Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.5 KB, 5 trang )

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
TS Hoàng Xuân Lương
Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
1. Một số thành tựu
Là một quốc gia đa dân tộc, Đảng và nhà nước ta quan tâm chăm lo phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc
Với đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự
chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương, các cấp ở địa
phương cùng với nguồn lực đầu tư và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của đồng
bào các dân tộc, kết quả đã làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn vùng dân tộc
và miền núi. Sản xuất một số vùng đã có bước phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng
bước, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2 % mỗi năm, nhưng vùng DTTS giảm 34% ( Đông bắc giảm 3,62%, Tây Bắc giảm 4,47%, Tây nguyên giảm 3,04%,
đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%.)
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% xã có đường ô tô
đến trụ sở UBND xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện. 1
Công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều tiến bộ. Có 99,5%
số xã có trường tiểu học, 93,2% số xã có trường trung học cơ sở, 12,9% số xã có
trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non 2.
100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung
học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay cả nước có
294 trường phổ thông dân tộc nội trú với quy mô 80.832 học sinh; 4 trường dự
bị đại học với quy mô trên 3.000 học sinh /năm.3 Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và
miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và
1 Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục
Thống kê
2


đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính,


giáo dục, y tế,...
Mạng lưới y tế ở vùng dân tộc và miền núi phát triển, hệ thống bệnh viện
tỉnh - huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã có trạm y tế,
77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011 có 94,2% số thôn có cán
bộ y tế thôn 4. Đồng bào dân tộc được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ
bản, đồng bào nghèo được khám chữa bệnh miễn phí và chính sách bảo hiểm y
tế được thực hiện đúng quy định. Các dịch bệnh như: sốt rét, bướu cổ cơ bản được
khống chế; giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng...
Giá trị văn hóa dân tộc tiếp tục được quan tâm bảo tồn và phát huy như:
Khôi phục các lễ hội truyền thống, tổ chức Ngày hội văn hóa - nghệ thuật, thể thao
khu vực, tổ chức trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam... Mạng
lưới thông tin, văn hoá, thể thao nông thôn đã có sự phát triển nhanh, góp
phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. có 81,5% số xã có hệ
thống loa truyền thanh đến thôn; 38,7% số xã có nhà văn hoá xã; 48% xã có sân
thể thao 5.
Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi thường xuyên được xây dựng,
củng cố và ngày càng phát triển, nhất là hệ thống chính trị cơ sở. Hệ thống cơ quan
làm công tác dân tộc từng bước được kiện toàn với 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh và
cấp huyện.
Tình hình an ninh chính trị và vào trật tự xã hội cơ bản được ổn định, quốc
phòng, an ninh được giữ vững. Đồng bào các dân tộc đoàn kết, tin tưởng đường lối
đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
3 7 và 8 Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại buổi làm việc giữa Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Ủy ban Dân tộc với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 1/6/2012.
4
59 và 10 Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục
Thống kê



2. Tồn tại, hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội, nhưng vùng dân tộc, miền núi vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế, thách thức
cần phải tập trung cao độ để khắc phục, nhằm đảm bảo quyền phát triển của các
dân tộc thiểu số .
*.Chất lượng nguồn nhân lực thấp:
Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn dân tộc, miền núi còn hạn
chế, lao động chưa qua đào tạo là: 86,21% , tỷ lệ này ở Đồng bằng sông Cửu Long
và Tây Nguyên là: 90%; 17/52 tỉnh có trên 90%; một số dân tộc có tỷ lệ lao động
chưa qua đào tạo rất cao như dân tộc Mông: 98,7%, Khmer: 97,7%, Thái: 94,6%,
các dân tộc thiểu số khác: 95,95%. Lao động đã qua đào tạo chủ yếu là trình độ thấp:
sơ cấp: 2,54%, trung cấp: 4,8%, cao đẳng: 1,43%, đại học trở lên: 4,81%. Tỷ lệ lao
động có trình độ cao đẳng, đại học của dân tộc thiểu số rất thấp: Thái: 1,6%; Khmer:
1,0%; Mông: 0,3%, các dân tộc thiểu số khác: 1,5%.
* Đội ngũ cán bộ thiếu và yếu:
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu, nhiều dân tộc chưa có cán
bộ chủ chốt ở cấp cơ sở; trình độ chuyên môn nhìn chung còn thấp: ở cấp tỉnh, tỷ
lệ cán bộ người dân tộc thiểu số có trình độ cao đẳng, đại học 77,26%, cấp huyện
là 45,63%, cấp xã, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học rất thấp, chỉ chiếm 5,87%,
còn lại 94,13% là sơ cấp và trung cấp và chưa qua đào tạo. Năng lực thực thi công
vụ hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và xử lý các tình huống,
vấn đề phát sinh ở cơ sở.
* Vùng dân tộc, miền núi vẫn là vùng nghèo nhất, khoảng cách giàu nghèo ngày
càng lớn, chênh lệch về thu nhập và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, miền
núi so với vùng đồng bằng ngày càng gia tăng; đời sống của đồng bào dân tộc
thiểu số còn rất khó khăn. Năm 2001 tỷ lệ nghèo chung của cả nước 17,18%, vùng
dân tộc và miền núi 26,38%, riêng các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn là 33,5%;
đến năm 2010 tỷ lệ nghèo chung cả nước là 9,45%, vùng dân tộc và miền núi là
19,4% trong khi ở khu vực các xã đặc biệt khó khăn lên đến 28,8%.



Theo số liệu điều tra mức sống, khoảng cách thu nhập giữa 20% hộ nghèo nhất
và 20% hộ giàu nhất đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2001 chênh lệch thu nhập giữa
nhóm 20% số hộ có thu nhập cao nhất và nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất ở các
tỉnh miền núi phía Bắc là 5,22 lần, các tỉnh Tây Nguyên là 10,9 lần. Đến năm 2010 tỷ lệ
này đã tăng lên 6,8 lần ở các tỉnh miền núi phía Bắc và 12,9 lần ở các tỉnh Tây Nguyên.
Thời gian tới, khi nước ta hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế, một bộ
phận đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
sẽ bị có nguy cơ tụt hậu xa hơn, khoảng cách thu nhập và mức sống sẽ ngày càng giãn
cách với các đô thị và các vùng thuận lợi.
* Kết cấu hạ tầng yếu kém:
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi còn nhiều
yếu kém và hiện mới chỉ phục vụ nhu cầu dân sinh thiết yếu, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa
khai thác hết tiềm năng lợi thế của vùng. Hiện nay còn 27 xã chưa có đường giao
thông đến trung tâm xã, 360 xã chưa có đường ô tô đi được bốn mùa, 14.093 thôn,
bản chưa có đường giao thông cho xe cơ giới, 204 xã và 8.100 thôn, bản chưa có
điện thắp sáng, 32% số hộ chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 16,4% trường lớp
chưa được kiên cố, số thôn, bản chưa có nhà trẻ, mẫu giáo chiếm tới 75,6%, 758 xã
và 16.284 thôn, bản chưa có nhà sinh hoạt cộng đồng.
*. Văn hoá các dân tộc thiểu số có nguy cơ bị mai một. mất dần bản sắc; tình
trạng pha tạp, biến thái trong các hoạt động văn hóa, lối sống ngày càng rõ nét;
mức độ thụ hưởng văn hóa của người dân còn hạn chế, tệ nạn xã hội diễn biến
phức tạp. Công tác thông tin tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu.
*. Hệ thống chính trị ở cơ sở còn hạn chế, an ninh, trật tự an toàn xã hội trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhất là các vùng biên giới còn tiềm ẩn
nhiều nhân tố gây mất ổn định. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh nhiều hoạt
động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng “dân tộc”, “tôn giáo”,
“nhân quyền”, tình hình đời sống còn khó khăn, hạn chế thông tin kích động lôi

kéo gây mất ổn định chính trị, xã hội. Hoạt động truyền đạo trái pháp luật vẫn


diễn ra; mâu thuẫn, tranh chấp đất đai một số nơi chưa được giải quyết triệt để;
tình hình di cư tự do diễn biến phức tạp gây mất ổn định về chính trị, xã hội.
Tình hình trên có cả nguyên nhân KQ và CQ, nhưng ở đây chúng tôi muốn bàn
riêng về những hạn chế bất cập của hệ thống chính sách
Hệ thống chính sách DTTS hiện hành có những điểm hạn chế, bất cập sau như
sau:
Một là, sự chồng chéo trong hệ thống chính sách
Hai là, Các lỗ hổng chính sách
Chưa có chính sách phân vùng để phát triển sản xuất, hình thành vùng sản
xuất hàng hóa tập trung cho các vùng DTTS.
Chưa có chính sách kết nối sản phẩm của vùng DTTS với thị trường
Thiếu chính sách về tái tạo môi trường, khôi phục cảnh quan, không gian sinh
tồn cho người DTTS
Ba là, Thiếu chính sách quản lý đặc thù
Bốn là, nguồn lực thực hiện chính sách không đủ
Ngoài ra còn một loạt các chính sách về ổn định dân cư, giáo dục, đào tạo
đều có mức hỗ trợ thấp nên xã nghèo, người nghèo không thể tìm thêm nguồn kinh
phí khác.
Năm là, hệ thống chính sách ban hành chưa đồng bộ, cơ chế thực thi chính
sách còn yếu và thiếu sự phối hợp
Sáu là, chính sách chưa phù hợp với đặc điểm của vùng và người DTTS
Như trên đã trình bày, vùng DTTS có những điểm đặc thù về địa hình, khí
hậu và người DTTS có những điểm rất đặt thù trong tập quán, thói quen sinh hoạt
cũng như sản xuất. Do đó các chương trình, chính sách nếu không tính kỹ đến
những điểm này sẽ không khả thi.
Vì vậy, trong giai đoạn tới, vấn đề cấp bách đặt ra là cần hoàn thiện về nội
dung chính sách, cần điều chỉnh hệ thống tổ chức, cơ chế thực hiện chính sách phù

hợp hơn với điều kiện thực tế của vùng và người DTTS để nâng cao hiệu quả của
chính sách, phát huy nội lực, ý thức tự lực tự cường của người DTTS.



×