Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tắt đèn của Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.62 KB, 2 trang )

Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Hôm nay tự nhiên hồi tưởng lại một tác phẩm văn học “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,
trong đầu tôi nảy sinh ra một câu hỏi, tại sao Ngô Tất Tố lại đặt tên cho tác phẩm
nói về cuộc đời của chị Dậu là tắt đèn?
Đầu tiên, phân tích hai từ “ Tắt đèn”, ở xã hội phong kiến lúc bấy giờ khi màn
đêm buông xuống, ngọn đèn là vật duy nhất soi sáng, dẫn lối cho con người,
ngoại trừ những ngày có trăng, ánh trăng rọi khắp lối, ánh trăng luồng qua các khe
hở, qua cửa sổ và chiếu sang khắp cả gian phòng. Cách nhìn về vẻ đẹp của Trăng
đối với các thi sĩ khác với cách nhìn của người nông dân bần cùng, trong tác
phẩm Trăng của Nam Cao, chứng minh được điều đó, đối với các thi si, Trăng có
một vẻ đẹp thanh khiết, hiền dịu và là nguồn cảm hứng để sáng tác, nhưng đối với
người nông dân thì những ngày có trăng là ngày khỏi phải tốn hai đồng tiền bạc
để mua dầu. Vì vậy khi tắt đèn, chỉ còn lại bong tối bao phủ, chúng ta đánh mất
phương hướng, phải tự mò mẫm, rất khó để tìm một nguồn sáng soi rọi con đường
chúng ta đi.
Trong tác phẩm “Tắt đèn”, trước khi chị Dậu đi lấy chồng, gia đình của chị thuộc
loại khấm khá, chị cũng được cưng chiều như các tiểu thư con nhà đài các. Cuộc
đời của chị thực sự thay đồi sau khi chị đi lấy chồng, chị lấy được một tấm chồng
như ý, yêu thương chị và lo làm ăn, cuộc sống ban đầu không khó khăn lắm, gia
đình sống hoà thuận và rất hạnh phúc. Không biết tự lúc nào, cuộc sống của chị
lâm vào cảnh túng thiếu, cơm có bữa no bữa đói, đói nhiều hơn no, con của chị
phải thường xuyên đào lấy củ khoai, củ sắn ở trong vườn mà ăn, ăn cho qua cơn
đói, ăn để sống tiếp phần đời còn lại. Có phải vợ chồng anh chị không lo làm ăn,
quanh năm làm lụng vất vả, làm mấy cũng không đủ cho bọn cường hào ác bá bấy
giờ bốc lột, chúng tự xem mình là người đứng ra bảo vệ chính nghĩa, thử hỏi
chính nghĩa ở đâu khi chúng đưa ra các suất thuế đánh vào người dân để vơ vét
của cải , làm giàu cho bản thân. Chị phải bán con, bán chó , bán cả mớ khoai đào
được mới đủ tiền để đóng suất sưu cho chồng, tâm lý dằn vặt, khóc than cho số
phận nghiệt ngã khi phải xa đứa con nhỏ thương yêu, cảnh tượng đáng thưong
tâm khi người chủ nó xem nó còn không bằng con chó, thế thì cuộc sống của con
bé làm sao sung sướng được. Nộp thuế cho chồng xong, chị lại còn phải nộp cho


em chồng mình đã chết năm ngoái, bọn quan lại nói rằng, tại trước lúc chết, trong
sổ chưa gạch tên của anh ta, nên bắt buộc nguời thân phải nốp thế, có chết chị
không chứ, chạy vạy mãi mới đủ tiền nộp cho chồng, bây giờ lòi ra một người
nữa. Như thế đó, cuộc đời của chị cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong cảnh nghèo
túng, hết lo chuyện này đến lo chuỵện khác, chị đã đến lúc sức cùng lực kiệt,
nhưng bọn chúng đâu có buông tha, cuộc đời của chị vô cùng tăm tối, chị chẳng
biết phải bước tiếp thế nào, chẳng có một tia ánh sáng nào soi chiếu và cho chị
một niềm hi vọng vào ngày mai tươi đẹp hơn. Đó cũng là nguyên nhân thứ nhât
mà tôi biện minh cho tên gọi của tác phẩm.
Nguyên nhân thứ hai là chị đã hai lần trong phòng không một ánh sáng nào soi
sáng, bọn quan lại muốn có được chị, với sức lực của một người nông dân, trong
đêm chị vùng vẫy và thoát ra khỏi cái nơi tội lỗi, một lòng son sắt, chung thuỷ với
người chồng mặc dù bị xã hội đùn đẩy vào chốn này. Đoạn kết trong câu chuyện,
chị mò mẫm chạy về cái làng thân yêu, nói chính xác hơn là ngôi nhà có chồng,
có con, đã biết bao lần cùng nhau trải qua hoạn nạn, đó chính là ánh sáng, cái ánh
sáng thuần khiết, trong sạch, không một chút bụi trần soi sáng con đường để chị
tin tưởng tuyệt đối vào tương lai tốt đẹp.
Còn tại sao lại không tắt điện mà tắt đèn, lúc bấy giờ làm gì có điện, lúc đó nước
ta còn nghèo và lạc hậu mà.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×