Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giảm trừ gia cảnh theo quy định pháp luật hiện hành – thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.89 KB, 18 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì ngân sách sẽ bị giảm
do nguồn thu từ thuế nhập khẩu sẽ bị giảm đáng kể ít nhất là trong những năm
đầu khi chúng ta chưa có được một cơ chế chặt chẽ cho phép có thể thu đủ các
loại thuế nội địa, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng.
Để bổ sung khoản thiếu hụt ngân sách, tăng ngân sách nhằm phục vụ cho các
mục tiêu kinh tế xã hội của nước ta, nhà nước ta cần phải xây dựng và ban
hành nhiều sắc thuế. Mặt khác, việc kinh tế xã hội càng phát triển, hội nhập
kinh tế quốc tế càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước
càng lớn. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách thay
đổi theo hướng nguồn thu từ tích lũy trong nước được tăng dần và chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách. Theo đó thuế TNCN sẽ góp
phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách Nhà nước
trong quá trình hội nhập. Chính vì lẽ đó nên việc ban hành Luật thuế thu nhập
cá nhân trong bối cảnh hiện nay là hợp lý. Luật đã phát huy hiệu lực trong
cuộc sống, trở thành công cụ pháp lý đảm bảo công bằng xã hội ,là công cụ
đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập và. Song việc thu thuế cũng phải
đảm bảo công bằng cho mọi người, với mục đích đó các nhà khoa học nghiên
cứu về thuế đã suy nghĩ về một khoản chi phí để tạo ra thu nhập mà các nhà
lập pháp quy định là giảm trừ gia cảnh . Vì vậy em xin trình bày đề tài :
“Giảm trừ gia cảnh theo quy định pháp luật hiện hành – thực tế tuân thủ
pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên
cứu”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Quy định của pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
1.1.Khái niệm giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật
1


Theo quy định tại Điều 19 Luật Thuế TNCN và Điều 12 Nghị định số
100/NĐ-CP thì giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế


trước khi tính thuế đối với thu nhập từ tiền công, tiền lương, thu nhập từ kinh
doanh của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú .
Việc giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế và cho người phụ
thuộc là để thể hiện nguyên tắc công bằng của Luật thuế Thu nhập cá nhân.
Theo nguyên tắc này thì: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn,
người có cùng mức thu nhập nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì số thuế phải
nộp khác nhau.
Việc giảm trừ gia cảnh khi tính thuế là để xét đến hoàn cảnh cụ thể của
từng người nộp thuế và đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng, tuy có khác
nhau về mức giảm trừ nhưng cơ bản về tiêu thức để được giảm trừ không khác
nhau nhiều.
1.2.Mức giảm trừ gia cảnh
Hiện nay mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu
đồng/tháng(48 triệu đồng một năm), cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng
nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng.
Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh như trên là thấp. Tuy nhiên,
mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của
Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống
thuế của Việt Nam. Theo đó, với mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến
cho năm 2009 là khoản 1.5 triệu đồng/tháng thì mức giảm trừ cho bản thân đối
tượng nộp thuế ở mức 4 triệu đồng/tháng có ý nghĩa rằng, chỉ những người có
thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ phải nộp đối với
phần thu nhập vượt trên mức giảm trừ này). Những năm sau đó, khi thu nhập
tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong
xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên sẽ phải
nộp thuế TNCN. Điều này có nghĩa là Luật sẽ tự động mở rộng diện tích đánh
2


thuế để thực hiện nguyên tắc mọi công dân có thu nhập (trừ trường hợp thu

nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công
bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên, đến một thời
điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao, Quốc hội
sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp với định hướng vừa
phân tích trên .
1.3. Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc
Phần giảm trừ cho người phụ thuộc mà người nộp thuế phải có trách nhiệm
nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng/người. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc
được thực hiện dựa trên cơ sở mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một
lần vào một đối tượng nộp thuế.
Người phụ thuộc phải là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi
dưỡng (người phụ thuộc không hạn chế về số lượng), bao gồm: con tàn tật
không có khả năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc thu
nhập thấp hơn mức quy định hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế
phải trực tiếp nuôi dưỡng, bao gồm: con chưa thành niên hoặc đang học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không
có khả năng lao động; những người khác không có nơi nương tựa mà người
nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng . Với diện giảm trừ như trên cho những
người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù
hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam. Song lý luận là thế nhưng trong
thực tế, các đối tượng phụ thuộc còn rất nhiều vướng mắc trong xác định đối
tượng phụ thuộc để giảm trừ. Ví dụ đối với người không có nơi nương tựa mà
người nộp thuế trực tiếp nuôi dưỡng có thể là cha mẹ già yếu, nhưng cha mẹ
có thể có nhiều con, nếu những người con này đều xác định cha mẹ mình là
người phụ thuộc mà cơ quan thu thuế không kiểm tra cụ thể thì đối tượng nộp
thuế rất dễ trốn tránh nghĩa vụ.
1.4.Hồ sơ chứng minh, thủ tục kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc.
3



Đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi), thủ tục, hồ sơ chứng minh
người phụ thuộc là: Bản photocopy Giấy khai sinh. Nếu là con nuôi thì ngoài
Giấy khai sinh phải có bản photocopy Giấy chứng nhận là con nuôi của cơ
quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật, trong đó ghi rõ quan hệ giữa
đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc là quan hệ giữa bố (hoặc mẹ) với con
nuôi; Con đã thành niên bị tàn tật không có khả năng lao động cần có: Bản
photocopy Giấy khai sinh, bản photocopy xác nhận của Trung tâm giám định
Y khoa tỉnh, thành phố được thành lập theo qui định của Bộ y tế về mức độ
tàn tật không có khả năng lao động.
Với đối tượng chịu thuế có con đang theo học đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp hoặc học nghề (kể cả con đang học ở nước ngoài) phải có
các loại giấy tờ sau: Bản photocopy giấy khai sinh, bản photocopy Thẻ sinh
viên, hoặc xác nhận của trường; Biên lai thu học phí (hoặc chứng từ nộp
khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí) của niên độ phù hợp với năm tính
thuế (bản photocopy); Trường hợp sinh viên thuộc đối tượng miễn nộp học
phí (con thương binh, liệt sỹ...) thì phải có xác nhận của nhà trường thuộc diện
được miễn học phí.
Đối với vợ hoặc chồng, thủ tục, hồ sơ phải có: Nếu đã hết tuổi lao động
thì phải có bản photocopy Hộ khẩu xác định rõ mối quan hệ với người nộp
thuế hoặc bản photocopy Giấy đăng ký kết hôn; Nếu trong độ tuổi lao động
thì ngoài một trong các giấy tờ nêu trên phải có thêm bản photocopy xác nhận
của Trung tâm giám định Y khoa tỉnh, thành phố được thành lập theo qui định
của Bộ y tế về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
Đối với bố, mẹ, anh chị em ruột thủ tục, hồ sơ như sau: Nếu đã hết tuổi
lao động cần có bản photocopy giấy khai sinh của người phụ thuộc để xác
nhận đã hết tuổi lao động, bản photocopy hộ khẩu hoặc giấy tờ liên quan khác
để xác định rõ mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là
bố, mẹ, anh, chị, em ruột); Nếu trong độ tuổi lao động thì ngoài các hồ sơ nêu

4



trên, phải có bản photocopy xác nhận của Trung tâm giám định Y khoa tỉnh,
thành phố được thành lập theo qui định của Bộ y tế về mức độ tàn tật không
có khả năng lao động
Đối với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cô ,dì, chú, bác, cậu ruột;
hồ sơ phải có: Các giấy tờ hợp pháp chứng minh quan hệ giữa người phụ
thuộc với ông, bà, cô, dì, chú, bác là quan hệ ruột thịt.
1.5.Cách tính thuế và việc khấu trừ
Việc khấu trừ đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công được thực hiện
hàng tháng. Cơ quan chi trả thu nhập căn cứ vào tiền lương tiền công, tạm
giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế, người phụ thuộc theo đăng ký của
đối tượng nộp thuế. Trên cơ sở thu nhập còn lại và biểu thuế luỹ tiến từng
phần, cơ quan chi trả tính thuế và giữ lại số thuế đã tính để nộp Ngân sách .

2. Thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và giải
pháp
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi
tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của
đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Mức trừ này có tính đến hoàn cảnh cụ
thể của người nộp thuế, không phải là mức đủ sống cho người nộp thuế và gia
đình. Thu nhập tính thuế (sau khi đã giảm trừ gia cảnh) được áp dụng theo
biểu thuế luỹ tiến từng phần từ 5% đến 35 %, thu nhập còn lại sau khi nộp
thuế là thu nhập của người nộp thuế để chi tiêu.
Thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh còn bất cập trên
thực tế do một số nguyên nhân:
Thứ nhất về việc chứng minh người phụ thuộc và thủ tục giảm trừ gia
cảnh:

5



Đối tượng được tính là người phụ thuộc được chia làm 4 nhóm,
trong đó ngoại trừ nhóm đầu tiên gồm con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú
chưa thành niên (dưới 18 tuổi) gần như không có bất cứ quy định nào ràng
buộc, còn lại những đối tượng khác để được xem là người phụ thuộc đều phải
có hồ sơ chứng minh được sự xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Mặc dù theo Thông tư 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật Thuế
TNCN, các tiêu chí tờ khai, biểu mẫu chứng minh người phụ thuộc đã được
xây dựng và thiết kế đơn giản, linh hoạt để người nộp thuế dễ hiểu và thực
hiện. Tuy nhiên, thực tế sau 2 tháng đầu triển khai Luật Thuế TNCN cũng đã
cho thấy một số bất cập phát sinh, đòi hỏi phải được hướng dẫn rõ hơn, cụ thể
là:
Về đối tượng được tính là người phụ thuộc. Trong thực tiễn cuộc sống, có
một số trường hợp, người lao động là bố dượng, mẹ kế trực tiếp nuôi dưỡng
con riêng chưa đến tuổi thành niên, hoặc ngược lại, con riêng trực tiếp nuôi
dưỡng bố dượng, mẹ kế đã hết độ tuổi lao động... Tuy nhiên, những trường
hợp gần như đương nhiên là người phụ thuộc này lại chưa được hướng dẫn
trong Luật. Bởi theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, bố dượng, mẹ
kế và con riêng đều có quyền và nghĩa vụ như bố đẻ, mẹ đẻ với con đẻ.
Truyền thống của người Việt Nam cũng quy ước, bố dượng, mẹ kế tuy không
phải là những người có công sinh thành, nhưng lại là những người có công
nuôi dưỡng. Các chế độ ưu đãi đối với người có công với Cách mạng hiện
hành cũng quy định, trường hợp là bố dượng, mẹ kế nhưng nếu có công nuôi
dưỡng thì cũng được hưởng tiêu chuẩn ưu đãi như bố đẻ, mẹ đẻ. Vì vậy, việc
bổ sung thêm bố dượng, mẹ kế vào nhóm đối tượng được tính người phụ
thuộc là cần thiết, vừa hợp tình, vừa hợp lý. Đây cũng là nội dung mà Bộ Tài
chính yêu cầu sớm đưa vào hướng dẫn để phù hợp với các văn bản pháp luật
hiện hành.


6


Về hồ sơ chứng minh người phụ thuộc, theo hướng dẫn tại Thông tư 84,
để được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, người lao động phải nộp
hồ sơ chứng minh cho từng người phụ thuộc cụ thể, làm tốn rất nhiều thời
gian và công sức, trong khi thực tế chỉ ra rằng, những người làm công ăn
lương, nhất là khối cán bộ công chức và người lao động làm trong các doanh
nghiệp lớn đều được cơ quan, đơn vị chi trả thu nhập quản lý lý lịch rất chặt
chẽ. Vì vậy, thiết nghĩ, nếu có thể phối hợp, gắn trách nhiệm của đơn vị chi trả
thu nhập vào việc xác nhận người phụ thuộc của những đối tượng này, theo
đó, thủ trưởng đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm xác nhận vào tờ khai
người phụ thuộc của người làm công, thì sẽ giúp giản lược rất nhiều hồ sơ,
giấy tờ hành chính, đồng thời tiết giảm chi phí cho xã hội.
Một nội dung khác cũng làm nảy sinh nhiều vướng mắc khi chứng minh
người phụ thuộc trong thời gian qua, đó là việc xác nhận của chính quyền
phường, xã đối với các trường hợp kê khai người phụ thuộc là ông bà nội,
ngoại, cô, dì, chú, bác, anh chị em ruột... Theo quy định của Luật Thuế
TNCN, đối với nhóm này, ngoài những điều kiện để được tính là người phụ
thuộc như đối với con đẻ, vợ, chồng hay bố, mẹ đẻ... còn phải kèm thêm tiêu
chí: phải là người không nơi nương tựa do người nộp thuế trực tiếp nuôi
dưỡng được chính quyền sở tại xác nhận. Tuy nhiên, nội dung kê khai cũng
như cách thức xác nhận của chính quyền như thế nào thì Thông tư 84 lại chưa
quy định rõ, gây lúng túng khi thực hiện. Hướng xử lý cho vấn đề này, theo
ông Nguyễn Huy Trường, Trưởng ban thuế thu nhập cá nhân - Tổng cục Thuế
thì, đối với nhóm người phụ thuộc này cần chia làm 3 trường hợp: Nếu người
phụ thuộc đang sống và có cùng hộ khẩu với người nộp thuế thì không cần
xác nhận của chính quyền phường, xã mà chỉ cần photo hộ khẩu đính kèm.
Trường hợp thứ hai là, mặc dù không có cùng hộ khẩu nhưng người phụ thuộc
đang được trực tiếp nuôi dưỡng và có đăng ký hộ khẩu tạm trú cùng với người

nộp thuế thì vẫn được chấp nhận sử dụng giấy đăng ký tạm trú làm căn cứ
chứng minh người phụ thuộc được tính giảm trừ. Chỉ trường hợp người phụ
7


thuộc không sống cùng người nộp thuế thì mới cần xác nhận của chính quyền
phường, xã. Cũng cần lưu ý, nơi xác nhận phải là chính quyền phường, xã nơi
người phụ thuộc sống chứ không quy định chung chung.
Riêng đối với những trường hợp người phụ thuộc bị tàn tật, không có
khả năng lao động, Thông tư 84 quy định phải có xác nhận của cơ quan y tế
hoặc có xác nhận của chính quyền phường, xã vào bản tự khai của người nộp
thuế, tuy nhiên lại không quy định rõ cách xác nhận của chính quyền phường,
xã cho trường hợp này như thế nào để vừa đảm bảo phản ánh chính xác thực
tế, vừa tránh được việc lợi dụng khai man. Trường hợp này, theo ông Trường,
Tổng cục Thuế đã nghiên cứu và sẽ đề xuất xử lý theo hướng người nộp thuế
sẽ khai và UBND phường, xã sẽ xác nhận thực trạng bệnh tật của người phụ
thuộc mà người nộp thuế khai.
Nhiều người khai thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đang băn khoăn vì
trường hợp của mình rõ ràng có người thân phụ thuộc và là trường hợp được
giảm trừ gia cảnh, nhưng khi đối chiếu với thông tư 84 của Bộ Tài chính về
thuế TNCN thì không chứng minh được những người phụ thuộc. Để giảm trừ
cho mỗi người con đang học đại học phải có ít nhất ba loại giấy tờ. Thêm nữa,
pháp luật quy định đòi quá nhiều loại giấy tờ. Có giấy tờ không đơn giản như
giấy chứng nhận y khoa đối với người phụ thuộc trong độ tuổi lao động nhưng
không có khả năng lao động. Bên cạnh đó, đã phát sinh mâu thuẫn khi kê khai
giảm trừ gia cảnh vì thành viên nào cũng muốn giảm trừ gia cảnh cho mình.
Khó khăn cho cơ quan xác nhận cho thủ tục giảm trừ gia cảnh. Đa số UBND
phường, xã đều không thể biết gia cảnh thực tế của người nộp đơn; vì thế cũng
không thể xác nhận được điều này. Thậm chí, hầu hết UBND phường xã luôn
từ chối nhận thông tin liên quan. Và hầu hết việc xác nhận mức độ tàn tật,

không có khả năng lao động đều đẩy cho cơ quan y tế. Trong đó không ít cơ
sở y tế, bệnh viện cũng cho rằng, hiện nay chưa có sự thống nhất phối hợp
giữa cơ quan y tế và cơ quan thuế. Không ít nơi cho rằng, việc lập nên một hội

8


đồng giám định tỉ lệ thương tật là rất phức tạp và tốn kém. Thế nhưng, nếu
không có hội đồng này thì các cơ sở y tề chỉ có thể dừng lại ở việc khám sức
khỏe.
Về kê khai giảm trừ người phụ thuộc, trường hợp một cá nhân có nhiều
nguồn thu nhập được tính giảm trừ, để tạo thuận lợi và đảm bảo quyền lợi cho
người nộp thuế, Bộ Tài chính cũng đang nghiên cứu theo hướng cho phép
người nộp thuế được chủ động lựa chọn việc giảm trừ vào bất cứ nguồn thu
nhập nào và tại nơi nào. Nếu tính giảm trừ vào một nguồn thu nhập hoặc một
nơi phát sinh thu nhập chưa hết thì người nộp thuế cũng được tiếp tục đăng ký
để tính giảm trừ vào nơi khác. Không phủ nhận là quy định này sẽ gây thêm
những khó khăn nhất định cho công tác quản lý của cơ quan thuế. Nhưng xuất
phát từ quyền lợi của người lao động, đồng thời cũng để giảm thiểu các công
việc hành chính thuế sau này cho công tác hoàn thuế thì quy định linh hoạt về
nguồn thu nhập tính giảm trừ gia cảnh là hoàn toàn hợp lý.
Với những hướng dẫn bổ sung như trên thì việc xác nhận của chính
quyền phường xã sẽ giảm đi rất nhiều, đồng thời cũng đơn giản được không ít
thủ tục hành chính cho người nộp thuế, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
thuế TNCN .
Thứ hai về mức giảm trừ gia cảnh:
Mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc theo Luật hiện
hành là chưa hợp lý, chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền. Theo thời giá
hiện nay, việc quy định mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/người/tháng đối
với cá nhân người nộp thuế và 1,6 triệu đồng/người/tháng đối với người phụ

thuộc là chưa đảm bảo cho đời sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở đô
thị. Một điểm chưa hợp lý nữa là mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính
đến khu vực, có nghĩa là ở nông thôn, thành thị, đồng bằng hay miền núi đều
áp dụng như nhau, nhưng thực tế cho thấy mức chi tiêu cho sinh hoạt hàng
ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn rất nhiều so với ở nông thôn và
9


miền núi. Ngoài ra, hiện nay có một thực tế là giá cả các mặt hàng trên thị
trường đang tăng chóng mặt, do đó sinh hoạt của người dân cũng tăng lên,
mặc dù mức lương tối thiểu đã tăng nhưng đời sống của người dân vẫn không
được cải thiện. Nếu cứ giữ mức giảm trừ gia cảnh như cũ thì sẽ không đảm
bảo được mục tiêu của nhà nước khi tăng lương cho người dân. Do đó, để vừa
có thể đảm bảo được việc mở rộng đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân; vừa
giữ cho đời sống người dân được ổn định và phát triển, không rơi vào tình
trạng túng bẫn do nộp thuế thì cần phải xem xét một mức giảm trừ hợp lý hơn,
phù hợp với cơ sở thực tiễn hơn.
Thêm nữa các quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh cũng tạo nên
tâm lý muốn trốn thuế đối với người nộp thuế . Theo quy định thì mỗi người
phụ thuộc chỉ được kê khai giảm trừ gia cảnh 1 lần vào một đối tượng nộp
thuế nhưng cũng không hiếm những trường hợp một người phụ thuộc nhưng
lai được nhiều người nộp thuế cùng kê khai giảm trừ . Việc này cũng xuất phát
từ việc các quy định và công tác kiểm tra , giám sát đối với việc kê khai người
phụ thuộc để giảm trừ của người nộp thuế vấn chưa thực sự chặt chẽ .
3. Hướng khắc phục việc thực thi pháp luật thuế về giảm trừ gia
cảnh
Tại cuộc hội thảo góp ý của doanh nghiệp và cá nhân về sửa đổi Luật
Thuế thu nhập cá nhân và Thuế Thu nhập doanh nghiệp do Bộ Tài chính tổ
chức ngày 8/11 tại Hà Nội nhiều ý kiến cho rằng mức tính giảm trừ gia cảnh
theo số tuyệt đối hiện nay là không phù hợp.

Đối với Luật Thuế thu nhập cá nhân, các đại biểu cho rằng, mức giảm
trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/người/tháng và 1,6 triệu
đồng/người phụ thuộc/tháng là không phù hợp với thực tế đời sống kinh tế, xã
hội.
Theo một số chuyên gia, việc quy định mức giảm trừ gia cảnh bằng số
tuyệt đối có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán song không công bằng, đặc biệt
10


trong bối cảnh nền kinh tế chưa ổn định, không đảm bảo được cuộc sống tối
thiểu cho người nộp thuế. Khi chính sách thuế thu nhập cá nhân còn chưa
nhận được sự đồng thuận nhất trí cao của đông đảo các tầng lớp dân chúng sẽ
gây khó khăn trong quá trình thực hiện, gây thất thu Ngân sách Nhà nước và
ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội. Góp ý về Luật Thuế thu nhập cá
nhân, đại diện của Hội tư vấn thuế Việt Nam đánh giá trong quá trình thực
hiện, việc thực thi Luật Thuế thu nhập cá nhân còn gặp nhiều khó khăn do các
nguyên nhân khách quan như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu và lạm phát tăng cao; cùng các nguyên nhân chủ quan
khác về mặt quy định thực thi Luật cũng như các hướng dẫn đưa ra còn thiếu
tính thực tiễn hoặc nhiều qui định và chưa nhất quán khiến việc thực thi luật
gặp khó khăn.
Tuy nhiên, cơ quan thuế hiện nay mới chỉ kiểm soát được thu nhập của
những người làm công ăn lương, còn các đối tượng khác phần lớn chưa kiểm
soát được thu nhập, và chưa đưa ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm
soát việc tuân thủ của các đối tượng đó. Việc này vô hình chung tạo ra sự
không công bằng trong quá trình thực thi luật. Trước thực tế khi triển khai
Luật Thuế thu nhập cá nhân thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng, cần xem xét
vấn đề hài hoà hoá thuế suất giữa chính sách thuế thu nhập cá nhân với các
chính sách thuế khác, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, để đảm bảo
tránh những tác động tiêu cực đến việc lựa chọn hình thức kinh doanh và nộp

thuế trên cơ sở xác định một tỷ lệ động viên ngân sách hợp lý. Ngoài ra, cần
có quy định chi tiết về hướng dẫn quyết toán thuế thu nhập cá nhân đối với
người nước ngoài để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thông lệ
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế tự kê khai, tự chịu trách nhiệm của
người nộp thuế.
Bên cạnh đó, việc miễn thuế thu nhập cá nhân đối với trường hợp
chuyển nhượng một nhà, đất duy nhất, trên thực tế hiện nay rất khó kiểm tra

11


tính chính xác và trung thực, mà chỉ hoàn toàn dựa vào sự tự giác của người
khai thuế, do đó tính rủi ro thất thu thuế rất cao. Vì vậy nên chuyển đối tượng
này từ được miễn thuế sang được giảm 50% số thuế phải nộp là phù hợp,
nhằm hạn chế thất thu thuế, đồng thời vẫn kiểm kê kiểm soát được hoạt động
chuyển nhượng kinh doanh bất động sản.
Theo các chuyên gia về lĩnh vực tài chính còn có một số quan điểm về
vấn đề này như sau:
Nâng mức giảm trừ thuế TNCN lên 6 triệu đồng/tháng và đối với
người phụ thuộc lên 2,4 triệu đồng /tháng
Theo TS. Đỗ Thị Thìn, Phó Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, thuế
TNCN đóng góp nguồn thu cho ngân sách ngày càng tăng. Luật Thuế TNCN
đã mở rộng phạm vi áp dụng đối với các loại thu nhập ngoài tiền công, tiền
lương như thu nhập từ đầu tư và kinh doanh... Tuy nhiên, cơ quan Thuế hiện
nay mới chỉ kiểm soát được thu nhập của những người làm công ăn lương,
còn các đối tượng khác phần lớn chưa kiểm soát được thu nhập, và chưa đưa
ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát việc tuân thủ của các đối
tượng đó. Việc này vô hình chung tạo ra sự không công bằng trong quá trình
thực thi.
Mức giảm trừ gia cảnh cũng nhận được nhiều đóng góp. Điều 19 Luật

thuế TNCN quy định: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu
đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là
1,6 triệu đồng/tháng.
Ông Nguyễn Văn Phụng - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính),
cho biết qua 3 năm thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN), các cơ
quan chức năng đã nhận ra một số bất cập, không còn phù hợp thực tế.
Sau một thời gian dài nghiên cứu, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo sửa đổi
luật này, mà theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai là "việc sửa đổi thuế
12


TNCN lần này vẫn sẽ kiên trì mục tiêu dài hạn là đảm bảo công bằng điều tiết
thu nhập, nâng cao đời sống người nộp thuế, khuyến khích cá nhân gia tăng
thu nhập, làm giàu chính đáng".
Theo Điều 19 Luật thuế TNCN thì giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào
thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền
lương tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh

gồm: giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng; cho mỗi
người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng (không hạn chế số người phụ thuộc).
Quy định này nay sửa lại là: mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp
thuế 6 triệu đồng/tháng (78 triệu đồng/năm), mức giảm trừ cho mỗi người phụ
thuộc là 2,4 triệu đồng / tháng ( 28,8 triệu đồng / năm )
Theo tính toán của Bộ Tài chính, mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng tương
đương 1,7 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2014 (cao nhất so với các
nước trong khu vực có điều kiện tương đồng và khá hơn nước ta). Mức này
cũng cao gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức
(dự kiến là 1.670.000 đồng/tháng) và đảm bảo cao hơn mức thu nhập trung
bình của xã hội vào thời điểm năm 2014 .
Với mức giảm trừ gia cảnh này, số người nộp thuế không bị giảm nhiều,

đáp ứng được yêu cầu dài hạn là mở rộng diện nộp thuế cùng với tăng trưởng
kinh tế và mức tăng thu nhập dân cư .
Dự kiến sẽ có khoảng 70% số người đang nộp thuế ở bậc 1 sẽ chuyển
sang diện không phải nộp thuế, 70% số người đang nộp thuế ở bậc 2 sẽ
chuyển sang nộp thuế ở bậc 1, các bậc khác cũng tương tự, và dự kiến giảm
thu khoảng 8.150 tỷ đồng

13


Về mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc, có ý kiến đề nghị không
nên quy định tất cả các khoản thu nhập của người phụ thuộc mà chỉ nên quy
định khoản thu nhập có tính chất ổn định đều đặn hàng tháng như thu nhập từ
tiền lương, thu nhập kinh doanh, thu nhập từ đầu tư vốn... Ngoài ra, mức xác
định thu nhập để tính là người phụ thuộc 500.000 đồng/tháng tức 6.000.000
đồng/năm so với tình hình hiện nay là thấp đề nghị điều chỉnh tăng lên.
Nhìn lại, Luật thuế TNCN hiện hành được Quốc hội khoá 12 thông qua tại
kỳ họp thứ 2 ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009. Theo đó,
mức giảm trừ gia cảnh của bản thân người nộp thuế được quy định là
4.000.000 đ/tháng và của người phụ thuộc là 1.600.000 đ/người/ tháng. Tại
thời điểm đó, lãnh đạo Bộ Tài chính cũng trình bày trước Quốc hội với đầy đủ
"căn cứ khoa học", tương tự như lý giải của ông Phó Vụ trưởng Vụ Chính
sách thuế đã nêu trên để chứng minh rằng, các mức tuyệt đối quy định nêu
trên sẽ không bị lạc hậu vào năm 2009. Song, thực tế không phải như vậy.
Lạm phát và suy thoái kinh tế đã tạo ra những áp lực buộc phải lùi thời hạn
hiệu lực của Luật thuế TNCN tới 1/7/2009. Sau đó, Luật thuế TNCN có hiệu
lực nhưng đến cuối năm 2011, chúng ta lại phải có những điều chỉnh nhằm
"vô hiệu hoá" mức giảm trừ gia cảnh (4.000.000 đ) đối với bản thân người
nộp thuế. Từ khi Luật thuế TNCN được thông qua đến nay, mức lương tối
thiểu đã được điều chỉnh nhiều lần. Mức lương tối thiểu tại vùng 1 vào năm

2007 là 450.000 đ/ tháng; năm 2008 là 540.000 đ/ tháng; năm 2009 là 800.000
đ/ tháng, năm 2010 là 980.000 đ/ tháng; từ 1/1 đến 30/9/2011 là 1.350.000 đ/
tháng và từ 1/10/2011 là 2.000.000 đ/ tháng. Đây là mức tăng có tỷ lệ cao nhất
(48% so với mức lương tối thiểu trước đó). Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự
"vô hiệu hoá" những chỉ tiêu quan trọng nhất trong Luật thuế TNCN như nêu
trên là những dự đoán của chúng ta về sự phát triển của nền kinh tế đều không
chính xác. Đó là điều không có gì lạ. Bởi lẽ, nền kinh tế Việt Nam đã và đang
có độ mở khá cao, còn phụ thuộc rất lớn vào kinh tế thế giới và khoa học dự
đoán của chúng ta cũng đang ở trình độ rất khiêm tốn .
14


Vì vậy, nếu tiếp tục quy định mức giảm trừ gia cảnh đối với bản thân
người nộp thuế và cho người phụ thuộc bằng một co số tuyệt đối trong văn
bản Luật thì sự lạc hậu nhanh chóng của quy định đó sẽ tiếp tục xẩy ra và
những biện pháp xử lý "chữa cháy" như đã thực hiện đầu năm 2009 và cuối
năm 2011 lại tái diễn .
Để khắc phục tình trạng nêu trên xin kiến nghị quy định mức giảm trừ
gia cảnh cho bản thân người nộp thuế bằng một hệ số so với mức lương tối
thiểu ở vùng I và mức giảm trừ gia cảnh đối với một người phụ thuộc bằng tỷ
lệ % so với mức giảm trừ gia cảnh của bản thân người nộp thuế. Chẳng hạn,
mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế bằng 3 lần mức lương tối
thiểu của vùng I; mức giảm trừ gia cảnh của một người phụ thuộc bằng 40%
mức giảm trừ gia cảnh của bản thân người nộp thuế (tính theo tỷ lệ các mức
giảm trừ vừa được đưa ra).Bởi lẽ, mức lương tối thiểu quy định từ 1/10/2011
chỉ được "cam kết" là ổn định trong năm 2012. Hơn nữa, cũng không nên lấy
mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức làm chuẩn vì đó là mức lương tối
thiểu đã quá lạc hậu, cần điều chỉnh với tốc độ cao hơn trong những năm tới.
Quy định như trên sẽ tạo ra cơ chế tự động điều chỉnh thuế TNCN khi mức
lương tối thiểu được điều chỉnh, không cần có những biện pháp chắp vá, phức

tạp gây tốn kém cho cả cơ quan quản lý nhà nước và người nộp thuế.
Và cuối cùng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền , thanh tra và kiểm tra
đối với việc kê khai giảm trừ gia cảnh để giảm bớt tình trạng người nộp thuế
gian lận thuế , không chịu đăng kí kê khai để nộp thuế .
III. Kết luận
Có thể thấy rằng vấn đề giảm từ gia cảnh mà Luật thuế thu nhập cá
nhân quy định là tương đối rõ ràng và cụ thể. Quy định này, về cơ bản, bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, đảm bảo được sự bình đẳng
trong gia đình và sự công bằng xã hội. Tuy nhiên từ thực tế áp dụng cho thấy

15


quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh còn một số điểm chưa hợp lý cần
nhanh chóng khắc phục để đạt hiệu quả tốt hơn trên thực tế áp dụng.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2010
2. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
3. www.chinhphu.vn
4. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 12/2012, ngày 15/3/2012 trang 53
5. Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3, tháng 3/2008.

MỤC LỤC

I. Đặt vấn đề…………………………………………………………………1

17


1. Quy định của pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.

1

1.1.Khái niệm giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật..............1
1.2.Mức giảm trừ gia cảnh........................................................................2
1.3. Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc…………………………….3
1.4.Hồ sơ chứng minh, thủ tục kê khai giảm trừ đối với người……….3
phụ thuộc
1.5.Cách tính thuế và việc khấu trừ ………………………………………5

2. Thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và giải pháp .8
3.Hướng khắc phục việc thực thi pháp luật thuế về giảm trừ gia
cảnh.........................................................................................................10
C.Kết luận 15

18



×