Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG lực PHẢN BIỆN CHO học SINH TRONG dạy học LỊCH sử VIỆT NAM lớp 11 tại TRƯỜNG THPT CHUYÊN bắc GIANG THỰC NGHIỆM sư PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.99 KB, 71 trang )

CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC PHẢN BIỆN CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM LỚP 11 TẠI TRƯỜNG
THPT CHUYÊN BẮC GIANG.
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

1


- Những điều kiện cần và đủ để phát triển năng lực phản
biện trong dạy học Lịch sử
- Những điều kiện cần
- Thứ nhất là phải đảm bảo đồng bộ các yếu tố của quá
trình dạy học
Trong quá trình dạy học lịch sử, để phát triển năng lực phản
biện cho học sinh, điều đầu tiên và quan trọng hàng đầu đó là đảm
bảo phải đồng bộ các yếu tố của quá trình dạy học là mục tiêu, nội
dung dạy học, hoạt động của thầy và trò, môi trường dạy học,
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá… Bởi lẽ, dù muốn hình
thành hay phát triển năng lực gì cho học sinh thì cũng phải đảm bảo
việc dạy học được tiến hành đồng bộ trong tổng hòa các yếu tố của quá
trình dạy học.
Hình thành năng lực phản biện cho học sinh trong học tập lịch
sử phải được tiến hành trong tổng hòa các yếu tố của quá trình dạy
học. Việc đầu tiên là phải xác định được mục tiêu dạy học. Đây là
kết quả mà chủ thể là giáo viên hình dung ra trước với việc sử dụng
các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để tác động vào đối
tượng (là học sinh), làm biến đổi đối tượng cho phù hợp với mục
tiêu đặt ra. Mục tiêu phải đúng đắn, cụ thể, thậm chí còn phải đo
đếm được bằng cả định tính và định lượng.



2


Về nội dung dạy học, đây là một trong những nhân tố quan
trọng nhất trả lời cho câu hỏi lớn là dạy và học cái gì? Đó không
phải là những kiến thức được ghi chép trong sách giáo khoa, cũng
không phải là những cái thầy biết. Khi xác định nội dung dạy học,
giáo viên không chỉ chú ý đến dạy cái gì, nhiều hay ít mà còn phải
xác định mức độ nông - sâu của kiến thức, chỉ ra được những kiến
thức cơ bản, trọng tâm… Xu hướng hiện nay là tinh giản nội dung,
nhưng vẫn phải đảm bảo độ kiến thức nông - sâu. Kiến thức lịch sử
có thể được mở rộng nằm ngoài sách giáo khoa (như đưa thêm các
nhận định, các ý kiến khác nhau về sự kiện, hiện tượng, nhân vật
lịch sử…); hoặc cùng một đơn vị kiến thức nhưng trình độ nhận
thức của học sinh khác nhau giáo viên có thể khai thác sâu hoạc cũng
có thể tinh giản để phù hợp với năng lực nhân thức của học sinh.
Nội dung dạy học sẽ quyết định đến việc lựa chọn phương
pháp của người thầy. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong dạy
học mà giáo viên cần quán triệt, thực hiện một cách linh hoạt, sáng
tạo. Nắm vững mục tiêu, xác định đúng những nội dung dạy học sẽ
xác định được phương pháp dạy học tốt, sử dụng phương pháp tốt
sẽ giúp học sinh năm vững nội dung, thể hiện mục tiêu dạy học.
Thầy và Trò, đây là hai chủ thể của quán trình dạy học, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, thầy dạy thế nào thì trò sẽ học như vậy.
Hiện nay, hoạt động dạy và học đang chuyển đổi từ chỗ đặt trọng
tâm vào hoạt động dạy sang dạy cách học, nhưng nguyên lí cơ bản

3



thì hai chủ thể vẫn thống nhất với nhau. Mọi yếu tố của quá trình
dạy học đều phải thông qua hai chủ thể này mà phát huy tác dụng.
Kiểm tra đánh giá cũng là một yếu tố của quá trình dạy học.
Kiểm tra đánh giá sẽ đánh giá được ưu điểm, nhược điểm của quá
trình dạy học, có tác động nguowci trở lại để điều chỉnh hoạt động
dạy của thầy và hoạt động học của trò.
- Thứ hai, phải có không khí dân chủ trong quá trình học
tập.
Trong bất cứ một môi trường nào, không khí dân chủ cũng tạo
được sự thoải mái, hứng khởi cho mọi người. Trong quá trình học
tập, từ lâu người ta thường quen với hình ảnh thầy đọc trò chép hay
thầy nói sao học sinh học thuộc theo như vậy. Tính độc đoán, một
chiều đó làm cho học sinh không thể thể hiện quan điểm, suy nghĩ,
từ đó trở nên thụ động và làm hạn chế đi sự phát triển các năng lực
cần thiết cho học sinh.
Người giáo viên phải tạo ra sự hoà đồng giữa hai quá trình tác
động của sự kiện, hiện tượng lịch sử và sự tiếp nhận các tác động
đó đối với học sinh. Tạo không khí dân chủ trong giờ học chính là
xác lập một mối quan hệ bình đẳng, cởi mở, tự do sáng tạo trong
quan hệ giao tiếp. Bầu không khí dân chủ là tiền đề kích thích sự
hăng hái, sáng tạo ở các em để cùng trao đổi, thảo luận với giáo
viên, với bạn bè về các ý kiến, các đánh giá khác nhau về nhận vật,
sự kiện lịch sử. Thông qua đối thoại dân chủ, giáo viên hướng dẫn,
điều chỉnh, bổ sung sự nhận thức của các em tác động hình thành

4


nên những trí tuệ mới, phẩm chất mới ở học sinh, để các em là một

chủ thể tiếp nhận chủ động chứ không phải là một thực thể thụ
động. Các em không những phát triển về tư duy lịch sử mà còn
được phát triển về nhiều mặt như bộc lộ nhân cách, trau dồi khả
năng giao tiếp...
Không khí dân chủ trong giờ học phải được xác lập trên cơ sở
ý thức sâu sắc về tính sư phạm của giáo viên trong tổ chức tiến hành
phải phù hợp với yêu cầu nội tại của bài học và sự vận động trí tuệ,
vốn kinh nghiệm của học sinh. Đó phải là không khí cởi mở thực sự
chứ không phải là không khí giả tạo. Ở đó, năng lực tiếp nhận của
từng em có điều kiện bộc lộ, cọ xát qua trao đổi để tự điều chỉnh
(mình) phù hợp với hệ thống chuẩn giá trị mang ý nghĩa xã hội. Giờ
dạy phải có sức hấp dẫn, thuyết phục cao từ chính cái hay của kiến
thức lịch sử, hấp dẫn và say mê người học. Tức người thày phải biết
khơi gợi, biết mở ra những điều hay sau câu, chữ, hình ảnh nằm
chết cứng trên trang giấy để chúng lên tiếng đối thoại với từng học
sinh.
Tạo không khí dân chủ trong giờ học đòi hỏi giáo viên phải xử
lí nhiều mối quan hệ phức tạp. Không thể chỉ hiểu sâu sắc về lịch sử
là đủ mà còn phải dự kiến những tình huống tiếp nhận nảy sinh
trong cách bộc lộ đối thoại giao tiếp với học sinh nhằm định hướng
trong việc sử dụng các phương pháp, biện pháp tổ chức hoạt động
tiếp nhận cho các em một cách linh hoạt, phối hợp có hiệu quả các

5


phương pháp, biện pháp tác động, tạo điều kiện cho các em tham
gia vào các tình huống đầy sáng tạo.
Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học hướng tới dạy
học theo hướng tiếp cận năng lực, giáo viên chỉ là người hướng dẫn

chứ không phải người áp đặt kiến thức. Muốn thực hiện được điều
đó, thì lớp học phải có không khí dân chủ, phải tạo được sự tin
tưởng, thoải mái, giáo viên phải có sự kích lệ, động viên để học sinh
tự tin đưa ra quan điểm của bản thân và chủ động trong việc tiếp thu
kiến thức. Đây không chỉ là yêu cầu đối với riêng việc phát triển
năng lực phản biện mà nó còn là yếu tố cần thiết để học sinh có môi
trường học tập, thể hiện, rèn luyện và phát triển tổng hợp các năng
lực trong giai đoạn như hiện nay.
- Thứ ba, phải tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tương tác
trong lớp học.
Song song với việc tạo không khí dân chủ trong học tập, việc
tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tương tác trong lớp học cũng là
một yếu tố quan trọng và được đề cao.
Muốn để học sinh phát triển năng lực, thể hiện được sự phê
phán, độc lập sáng tạo hay sự nhạy bén thì học sinh phải có môi
trường và điều kiện để rèn luyện, có cơ hội để phát triển. Để học
sinh tương tác với nhau một cách tự nhiên, thoải mái, giáo viên cần
trao cho học sinh những công cụ hỗ trợ. Những công cụ đó không
chỉ là kiến thức mà có thể còn là những mẫu câu để các em sử dụng
thuận lợi trong quá trình tương tác như:

6


Làm rõ

Không đồng tình

- Em có thể trình bày cho tôi


- Tôi nghĩ khác bởi vì…

nghe ý kiến của mình không?

- Những dữ liệu mà tôi tìm hiểu

- Ý kiến của em là…

được lại dẫn đến một quan điểm

- Để làm rõ hơn, em có thể
nói…

khác.
- Quan điểm đó có phần đúng

- Tôi thấy thất vọng khi em
nói… Em có thể giải thích cho tôi
được không?

nhưng cũng có phần chủ quan.
- Tôi đồng tình với quan điểm
đó nhưng tôi nghĩ chúng ta nên cân
nhắc…
- Chúng tôi có ý kiến khác.

Diễn giải

Triển khai ý tưởng


- Nói cách khác, ý kiến của em

- Y nhận định rằng…

là…

- Vâng và hơn thế…

- Vậy ý em là…
- Thực ra em tin rằng…
- Tôi nghe em nói rằng…

7


Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tương tác là việc giáo viên
kết hợp các phương pháp dạy học như thảo luận nhóm, thảo luận cả
lớp, ghép đôi, dạy học dự án… để học sinh có điều kiện để trao đổi
với nhau và với giáo viên. Tạo ra môi trường thuận lợi cho học sinh
tương tác sẽ hóp phần bồi dưỡng kiến thức, giáo dục tư tưởng, thái
độ và phát triển toàn diện học sinh. Trong quá trình đó, học sinh sẽ
bộc lộ, thể hiện quan điểm của bản thân mình. Đó chính là điều kiện
để phát triển năng lực phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử
nói riêng và dạy học trong nhà trường nói chung.
- Những điều kiện đủ
Thứ nhất sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp để tổ
chức học sinh phát triển năng lực phản biện.
Để phát triển năng lực phản biện cho học sinh thì người giáo
viên phải kết hợp đa dạng và tổng hợp tất cả các phương pháp dạy
học, bên cạnh đó, người giáo viên cũng không ngừng đổi mới, học

hỏi để tiếp cận với những phương pháp tiến bộ trên thế giới. Đổi
mới phương pháp là công việc của bản thân giáo viên phải đảm
nhận. Phương pháp dạy học thể hiện mối quan hệ giữa giảng dạy
của GV và học tập của HS.

8


Tuy nhiên, không phải biện pháp hay phương pháp học tập
nào cũng được sử dụng trong việc phát triển năng lực phản biện cho
học sinh và cũng không phải trong giờ học nào cũng sử dụng tất cả
những phương pháp để phát triển năng lực phản biện cho học sinh.
Điều đó phải phụ thuộc vào nội dung kiến thức bài học, đơn vị kiến
thức cũng như là mục đích của giáo viên trong quá trình hình thành
và phát triển năng lực.
Ví dụ, để phát triển năng lực phản biện cho học sinh, giáo viên
có thể sử dụng phương pháp dạy học dự án - một trong những
phương pháp đạt hiệu quả cao hiện nay. Tuy nhiên, phương pháp
này lại đòi hỏi thời gian, công sức của giáo viên và học sinh rất
nhiều. Đồng thời phương pháp này được sử dụng đối với những bài
học có số lượng tiết nhiều hay những vấn đề lớn có tính chất phức
tạp. Bởi vậy, giáo viên không thể lúc nào hay tiết học nào cũng sử
dụng phương pháp dạy học dự án trong việc phát triển năng lực
phản biện cho học sinh. Thêm vào đó, việc áp dụng các phương
pháp dạy học không phù hợp trong các tiết học sẽ tạo tâm lí phức
tạp, nhàm chán trong học sinh. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đên hiệu
quả học tập của học sinh.
- Thứ hai, học sinh phải có đam mê, quyết tâm và có thái độ
đúng trong học tập.


9


Trong quá trình dạy và học, học sinh luôn là chủ thể của hoạt
động này. Chính vì vậy, để phát triển năng lực phản biện, bản thân
học sinh phải có sự chủ động, quyết tâm, đam mê và có thái độ
học tập đúng đắn. Đây là không chỉ là yếu tố quan trọng mà còn là
tiền đề, động lực cho mọi quá trình học tập hay làm việc của HS.
Nếu học sinh có sự đam mê trong lịch sử, tự bản thân các em
sẽ có động lực để học tập, tìm hiểu kiến thức. Trong quá trình hăng
say tìm hiểu kiến thức và có quyết tâm thái độ đúng đắn nghiêm túc
trong học tập đó, các em sẽ có tư duy độc lập trong học tập, có sự
nhạy bén trong việc đặt mình trong các bối cảnh lịch sử để lí giải
kiến thức cũng như có sự chú ý trong học tập, dũng cảm nói lên
quan điểm của bản thân. Như vậy, chính thái độ, tinh thần của các
em là điều kiện tiên quyết và quan trọng hàng đầu để hình thành và
phát triển năng lực phản biện cho học sinh trong quá trình dạy học
lịch sử.
- Xác định những nội dung lịch sử Việt Nam lớp 11 góp
phần phát triển năng lực phản biện cho học sinh
- Vị trí
Lịch sử lớp 11 phần Việt Nam từ năm 1858 - 1918 có vai trò
qua trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc. Phần này sẽ cung cấp cho
học sinh kiến thức lịch sử về tình hình Việt Nam từ năm 1858 đến
10


cuối thế kỉ XIX bao gồm diễn biến của cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược của nhân dân ta từ năm 1858 đến trước năm 1873,
chiến sự lan rộng ra cả nước với sự đầu hàng của nhà Nguyễn và

cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884 sau
đó là sự phát triển của phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX. Không chỉ vậy,
phần lịch sử này còn cung cấp kiến thức cho học sinh về tình hình
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất
(1918) bao gồm xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp, phong trào yêu nước và cách mạng ở
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914)
và tình hình Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918).
- Mục tiêu
Học phần lịch sử Việt Nam lớp 11 giúp học sinh đạt được
những mục tiêu sau:
* Về kiến thức:
- Trình bày được nguyên nhân thực dân Pháp xâm lược nước
ta năm 1858.

11


- Tóm tắt được cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
từ năm 1858 đến trước năm 1873.
- Phân tích được nguyên nhân và quá trình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng thực dân Pháp trong cuộc kháng chiến chống Pháp
chung của cả dân tộc năm 1858-1884.
- Giải thích được những nguyên nhân khiến cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta từ năm 1858 - 1884 thất bại.
- Tóm tắt được phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX.
- Phân tích được hoàn cảnh bùng nổ, nguyên nhân thất bại và

ý nghĩa của phong trào Cần Vương trong phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ
XIX.
- Tóm tắt được những chính sách của Pháp trong cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất năm 1897.
- Trình bày được những biến chuyển về kinh tế, xã hội Việt
Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất năm
1897.

12


- Trình bày được những phong trào yêu nước và cách mạng ở
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất năm
1914.
- So sánh được sự giống và khác nhau trong xu hướng bạo
động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Châu
Trinh.
- Phân tích nguyên nhân thất bại và ý nghĩa của được những
phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914.
- Trình bày được tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trong
những năm chiến tranh thế giới thứ nhất từ 1914 - 1918.
- Phân tích được nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước của
Nguyễn Tất Thành.
- Phân biệt được các khái niệm: kháng chiến, khởi nghĩa, bạo
động, cải cách.
* Về kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng khai thác, sử dụng hình ảnh, bản đồ.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích, đánh giá, so sánh.

- Rèn luyện kĩ năng trình bày, giao tiếp.
13


- Rèn luyện kĩ năng phản biện.
* Về tư tưởng, tình cảm:
- Giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào về truyền thống
đấu tranh kiên cường của dân tộc, ý thức và trách nhiệm bảo về quê
hương, đất nước.
- Học sinh hiểu được sự phát triển của phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX.
Từ đó thấy được nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước.
Trên cơ sở đó, học sinh có thái độ chăm chỉ học tập, không
ngừng sáng tạo, hiểu được trách nhiệm của bản thân trong công
cuộc xây dựng và bảo về đất nước.
-. Đóng góp của những nội dung lịch sử này đối với phát
triển năng lực phản biện
Nội dung lịch sử Việt Nam lớp 11 đối với học sinh THPT nói
chung và học sinh THPT chuyên Bắc Giang nói riêng là nội dung
khó với nhiều vấn đề lịch sử đòi hỏi học sinh không chỉ học thuộc,
nhớ sự kiện, tóm tắt được diễn biến quá trình mà còn đòi hỏi học
sinh phải có sự tư duy, tự bản thân phân tích sự kiện để thấy được
bản chất sự kiện, vấn đề xảy ra từ đó tự mình rút ra được kết luận,

14


nhận xét. Từ đó, có thể thấy những nội dung lịch sử này giúp học
sinh hình thành nếp tư duy khi đứng trước vấn đề hoặc một đề bài:
- Xác định vấn đề

- Phân tích vấn đề từ nhiều góc độ
- Đưa ra kết luận.
Đây cũng chính là một trong những khâu của quá trình hình
thành và phát triển của năng lực phản biện. Từ đây, học sinh có khả
năng phân tích vấn đề và quan trọng hơn, khi đã có khả năng phân
tích, so sánh đánh giá, học sinh sẽ có bản lĩnh để lí giải vấn đề cũng
như tranh luận, bác bỏ ý kiến về sự kiện nào đó khi được đưa ra.
Nhờ đó, năng lực phản biện được hình thành và phát triển trong quá
trình học tập.
- Các biện pháp phát triển năng lực phản biện cho học
sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11 trường THPT
Chuyên Bắc Giang.
- Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình
huống phản biện.
Khi hướng dẫn học sinh nắm kiến thức cơ bản, giáo viên cần
chú ý đến “nhu cầu tư duy” của học sinh khi học sinh tiếp thu kiến

15


thức mới, hoặc muốn hiểu sâu sắc, làm phong phú hơn kiến thức đã
biết. Trong trường hợp này, các em xẽ xuất hiện những thắc mắc,
những vấn đề được đặt ra để giải quyết. Như thế giáo viên đã tạo
tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện là
một biện pháp sử dụng hệ thống các lời dẫn, câu hỏi để đặt cho học
sinh, trong đó nội dung dẫn dắt và các câu hỏi đặt ra cho học sinh
mang tính chất mới lạ, chứa nhiều điều mâu thuẫn hoặc khác với
những gì học sinh đã được học được nghe trước đó. Những câu hỏi,
những tình huống mà giáo viên đưa ra luôn có tính khách quan và
chủ quan. Tính khách quan được thể hiện ở những sự kiện lịch sử

mới, chưa biết đòi hỏi học sinh khám phá. Tính chủ quan thể hiện ở
vồn sống, vốn tri thức đã có cũng như nhu cầu tìm hiểu và giải
quyết vấn đề đặt ra. Từ đó, khơi gợi sự suy nghĩ, tính tư duy, tạo nên
sự mâu thuẫn giữa những gì đã học với những gì vừa được nghe,
kích thích trí não và khả năng nhận biết vấn đề của HS. Điều đó gợi
tâm thế mới hiểu biết, khám phá vấn đề, tri thức lịch sử trong các
em.
Thực tiễn dạy học lịch sử đã chỉ ra những hạn chế của việc
cung cấp kiến thức một chiều của giáo viên và mang tính áp đặt đối
với học sinh. Tạo ra một không khí học tập lôi cuốn ngay từ đầu tiết
học có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó kích thích hoạt động nhân
thức của học sinh và tạo ra động cơ thúc đẩy các em trong quá trình

16


học tập. Việc tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh là vô cùng quan
trọng. Bởi vì lúc này mới bắt đầu tiết học, tư duy của các em có thể
đang để tâm đến kiến thức của giờ học trước, hoặc cũng có thể
đang phân tán vì những trò chơi trong giờ giải lao. Để lôi kéo được
các em chú ý đến bài học cần đến sự khéo léo dẫn dắt của người tổ
chức. Thông thường các giáo viên sẽ dùng lời dẫn để kéo học sinh
nhập cuộc. Lời dẫn của giáo viên càng hấp dẫn, mới mẻ, sáng tạo
càng có khả năng nhanh chóng xác định tâm thế sư phạm cho học
sinh tập trung chú ý và có ý thức huy động hứng thú cá nhân vào
các bài học. Nếu trong lời dẫn tạo nên tình huống phản biện cho học
sinh thì nó sẽ vừa kích thích được sự tò mò vừa khơi dậy tính hiếu
thắng trong tâm lí học sinh. Trong lời dẫn, hoặc câu hỏi của mình,
giáo viên cần đặt học sinh vào tình huống mâu thuẫn, xung đột về
kiến thức, buộc các em phải huy động kiến thức và kĩ năng của bản

thân để giải quyết vấn đề được đặt ra, hoặc giáo viên có thể đưa ra
những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về một sự kiện,
vấn đề lịch sử để học sinh phân tích, đánh giá và tìm ra ý kiến đúng
đắn. Có như vậy các em sẽ thoát nhanh ra khỏi ức chế ban đầu và
tiếp nhận yêu cầu mới. Việc tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh
được sử dung gồm 3 yếu tố:
+ Trình bày nêu vấn đề: đưa ra lời dẫn dắt và câu hỏi Vì sao?

17


+ Tình huống nêu vấn đề: hoặc đưa ra 2 ý kiến trái ngược nhau
buộc học sinh phải lựa chọn và lí giải hoặc đưa ra một câu hỏi yêu
cầu học sinh giải quyết rõ vấn đề.
+ Bài tập nhận thức - bài tập nêu vấn đề: khái quát kiến thức
toàn bài.
Giáo viên có thể vận dụng 3 yếu tố trên vào bài giảng hoặc lựa
chọn 1 trong 3 yếu tố trên để giúp học sinh phát triển và tăng cường
năng lực phản biện trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử.
Giáo viên có rất nhiều cách để tạo tâm thế nhập cuộc cho học
sinh thông qua tình huống phản biện trong mọi giờ học tại một số
thời điểm cụ thể:
* Đầu giờ học: thường là đưa học sinh vào tình huống có vấn
đề gây sự mâu thuẫn giữa những điều học sinh đã biết với những
điều học sinh chưa biết, từ đó có động cơ, hứng thú muốn tìm hiểu
để biết dần dần dẫn dắt học sinh vào bài. Có nhiều cách để xây dựng
những tình huống nhập cuộc như:
- Tình huống nhập cuộc liên quan đến việc tìm hiểu bản chất
của sự kiện lịch sử (nguyên nhân, tính chất, đặc điểm, so sánh…)
- VD1: Khi chuyển sang phẩn Lich sử Việt Nam từ 1858 đến

1918, chương I- Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thể kỉ XIX, Bài 19:

18


Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (từ 1858 1873).
GV đưa ra tình huống để kích thích tính ham học hỏi của học
sinh như: Phải chăng những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa
của các nước đế quốc giữa thế kỉ XIX xuất phát từ yêu cầu khai hóa
văn minh cho các quốc gia phong kiến phương Đông còn lạc hậu về
kinh tế. Tại sao khi Pháp xâm lược Việt Nam, các cuộc kháng chiến
của nhân dân Nam kì chống Pháp xâm lược từ năm 1858 đến 1873
diễn ra với khí thế mạnh mẽ, tổ chức được nhiều trận đánh có quy
mô, gây cho Pháp nhiều thiệt hại, nhưng cuối cùng đều thất bại?
VD2: Khi dạy bài 20 - Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà
Nguyễn đầu hàng, GV có thể đặt một số các câu hỏi như sau để tạo
tâm thế phản biện cho học sinh:
+ Trong buổi học ngày hôm nay, chúng ta sẽ học Chiến sự lan
rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873
đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng. Chúng ta biết được rằng,
trong chế độ phong kiến, nhà nước là lực lượng lãnh đạo cao nhất sẽ
dẫn dắt cuộc đấu tranh của nhân dân trước sự xâm lược của kẻ thù.
Vậy tại sao, trong tên đề bài này, nhà Nguyễn - giữ vai trò lãnh đạo
cao nhất lại tách ra trở thành một vế riêng còn cuộc kháng chiến của

19


nhân dân ta lại tách ra làm một mặt trận riêng? Nhà Nguyễn có trách

nhiệm đến đâu trong việc để mất nước ta vào cuối thế kỉ XIX?
- Tạo tâm thế nhập cuộc bằng tình huống có liên quan đến
đánh giá sự kiện lịch sử, liên hệ thực tế, rút ra bài học kinh nghiệm
lịch sử cho việc tiếp thu kiến thức mới và hoạt động thực tiễn.
- VD3: Khi dạy bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở
Việt Nam từ nửa đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất
1914, để tạo tâm thế cho học sinh, giáo viên có thể đặt một số câu
hỏi như sau:
+ Năm 1897, Chính phủ Pháp cử Pôn Đu-me sang làm toàn
quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống trị và tiến hành
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Điều này đã có tác động rất
lớn, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam từ một nước
phong kiến trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, vậy các
em sẽ dự đoán như thế nào về phong trào yêu nước và cách mạng
của Việt Nam trong giai đoạn này dưới tác động của cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất như thế nào? Liệu phong trào yêu nước và
cách mạng Việt Nam có tiếp tục được phát triển mạnh mẽ và diễn ra
sôi nổi như những thời kì trước? Với sự mất đi vai trò lãnh đạo của
triều đình và sự thất bại của phong trào yêu nước đi theo ngon cờ
phong kiến thì phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam trong

20


giai đoạn này sẽ phát triển và đi theo khuynh hướng cứu nước nào
để đáp ứng nhu cầu lịch sử?
- VD4: Khi dạy bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến
chống Pháp xâm lược từ năm 1858 đến trước năm 1873, để tạo tâm
thế cho học sinh, giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như sau:
+ Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, vậy các em khi

chưa đọc SGK sẽ dự đoán như thế nào về quá trình kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta? Liệu nhân dân ta và triều đình phong
kiến nhà Nguyễn có đồng lòng đấu tranh chống thực dân Pháp hay
không?
Như vậy, với những cách tạo tình huống nhập cuộc như trên,
giáo viên giúp học sinh nắm được nhiệm vụ nhận thức của mình
ngay từ đầu giờ học, khiến học sinh có hững thú để học tập và định
hướng tư duy của bản thân, huy động kiến thức, tìm kiếm thông
tin… để giúp giải quyết vấn đề đã nêu ra, khi đó các em sẽ làm chủ
được kiến thức.
* Sử dụng đầu mỗi mục kiến thức: Đưa học sinh và tình
huống và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề.
- VD1: Khi dạy bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, mục 1: Cuộc

21


phản công quân Pháp của phái chủ chiến tại Kinh thành Huế và sự
bùng nổ phong trào Cần Vương, GV có thể đặt một số các câu hỏi
như sau để tạo tâm thế phản biện cho học sinh:
+ Trong buổi học trước, các em đã nắm được diễn biến quá
trình đấu tranh của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược từ năm 1873 đến trước năm 1884. Vậy, các em hãy sử
dựng những kiến thức đã học minh họa bước phát triển của phong
trào đấu tranh của nhân dân. Và từ sự minh họa đó, em có suy nghĩ
gì về cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong giai đoạn sau, những
năm cuối thế kỉ XIX?
+ Trong buổi học ngày hôm nay, chúng ta sẽ học Phong trào
yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối

thế kỉ XIX. Chúng ta biết được rằng, sau hiệp ước Patơnốt kí vào
ngày 6/6/1884, nước ta đã chính thức trở thành đất nước thuộc địa
của thực dân Pháp, đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. Nền độc
lập của dân tộc đã không còn. Vậy liệu rằng sau thất bại trong cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta giai đoạn 1873 - 1884 với
sự đầu hàng đầy nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, các phong
trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta trong những năm sau đó
cuối thế kỉ XIX sẽ diễn ra như thế nào? Liệu rằng những phong trào
này còn diễn ra sôi nổi, dồn dập như những giai đoạn trước. Và liệu

22


rằng những phong trào này chỉ là những phong trào mang tính chất
tự phát của nhân dân hay có sự giúp đỡ của triều đình hay các lực
lượng lãnh đạo khác? Phong trào yêu nước tiêu biểu nhất của nhân
dân ta trong giai đoạn này là phong trào nào?
- VD2: Khi dạy bài 24: Phong trào yêu nước chống Pháp và
cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ
nhất năm 1914, mục 1: Phan Bội Châu và xu hướng bạo động, GV
có thể đặt một số các câu hỏi như sau để tạo tâm thế phản biện cho
học sinh:
+ Trong buổi học trước, các em đã nắm được diễn biến Phong
trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm
cuối thế kỉ XIX và hoàn cảnh Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp triển khai trên toàn Đông
Dương. Vậy, các em hãy sử dựng những kiến thức đã học minh họa
bước phát triển của phong trào đấu tranh của nhân dân và kiến thức
về xã hội Việt Nam giai đoạn lúc bấy giờ. Em có suy nghĩ gì về
cuộc phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ

XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914?
+ Trong buổi học ngày hôm nay, chúng ta sẽ học Phong trào
yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến
tranh thế giới thứ nhất năm 1914 . Chúng ta biết được rằng, sau

23


cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp triển khai
trên toàn cõi Đông Dương mà trọng tâm ở Việt Nam, tình hình kinh
tế - xã hội Việt Nam đã có những biến động đáng kể. Nền kinh tế có
sự chuyến biến xuất hiện những yếu tố của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa song chưa thật sự rõ ràng. Xã hội Việt Nam xuất hiện những
tầng lớp, giai cấp xã hội mới và những tầng lớp, giai cấp xã hội
trước đó có sự phân hóa sâu sặc. Việt Nam từ một xã hội phong kiến
đã thực sự trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Vậy trước
những tác động đó, phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam có
những chuyến biến và thay đổi gì? Những phong trào yêu nước và
cách mạng này có mang yếu tố nào mới mẻ của thời cuộc hay
không?
* Cuối giờ học: Bên cạnh đó, để học sinh luôn có sự hứng thú
với nội dung kiến thức, đồng thời tạo sự chủ động ghi nhớ kiến
thức, ghi nhớ vấn đề và hệ thống hóa đơn vị kiến thức, giáo viên
vẫn có thể tạo tâm thế học tâm cho học sinh thông qua:
- Việc đặt các câu hỏi mang tính chất đánh giá: Những câu
hỏi này đòi hỏi HS phải xây dựng các lập luận để bảo vệ cho những
quan điểm của mình trước những phê phán , chỉ trích, các lập luận
này phải dựa trên các tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù hợp với góc
nhìn khách quan nhất. Trong dạng câu hỏi này GV có thể đưa vào


24


các từ khóa như: đánh giá, kết luận, cho điểm, quyết định, nhận
thấy…
- VD1: Khi dạy bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến
chống Pháp xâm lược từ năm 1858 đến trước năm 1873, để tạo tâm
thế cho học sinh, giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như sau: năm
1858, thực dân Pháp nổ sung tiến hành xâm lược nước ta. Với
những kiến thức các em đã được học trong phần lịch sử thế giới cận
đại, các em có đánh giá gì về sự kiện này? Đây là sự kiện tất yếu
hay không tất yếu?
- VD2: Khi dạy bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà
Nguyễn đầu hàng. Để kết thúc bài học cũng như kiểm tra kiến thức
mà học sinh đã tích lũy và thu nhận được trong quá trình học tập,
giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như sau:
+ 1873, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta mở
rộng địa bàn chiến đấu với quy mô cả nước. Vậy, việc mở rộng địa
bàn chiến đấu này thể hiện tinh thần chống Pháp quyết liệt của nhân
dân ta được lan rộng cả nước hay nó thể hiện sự thắng thế của Pháp
trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam? Các em hãy đánh giá
điều này?

25


×