường giáo dục, rèn luyện cho thanh niên, vì sự phát triển
của thanh niên, của cộng đồng và đất nước.

II. Nội dung, giải pháp phát huy vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, nhiệm kỳ 2007 - 2012:
2.1. Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.1. Kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2002 - 2007.
- Trong nhiệm kỳ qua, phong trào thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo trong các đối
tượng thanh niên đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Nổi bật là phong trào "Sáng tạo trẻ " với
phương châm " Mỗi đoàn viên, thanh niên một ý tưởng sáng tạo, mỗi chi đoàn là một hộp
thư sáng kiến, mỗi cơ sở Đoàn là một vườn ươm sáng tạo". Trong thanh niên nông thôn là
phong trào " 4 mới " góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong thanh niên trường học là các hoạt động thi đua học tập, nghiên cứu khoa học với nội dung " Học tập tốt,
rèn luyện tốt". Tuy nhiên, việc cụ thể hoá các nội dung của phong trào"Sáng tạo trẻ"," Bốn
mới " chưa thực sự phù hợp trong từng đối tượng thanh niên; tính bền vững của phong trào
chưa cao; một số địa phương còn lúng túng hoặc mang tính hình thức trong chỉ đạo thực
hiện, chưa thực sự tạo được động lực để huy động thanh niên tham gia phong trào.
- Với mục tiêu phát huy tinh thần lao động sáng tạo và vai trò tiền phong gương mẫu
của thanh niên trong lao động với năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn và hiệu quả thiết
thực hơn. Động viên thanh niên tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế- xã hội
của địa phương và cả nước, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX thống nhất triển khai trong
đoàn viên thanh niên cả nước nội dung Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã
hội.
2.1.2. Nội dung và biện pháp cụ thể.
* Nội dung: (Đề nghị nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đoàn IX).
* Biện pháp.
- Triển khai rộng khắp phong trào " Tuổi trẻ sáng tạo "trong thanh thiếu nhi. Tổ chức
Festival tuổi trẻ sáng tạo cấp tỉnh và toàn quốc 5 năm 2 lần; cấp huyện tổ chức hàng năm
cho các khối đối tượng với mục tiêu ở đâu có đoàn viên và hoạt động Đoàn, ở đó có hoạt
động sáng tạo. Cụ thể:

+ Trong trường học: đề xuất ý tưởng sáng tạo, sáng kiến đổi mới nội dung phương
pháp dạy và học, nâng cao năng lực nghiên cứu và thực hành.
+ Trong các cơ quan hành chính, công sở, nhà máy xí nghiệp: nghiên cứu sáng kiến
trong quản lý, xây dựng phong cách, tác phong công nghiệp, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ.
+ Trong đô thị: đề xuất sáng kiến xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng nếp sống văn
minh đô thị.
+ Trong nông nghiệp và nông thôn: xung kích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ vào sản xuất và đời sống.
18


+ Trong lực lượng vũ trang: nghiên cứu phát huy sáng kiến trong huấn luyện, bảo
quản, sử dụng trang thiết bị.
- Triển khai chương trình Hỗ trợ sáng kiến, ý tưởng sáng tạo của thanh thiếu niên: cấp
cơ sở hình thành các giải thưởng, học bổng, lập các CLB hỗ trợ sáng kiến; cấp huyện trở lên
có thể xây dựng các quỹ hỗ trợ; cấp tỉnh tham mưu chính sách khuyến khích và hỗ trợ thanh
niên triển khai thực hiện các ý tưởng, sáng kiến.
- Triển khai thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, đất nước:
+ Cấp Trung ương và cấp tỉnh đảm nhận xây dựng các Làng thanh niên lập nghiệp,
dự án nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, Đảo thanh niên... qui mô lớn. Xây dựng và triển khai
chương trình thanh niên tham gia thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 của
Chính phủ.
+ Cấp huyện và cơ sở đăng ký đảm nhận xây dựng hạ tầng nông thôn, xây dựng và
nhân rộng các mô hình tổ hợp tác thanh niên. Triển khai các hoạt động chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
- Các cấp bộ Đoàn đăng ký đảm nhận các công trình phần việc thanh niên, các đề tài
khoa học, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực; chú trọng nâng cao chất lượng và
xây dựng thương hiệu sản phẩm trong sản xuất kinh doanh và thương hiệu doanh nghiệp.

2.2. Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
2.2.1. Kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2002- 2007.
- Trong nhiệm kỳ qua, phong trào thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng tập
trung hướng vào giải quyết những khó khăn, bức xúc của cộng đồng, hỗ trợ vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn với đội hình đa dạng hơn, địa bàn hoạt động rộng rãi hơn, thời gian hoạt
động dài hơn. Coi trọng các hoạt động tình nguyện tại chỗ, tình nguyện chuyên sâu. Thời
gian qua đã có thanh niên tình nguyện nước ngoài tham gia hoạt động tại Việt Nam cũng
như một số địa phương đã tổ chức hoạt động tình nguyện tại nước bạn Lào, Cămpuchia.
Tuy nhiên, hoạt động tình nguyện vì cộng đồng ở một số nơi chưa thực sự phát huy hết khả
năng của thanh niên tình nguyện, cá biệt có nơi hoạt động và khả năng của lực lượng tình
nguyện chưa phù hợp với mong muốn của địa phương; còn nhiều khó khăn trong duy trì các
hoạt động tình nguyện với thời gian dài.
- Với mục tiêu phát triển phong trào "Thanh niên tình nguyện" theo hướng đa dạng về
nội dung, nâng cao về chất lượng, phù hợp với đối tượng, góp phần tập hợp, giáo dục thanh
niên và tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng, Đại hội Đoàn toàn quốc
lần thứ IX thống nhất triển khai trong đoàn viên, thanh niên cả nước nội dung Xung kích,
tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
2.2.2. Nội dung và biện pháp cụ thể:
* Nội dung (Đề nghị nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đoàn IX ).
* Biện pháp:
- Xây dựng các chương trình và đội hình tình nguyện tập trung vào giải quyết những
vấn đề bức xúc của cộng đồng; vào công tác xoá đói, giảm nghèo, sức khoẻ cộng đồng,
nâng cao dân trí, tình nguyện chi viện các công trình trọng điểm quốc gia, tham gia bảo vệ
môi trường, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai.
+ Đa dạng hoá các hình thức tình nguyện: cấp cơ sở nên th ường xuyên tổ chức các
hoạt động tình nguyện tại chỗ, tình nguyện ngắn hạn. Cấp huyện trở lên có thể tổ chức các
hoạt động tình nguyện trung hạn và dài hạn, các đội hình chuyên. Trong đó hình thức tình
nguyện thường xuyên và các đội hình chuyên đóng vai trò chủ đạo.
+ Tổ chức các đội hình tình nguyện của HSSV thường xuyên tham gia xây dựng môi
trường giáo dục ở trong và ngoài nhà trường và tham gia các đội hình tình nguyện chuyên.

19


Vận động HSSV tốt nghiệp tham gia tình nguyện dài hạn phát triển kinh tế - xã hội miền
núi, hải đảo;
+ Trong phát triển nông nghiệp, nông thôn: tổ chức các đội hình thường xuyên và đột
xuất tham gia xoá đói, giảm nghèo; phòng chống dịch bệnh, thiên tai; chuyển giao tiến bộ
KHKT. Tham gia dài hạn các chương trình, dự án phát triển hạ tầng và kinh tế- xã hội nông
thôn.
+ Trong công nghiệp, dịch vụ và các cơ quan hành chính: tổ chức thường xuyên các
“Ngày thứ bẩy tình nguyện“, đảm nhận các nhiệm vụ khó khăn, đột xuất, các việc mới, việc
khó trong nhiệm vụ chuyên môn và sản xuất, kinh doanh.
+ Trong khu vực đô thị: đăng ký đảm nhận thường xuyên các “Tuyến đường ATGT
thanh niên”, “Ngõ phố văn minh”. Tổ chức tốt các hoạt động truyền thông về dân số- sức
khoẻ- môi trường, các đội hình tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
- Các cấp bộ Đoàn triển khai thực hiện tốt việc đăng ký, lựa chọn lực lượng tham gia
tình nguyện có đủ sức khoẻ, kỹ năng chuyên môn và tinh thần tình nguyện. Làm tốt công
tác phối hợp giữa đơn vị, nhà trường có lực lượng tình nguyện và địa phương nơi đến hoạt
động tình nguyện.
- Phát triển tình nguyện quốc tế, tiếp tục chương trình đưa thanh niên đi tình nguyện
ở Lào, Campuchia và một số nước theo hướng thiết thực, phù hợp, trên cơ sở chuẩn bị kỹ
lưỡng và chu đáo. Tiếp nhận và phát huy hiệu quả các tình nguyện viên quốc tế đến Việt
Nam.
- Xây dựng và triển khai dự án “Trí thức trẻ tình nguyện xây dựng nông thôn, miền
núi” và Đề án “Đoàn thanh niên tham gia bảo vệ môi trường’’.
2.3. Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội.
2.3.1. Kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2002 - 2007.
- Phong trào thanh niên xung kích bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và
tệ nạn xã hội được duy trì và phát triển. Trong thanh niên quân đội là phong trào " Thanh

niên quân đội mẫu mực xây dựng chính qui"; trong thanh niên công an là phong trào" Hai
thi đua, hai tình nguyện thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy". Các hoạt động tham gia giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn giao
thông ... đã trở thành hoạt động thường xuyên của các cấp bộ Đoàn trong cả nước. Tuy
nhiên, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng những hoạt động giữ gìn trật tự an toàn giao thông,
phòng chống ma tuý chưa có kết quả rõ nét; vẫn chủ yếu tổ chức theo kỳ cuộc, chưa duy trì
thường xuyên liên tục. Phong trào mới thu hút được lực lượng thanh niên tiên tiến, tích cực
tham gia.
- Với mục tiêu góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà n ước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc, Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ IX thống nhất tiếp tục triển khai trong đoàn viên, thanh niên cả nước nội dung Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
2.3.2. Nội dung và biện pháp cụ thể.
* Nội dung (Đề nghị nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đoàn IX ).
* Biện pháp:
- Triển khai cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”, chương trình “Vì các
chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo” cuộc vận động “Đền ơn đáp nghĩa”, làm tốt công tác hậu
phương quân đội, góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm và phát huy vai trò của tuổi trẻ
tham gia bảo vệ Tổ quốc. Gắn nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng an ninh với nâng cao dân trí,
xoá đói giảm nghèo, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân, nhất là khu
20


vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Tổ chức các hoạt động kết nghĩa, đỡ đầu, chi viện
cho các đơn vị, địa phương nơi biên giới, hải đảo.
- Tổ chức phong trào “Thanh niên Quân đội thi đua rèn đức, luyện tài, xung kích,
sáng tạo, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thanh niên Quân đội; phong trào
“ Tuổi trẻ
công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy - xung kích, sáng tạo, tình nguyện
lập công vì an ninh tổ quốc ” trong thanh niên Công an. Phát huy vai trò nòng cốt của thanh

niên quân đội, công an trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn
TTATXH.
- Tổ chức và triển khai phong trào đoàn kết 3 lực lượng: thanh niên lực lượng vũ
trang, thanh niên trong các nhà trường, thanh niên trên địa bàn dân cư. Phát huy vai trò
nòng cốt, xung kích của thanh niên lực lượng vũ trang trên địa bàn đóng quân và trên đường
hành quân dã ngoại thông qua các mô hình làm công tác dân vận, tham gia xoá đói giảm
nghèo, xoá mù chữ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tham gia củng cố tổ chức Đoàn, Hội trên
địa bàn.
- Hàng năm tham gia động viên thanh niên lên đường nhập ngũ đảm bảo chỉ tiêu và
chất lượng. Phối hợp tổ chức thăm hỏi, động viên thanh niên tại ngũ. Có các hoạt động đón
thanh niên xuất ngũ trở về địa phương; phối hợp với các cấp các ngành tổ chức hướng
nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho bộ đội, công an xuất ngũ. Thành lập các chi hội
Cựu quân nhân, các CLB Đồng đội để tập hợp, giúp đỡ thanh niên hoàn thành NVQS. Phát
huy vai trò nòng cốt của thanh niên hoàn thành NVQS ở địa phương trong các hoạt động
Đoàn, Hội.
- Tổ chức các đội hình thanh niên xung kích an ninh, thanh niên tự quản ở nhà máy,
công sở, trường học, địa bàn dân cư tham gia giữ gìn trật tự trị an, an toàn giao thông,
phòng chống cháy nổ, tội phạm và tệ nạn xã hội, giáo dục và cảm hoá thanh thiếu niên
chậm tiến. Xây dựng các mô hình “ Bạn giúp bạn”, “ Ngõ phố không ma tuý ”, các hoạt
động “ 3 cùng ”: cùng lao động- sinh hoạt- vui chơi
để góp phần phòng chống ma tuý.
- Triển khai Đề án “Đoàn tham gia giữ gìn trật tự, an toàn giao thông”, coi việc chấp
hành nghiêm chỉnh luật ATGT là một trong các tiêu chí rèn luyện của đoàn viên, tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng hoạt động của cơ sở đoàn.
2.4 Xung kích thực hiện cải cách hành chính.
2.4.1. Kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2002 - 2007.
- Nhiệm kỳ qua việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức trẻ, cán bộ Đoàn về
cải cách hành chính là nội dung được các cấp bộ Đoàn chú trọng triển khai. Thông qua hoạt
động xung kích thực hiện cải cách hành chính đã tạo môi trường, điều kiện để cán bộ, công
chức trẻ phát huy vai trò xung kích, chủ động, sáng tạo trong lao động và học tập, nâng cao

trình độ nghề nghiệp chuyên môn, rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ, công
chức trẻ góp phần đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhà nước. Tuy nhiên, các cấp
bộ Đoàn và cán bộ, công chức trẻ chưa thực sự quan tâm đúng mức tới cải cách hành chính;
vai trò của tổ chức Đoàn tham gia cải cáh hành chính chưa rõ nét, sự vào cuộc của đội ngũ
cán bộ công chức trẻ chưa cao, còn tư tưởng thụ động, chông chờ.
- Với mục tiêu phát huy vai trò của tổ chức Đoàn và cán bộ, công chức trẻ trong xây
dựng nền hành chính trong sạch, hiện đại, xây dựng người công chức trẻ giỏi, tận tụy với
nhân dân, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX thống nhất tiếp tục triển khai trong đoàn viên,
thanh niên cả nước nội dung Xung kích thực hiện cải cách hành chính.
2.4.2. Nội dung và biện pháp cụ thể.
* Nội dung (Đề nghị nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX).
* Biện pháp:
21


- Tuyên truyền trong thanh niên và nhân dân chương trình tổng thể cải cách hành
chính. Tổ chức cuộc thi tìm hiểu trong cán bộ, công chức trẻ về nội dung cải cách hành
chính, xây dựng người cán bộ công chức trẻ “ Năng động, sáng tạo, giỏi nghề, tận tụy, cần
kiệm”.
- Các cấp bộ Đoàn cụ thể hoá và triển khai thực hiện phong trào phù hợp với điều
kiện thực tế tại địa phương, đơn vị. Tổ chức rộng rãi phong trào "3 trách nhiệm", gồm: trách
nhiệm với bản thân, trách nhiệm với cơ quan và trách nhiệm với nhân dân.
- Vận động đoàn viên, thanh niên học tập và ứng dụng công nghệ thông tin vào công
tác chuyên môn, đề xuất các giải pháp cải cách hành chính, các mô hình quản lý hành chính
và bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả. Tạo điều kiện cho thanh niên và nhân dân có cơ
hội tiếp cận, tìm hiểu hệ thống hành chính nhà nước.
- Vận động công chức trẻ xung kích, sáng tạo trong xây dựng văn minh công sở, đề
xuất sáng kiến cải tiến quy trình quản lý và xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, tình nguyện làm thêm ngày, thêm giờ; tình nguyện tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân
giải quyết các thủ tục hành chính.

+ Trong cơ quan hành chính tập trung xây dựng mô hình “ Công sở văn minh”; cán
bộ công chức trẻ và ĐVTN đăng ký đảm nhận và tham mưu cải tiến các khâu trong quá
trình giải quyết thủ tục hành chính theo phương châm nhanh, gọn, hiệu quả.
+ Trong các doanh nghiệp, ĐVTN tham gia xây dựng “Văn hoá doanh nghiệp”; “Văn
minh thương mại”, “Doanh nghiệp thân thiện”
+Phát huy vai trò xung kích của thanh niên và tổ chức Đoàn trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
- Tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các
chính sách của Nhà nước; đề xuất sửa đổi, bổ sung những chính sách, pháp luật bất cập,
không còn phù hợp.
- Xây dựng các chuyên đề cải cách hành chính trong tổ chức Đoàn các cấp về lề lối
làm việc; về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ; về phương pháp đi
cơ sở và tiếp xúc với ĐVTN; về ban hành văn bản, văn hoá hội họp....
- Đảm nhận các công trình thanh niên, đề tài, sáng kiến cải cách hành chính. Tổ chức
các hoạt động biểu dương, tôn vinh cán bộ, công chức trẻ giỏi, những tập thể, cá nhân có
sáng kiến trong cải cách hành chính.
2.5 Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.5.1. Kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2002 - 2007.
- Hoạt động xung kích hội nhập kinh tế quốc tế trong thanh niên nói chung và của
thanh niên Doanh nghiệp trẻ Việt Nam được quan tâm, đẩy mạnh thông qua các hoạt động
của các cấp bộ Đoàn, Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam như: hoạt động xúc tiến, quảng bá
thương hiệu cho các sản phẩm Việt Nam; tổ chức các giải thưởng có uy tín như: Sao Vàng
đất Việt, Sao đỏ, Hội thi Thắp sáng tài năng kinh doanh trẻ, Hội chợ Doanh nghiệp trẻ Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng văn hóa doanh nghiệp và các hoạt động hỗ trợ
thanh niên Khởi sự doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động kinh tế, vai trò của tổ chức
Đoàn ngày càng được khẳng định, với các chương trình, các phong trào lớn, tổ chức Đoàn
đã động vũ và tổ chức cho hàng chục triệu đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia phát
triển kinh tế - xã hội; giúp thanh niên xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng,
chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian qua còn những khó khăn, hạn chế như công tác thông tin tuyên truyền chưa

được quan tâm đúng mức, mặt khác trình độ quản lý kinh tế, kiến thức ngoại ngữ, tay
nghề,... của thanh niên chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
22


- Với mục tiêu phát huy vai trò của thanh niên chủ động nắm bắt thông tin về hội
nhập kinh tế quốc tế, về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, về những cơ hội và
thách thức trong quá trình hội nhập, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã phát động trong
toàn Đoàn triển khai nội dung Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.5.2. Nội dung và biện pháp cụ thể.
* Nội dung ( Đề nghị nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX).
* Biện pháp:
- Các cấp bộ Đoàn động viên và tổ chức cho đoàn viên thanh niên tích cực học tập
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế, góp
phần giúp ĐVTN chủ động, tự tin, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
- Tổ chức rộng khắp các hoạt động tuyên truyền, định hướng, hướng dẫn thanh niên
về kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh văn hoá khi tham gia hội nhập.
- Tham mưu xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thanh niên tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế; vận động, hỗ trợ các doanh nghiệp trẻ đi đầu trong hội nhập kinh tế
quốc tế; hỗ trợ xây dựng và quảng bá thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp trẻ. Tổ chức
tốt các giải thưởng uy tín như Sao đỏ, Sao vàng Đất Việt..
- Cung cấp thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế, về cơ hội và thách thức, kinh
nghiệm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua hệ thống báo chí của Đoàn,
thông qua sinh hoạt chuyên đề.
- Xây dựng và triển khai chương trình doanh nhân trẻ đi đầu trong hội nhập kinh tế
quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác doanh nghiệp, xây dựng và quảng bá thương hiệu,
trao đổi thông tin thị trường.
- Tham mưu cho Đảng, Nhà nước chính sách hỗ trợ, khuyến khích thanh niên hội
nhập kinh tế quốc tế, chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ trong và ngoài nước; chính
sách đào tạo lãnh đạo trẻ.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
3.1. Cấp Trung ương:
- Tiếp tục nghiên cứu đề xuất với Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách và các
chương trình, dự án tạo nguồn lực hỗ trợ thanh niên xung kích lao động sáng tạo, phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc .
- Đánh giá kết quả các chương trình, nghị quyết liên tịch đã ký kết với các Bộ, ngành;
điều chỉnh các nội dung phối hợp trong thời gian tới với phương châm thiết thực, hiệu quả,
phù hợp với khả năng và điều kiện thực hiện của cơ sở.
- Thường xuyên theo dõi, đánh giá, sơ tổng kết và nhân rộng các mô hình điển hình
tiên tiến, đổi mới các hình thức biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt
phong trào.
3.2. Cấp địa phương:
- Căn cứ vào tình hình, điều kiện thực tế của từng địa phương, đơn vị, Đoàn Thanh
niên các cấp xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ IX ở cấp mình để tổ chức thực hiện.
- Chủ động xây dựng các mô hình, các chương trình dự án phù hợp với điều kiện địa
phương và khả năng tổ chức thực hiện. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, phát hiện biểu dương những mô hình, cách làm hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
----------1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X.
2. Tổng quan tình hình Thanh niên Việt Nam giai đoạn 2002 - 2007.
23


3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ IX.
4. Chương trình hành động thực hiện NQ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX.
5. Cơ sở lí luận và thực tiễn của Chiến lược phát triển thanh niên.
6. Báo cáo tổng kết các phong trào TTN nhiệm kỳ 2002 - 2007.

Chuyên đề 4:
NHỮNG NHU CẦU, LỢI ÍCH CƠ BẢN CỦA THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN

HIỆN NAY VÀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
I. Cơ sở lý luận:
1. Khái niệm về nhu cầu và lợi ích:
- Khái niệm:
Theo từ điển Bách khoa toàn thư wikipedia, nhu cầu là mong muốn, đòi hỏi, nguyện
vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển.
Lợi ích là điều có lợi, điều cần thiết. Lợi ích là mối quan hệ khách quan, không phụ
thuộc vào việc chủ thể có nhận thức được nó hay không.
- Tính chất, đặc điểm:
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cơ thể
đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu của một cá nhân là đa dạng và vô
tận.
Nhu cầu mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển sinh học
của con người, nhưng mặt khác, nhu cầu cũng mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Những nhu
cầu giống nhau nhưng ở mỗi thời đại, mỗi xã hội lại đáp ứng chúng theo các cách khác
nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội đó. Marx đã từng nói: “Cái
đói là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng thịt nấu, và ăn bằng dao, nĩa thì khác với
cái đói dùng bàn tay, móng và răng nuốt chửng thịt sống”. Bên cạnh đó, nhu cầu còn được
đáp ứng trong khuôn khổ của phong tục tập quán (văn hoá) của cộng đồng và được quy
định bởi văn hoá cộng đồng.
Nhu cầu là nguồn gốc mọi hành động của con người. Nhu cầu càng cấp bách thì khả
năng chi phối con người càng cao. Chính khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình thành trong
con người một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó.
Nhu cầu và lợi ích luôn gắn bó biện chứng với nhau. Đáp ứng nhu cầu để mang lại
những lợi ích cụ thể; đồng thời từ những lợi ích mà con người có thêm những nhu cầu mới,
tạo động lực để hành động và sáng tạo những giá trị mới.
- Phân loại nhu cầu:
Các loại nhu cầu khác nhau không tồn tại đơn lẻ, tách rời mà nằm trong mối quan hệ
ràng buộc, phụ thuộc và tương tác lẫn nhau. Chúng tạo thành một hệ thống nhu cầu. Hệ
thống nhu cầu được phân loại trên cơ sở của nhiều tiêu chí khác nhau:

+ Theo tính chất: Có nhu cầu tự nhiên (mang tính bẩm sinh như: nhu cầu ăn, ở, mặc,
an toàn tính mạng...) và nhu cầu xã hội (những nhu cầu do cuộc sống xã hội tạo nên như:
nhu cầu học tập, sáng tạo nghệ thuật, làm chính trị...).
+ Theo đối tượng thoả mãn nhu cầu: Có nhu cầu vật chất (ăn mặc, mua sắm các tiện
nghi cá nhân và gia đình...) và nhu cầu tinh thần (giao tiếp, thưởng thức nghệ thuật, vui chơi
giải trí...).
+ Theo lĩnh vực hoạt động: Có nhu cầu kinh tế, nhu cầu chính trị, nhu cầu văn hoá,
nhu cầu giáo dục, nhu cầu tâm linh...
24


+ Theo phương thức sử dụng sản phẩm của xã hội: Có nhu cầu sản xuất và nhu cầu
tiêu dùng.
+ Theo mức độ cấp thiết phải đáp ứng: Có nhu cầu tuyệt đối (nhu cầu thiết yếu bảo
đảm sự tồn tại của con người như ăn no, mặc ấm, đồ dùng đầy đủ...) và nhu cầu tương đối
(những nhu cầu được nâng cao về mặt chất lượng: ăn ngon, mặc đẹp, đồ dùng tốt...).
+ Theo nhóm xã hội: Có thể phân chia nhu cầu theo nhóm tuổi (nhu cầu của trẻ em,
nhu cầu của thanh niên, nhu cầu của người già...); theo nhóm nghề nghiệp (nhu cầu của
nhóm nông dân, công nhân, trí thức...); theo khu vực cư trú (nhu cầu của dân cư thành thị,
nhu cầu của dân cư nông thôn...)...
2. Nhu cầu và lợi ích là động lực cho sự phát triển của thanh niên; Đáp ứng nhu
cầu, lợi ích của thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tổ chức Đoàn:
2.1. Nhu cầu và lợi ích là động lực cho sự phát triển của thanh niên:
- Như đã nhận định ở trên, nhu cầu là động lực, là nguồn gốc mọi hành động của con
người. Đối với thanh niên, lớp người mới trưởng thành, có đầy đủ sức khoẻ, tri thức, giàu
tiềm năng và nhiều khát vọng thì hơn ai hết, họ là những người có nhu cầu rất đa dạng,
mạnh mẽ và cấp bách. Thanh niên cũng luôn là lực lượng xung kích đi đầu trong tìm tòi,
khám phá, sáng tạo những giá trị mới, tích cực học tập, lao động nhằm thoả mãn những nhu
cầu của mình cả về vật chất và tinh thần. Thông qua quá trình đó thanh niên được rèn luyện,
cống hiến và trưởng thành.

- Thanh niên là lớp người trẻ tuổi, nhiều ước mơ, hoài bão vì vậy những nhu cầu và
lợi ích của thanh niên có sự thay đổi, biến động khá nhanh, đôi khi nó chịu ảnh hưởng trực
tiếp của những yếu tố bên ngoài, theo trình độ và mức độ phát triển của nền kinh tế, theo
những yếu tố riêng có về tâm lý lứa tuổi... Song chính sự biến động, thay đổi về nhu cầu và
lợi ích của thanh niên lại chính là nguồn gốc, động lực cho sự sáng tạo và phát triển của
chính thanh niên.
2.2. Đáp ứng nhu cầu, lợi ích của thanh niên vừa là mục tiêu vừa là động lực của tổ
chức Đoàn (hoạt động Đoàn và phong trào thanh niên):
- Trong Điều lệ Đoàn được thông qua tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX khẳng
định: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị-xã hội của thanh niên Việt Nam”,
“Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đại diện chăm lo
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tuổi trẻ”. Vì vậy mục tiêu cao nhất của
Đoàn là tập hợp, đoàn kết, giáo dục và đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của đông
đảo đoàn viên thanh niên. Trong đó xác định phương pháp chủ đạo là thông qua nắm bắt,
đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng, từ đó tập hợp, đoàn kết thanh niên vào tổ chức
và trong các phong trào hành động cách mạng.
- Có thể nói nhu cầu của con người nói chung, nhu cầu của thanh niên nói riêng là vô
cùng đa dạng, đồng thời trước mỗi nhu cầu khác nhau sẽ có rất nhiều cách tiếp cận, nhiều
sự lựa chọn, nhiều con đường đi khác nhau để đến đích. Vấn đề ở đây là vai trò của tổ chức
Đoàn phải làm gì, định hướng ra sao và tác động như thế nào để các bạn thanh niên có thể
thuận lợi, thành công với con đường mình đã lựa chọn. Đây chính là bài toán cần có một lời
giải đúng và phù hợp đối với tổ chức Đoàn trong việc đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính
đáng, thông qua đó tập hợp, đoàn kết và gắn bó thanh niên với tổ chức.
- Tổ chức Đoàn tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và định hướng cho thanh niên
những lợi ích, nhất là lợi ích mới mà thanh niên có thể có được từ đó hình thành nên những
nhu cầu mới để đạt được những lợi ích chính đáng đó; đồng thời cũng góp phần định
hướng, hỗ trợ, tạo động lực khuyến khích thanh niên vươn lên thoả mãn những nhu cầu của
mình, góp phần phát triển cá nhân và xã hội.
25



×