Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

hòa giải vụ án dân sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.15 KB, 10 trang )

MỞ BÀI:
Sau khi thụ lý vụ án, để giải quyết vụ án Tòa án tiến hành giải thích pháp
luật, giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết các vấn đề của vụ án dân sự có tranh chấp. Hoạt động này của Tòa án được
gọi là hòa giải vụ án dân sự. Chế định hòa giải có vai trò rất quan trọng trong Tố
tụng dân sự. Hòa giải góp phần tiết kiệm chi phí và tiền của cho Nhà nước, cho
người dân, giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, đồng thời giải quyết hiệu quả mâu
thuẫn giữa các đương sự, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân. Do đó, cần có sự quan tâm đúng mức đối với chế định
hòa giải trong tố tụng dân sự, có như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự mới được đảm bảo. Nhận thức được vấn đề này, nhóm chúng em xin
chọn “hòa giải vụ án dân sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự về hòa giải vụ án dân sự” làm đề tài nghiên cứu của nhóm.
NỘI DUNG:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự
Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà
Nội, “Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do tòa án tiến hành nhằm giúp
đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự”.
Từ định nghĩa này, có thể thấy những đặc điểm cơ bản của hòa giải vụ án
dân sự đó là:
- Hòa giải là 1 thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự tại
Tòa án
Từ Điều 180 đến Điều 188 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 (BLTTDS),
Điều 220 và Điều 269 BLTTDS quy định việc hòa giải vụ an dân sự là một thủ tục
bắt buộc trong quá trình tố tụng của một vụ án dân sự, trừ những trường hợp pháp
luật quy định không được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải được. Ở các giai


đoạn tố tụng tiếp theo, nếu thấy có khả năng hòa giải thành thì Tòa án cũng tiến
hành hòa giải.


- Cơ quan tiến hành hòa giải vụ án dân sự là Tòa án
Trong hoạt động hòa giải, Tòa án xuất hiện không phải với tư cách một bên
tham gia hòa giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng, thỏa
thuận với nhau. Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các đương sự hiểu
được quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Kết quả
hòa giải do Tòa án tiến hành là những văn bản có tính chất pháp lý, là cơ sở để tiếp
tục các hành vi tố tụng tiếp theo. Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định
vị trí trung gian của Tòa án trong việc hòa giải các vụ án dân sự.
- Trong quá trình hòa giải, các đương sự thương lượng, thỏa thuận về quyền và
lợi ích của mình
Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất
hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Họ là người hiểu hơn ai hết mâu
thuẫn của chính họ, chính họ mới có quyền tự định đoạt để giải quyết các mâu
thuẫn của mình, Tòa án không được dùng bất kỳ hình thức cưỡng ép, bắt buộc nào
nhằm đảm bảo tính tự nguyện của các đương sự. Sự thỏa thuận giữa các đương sự
chính là đặc trưng cơ bản của hòa giải, đó cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và
xét xử.
2. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
- Về mặt pháp lý: Hòa giải giúp tòa án giải quyết nhanh chóng vụ án dân sự. Thực
tiễn cho thấy thông qua hòa giải một số lượng lớn các vụ án dân sự đã được giải
quyết. Mặt khác, nếu hòa giải không thành thì Tòa án cũng có điều kiện nắm vững
nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường lối xét
xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án.
- Về mặt kinh tế: Trong thực tế có những vụ án kéo dài nhiều năm phải xử đi xử lại
nhiều lần, gây tốn kém rất nhiều thời gian, tiền của. Đối với những vụ án được giải
quyết bằng hòa giải thì thời gian giải quyết vụ việc rất ngắn, có thể từ một đến hai
tháng, nếu sự thỏa thuận của đương sự đạt được ở giai đoạn trước khi đưa vụ án ra


xét xử sơ thẩm. Do đó việc hòa giải thành công giúp tiết kiệm thời gian, tiền của

cho Nhà nước cũng như cho nhân dân.
- Về mặt xã hội: Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án trong quá trình
hòa giải, các đương sự nắm bắt được qui định của pháp luật liên quan đến quan hệ
đang tranh chấp, hiểu được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hòa giải thành
công sẽ giúp các đương sự hiểu biết, thông cảm cho nhau, giúp họ giải quyết tranh
chấp với tinh thần cởi mở, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội. Trường hợp
hòa giải không thành cũng giúp cho các đương sự kiềm chế mâu thuẫn không làm
cho tranh chấp phát triển phức tạp. Như vậy hòa giải đã củng cố tinh thần đoàn kết
trong nhân dân, giảm bớt những mâu thuẫn, góp phần vào việc giữ gìn an ninh trật
tự, công bằng xã hội, đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển lành mạnh.
II. CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH
1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải
1.1. Hòa giải phải trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận của các đương sự
Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định: việc hòa giải phải “ tôn trọng sự tự
nguyện thỏa thuận của các đương sự , không được dung vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực, bắt buộc đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”.
Như vậy, pháp luật quy định việc hòa giải phải xuất phát từ tự nguyện thỏa thuận
của các đương sự, thể hiện ở hai nội dung:
- Tự nguyện tham gia hòa giải: cơ sở pháp lí của hòa giải xuất phát từ nguyên tắc
quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, hòa giải không chỉ là trách nhiệm của Tòa
án mà còn là quyền của đương sự. Đương sự có quyền lựa chọn có tham gia hòa
giải hay không.
- Tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: trong quá trình hòa giải, các bên tranh
chấp được bàn bạc thảo luận và đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp.
Nếu đương sự chấp nhận thỏa thuận mà việc chấp nhận này là do hành vi dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của đương sự làm cho họ


phải lực chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự nhân

phẩm, tài sản thì không được gọi là tự nguyện thỏa thuận.
1.2. Việc hòa giải không được trái pháp luật và đạo đức xã hội
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự chứa đựng quyền và lợi ích giữa các
bên tranh chấp. Pháp luật chỉ bảo hộ những quyền và lợi ích hợp pháp, do đó, mọi
thỏa thuận trái pháp luật đị đều không được pháp luật thừa nhận, không có giá trị
phá lí. Quy định này nhằm bảo đảm trật tự công. Sự tuân thủ là yêu cầu bắt buộc
trong lĩnh vực của đời sống xã hội nên sự thỏa thuận của các bên hòa giải cũng
không phải là ngoại lệ, nhất là thỏa thuận này có sự chứng kiến của Tòa án.
2. Phạm vi và nội dung hòa giải
2.1. Phạm vi hòa giải
2.1.1. Những vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải
Điều 180 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án.
Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được
theo quy định tại Điều 181 và Điều 182 Bộ luật này”. Theo quy định của điều luật
thì các vụ án mà Toà án phải tiến hành hoà giải là tất cả các vụ án có tranh chấp
thuộc thẩm quyền của Toà án. Đối với những vụ án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm thì việc tiến hành hoà giải vụ án trước khi xét xử sơ thẩm là một thủ tục bắt
buộc. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm thì BLDS không quy định Toà án có trách nhiệm
hoà giải trước tại Toà án cấp phúc thẩm. Toà án câp phúc thẩm chỉ hỏi xem các
đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết hay không.
2.1.2. Những vụ án dân sự không được tiến hành hòa giải
Theo Điều 181 BLTTDS, những vụ án không được tiến hành hòa giải bao gồm:
+ Thứ nhất, yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
Vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ có thể
giải quyết bằng việc Tòa án mở phiên tòa xét xử. Quy định này nhằm phòng ngừa
trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại, thất
thoát tài sản của Nhà nước.



+ Thứ hai, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội.
Những giao dịch trái pháp luật và trái đạo đức xã hội là những giao dịch vô
hiệu tuyệt đối được quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự 2005. Về bản chất thì giao
dịch vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ ngay từ thời điểm xác lập. Do
vậy, pháp luật quy định Tòa án không tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của họ trong giao dịch vô hiệu này.
2.1.3. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
Theo Điều 182 BLTTDS, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
bao gồm bao gồm:
- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng
mặt.
- Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì lý do chính đáng.
- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi
dân sự.
Như vậy, những trường hợp không hòa giải được là những trường hợp liên
quan đến việc vắng mặt của đương sự và liên quan đến năng lực hành vi của đương
sự. Trong những trường hợp này nếu Tòa án cố tình hòa giải thì việc hòa giải cũng
không đạt kết quả và mục đích của hòa giải. Quy định này giúp cho việc giải quyết
vụ án được nhanh chóng, thuận tiện.
2.2. Nội dung hòa giải
Điều 185 BLTTDS quy định về nội dung hòa giải: “Khi tiến hành hoà giải,
Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình,
phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án”.
Như vậy, nội dung hòa giải chính là các vấn đề của vụ án cần được các bên
thỏa thuận với nhau giải quyết. Các vấn đề cần giải quyết trong mỗi vụ án khác
nhau nên nội dung hòa giải của các vụ án dân sự khác nhau. Tùy mỗi vụ án cụ thể



mà Tòa án phải giúp các đương sự thỏa thuận giải quyết những vấn đề nhất định
như thỏa thuận về mức, phương thức bồi thường thiệt hại trong vụ án đòi bồi
thường thiệt hại trong vụ án đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; việc phân
chia di sản trong vụ án thừa kế v.v..
3. Thành phần phiên hòa giải
Theo Điều 184 BLTTDS, thành phần phiên hòa giải bao gồm:
- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải;
- Thư kí Tòa án ghi biên bản hòa giải;
- Các đương sự hoặc người đại điện hợp pháp của các đương sự;
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa
giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó
không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến
hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa
giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa
giải.
- Người phiên dịch, nếu đương sự không biết Tiếng việt.
BLTTDS quy định rất rõ người tiến hành hòa giải phải là Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án, còn Thư ký chỉ là người giúp việc và phải có mặt trong
phiên hòa giải để ghi biên bản hòa giải. Việc quy định này là cần thiết vì hòa giải là
để cho đương sự tự giải quyết vi nhau trước, bằng cách thương lượng thỏa thuận và
sự thỏa thuận này phải được Tòa án công nhận bằng một quyết định, quyết định
này có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự, đồng thời cũng đòi hỏi sự tôn
trọng của cả xã hội.
4. Thủ tục hòa giải vụ án dân sự
Hòa giải vụ án dân sự được tiến hành trong thời gian chuẩn bị xét xử sau khi
Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự và được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự với các bước như sau:
Bước 1: Triệu tập đương sự



Theo Điều 183 BLTTDS, trước khi tiến hành phiên hòa giải, Tòa án phải
thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự về thời gian,
địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Thủ tục thông
báo phải tuân theo quy định tại Chương X BLTTDS về cấp, tống đạt thông báo
văn bản tố tụng.
Để việc hòa giải đạt kết quả cao, theo Điều 185 BLTTDS, trước khi hòa giải,
Thẩm phán phải xác định rõ những vấn đề quan trọng của vụ án, đảm bảo cho việc
hòa giải thành công như xác định quan hệ pháp luật bị xâm phạm hay đang tranh
chấp, tư cách đương sự tham gia tố tụng và những tài liệu chứng cứ cần thiết chứng
minh sự thật trong vụ án này.
Theo khoản 1 Điều 185a BLTTDS, trong giai đoạn này, Tòa án phải xem xét
đến sự có mặt của đương sự, nếu có đương sự vắng mặt thì tùy từng trường hợp mà
Tòa án quyết định giải quyết theo các hướng quy định tại khoản 1, khoản 2 và
khoản 3 Điều 183 BLTTDS.
Bước 2: Tiến hành phiên hòa giải
Theo Điều 185a BLTTDS, trình tự tiến hành phiên hòa giải như sau:
- Khi đã có đầy đủ điều kiện để tiến hành phiên hòa giải thì Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án có cán bộ Thư ký Tòa án giúp việc ghi biên bản sẽ tiến
hành phiên hòa giải. Thẩm phán công bố nội dung vụ án tranh chấp, phổ biến cho
các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
để các bên liên hệ đến quyền và lợi nghĩa vụ của mình. Thẩm phán phân tích hậu
quả pháp lý của việc hòa giải thành hoặc không thành để các bên đương sự tự
nguyện thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Sau khi được Thẩm phán hướng dẫn và nghe giải thích pháp luật có liên
quan đến vụ án tranh chấp, đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định
hướng giải quyết. Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra cách giải quyết bất
hợp lý thì Thẩm phán chủ trì phải kịp thời phân tích, chỉ cho họ biết yêu cầu mà họ
đưa ra là phi lý để họ cân nhắc lại.



-Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong
vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp
và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản hòa giải thành này chưa
có hiệu lực pháp luật mà chỉ ghi nhận sự thỏa thuận của các bên. Sự thỏa thuận của
các bên sẽ có hiệu lực ràng buộc các bên sau khi Tòa án ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự. Thủ tục ra quyết định này được quy định tại Điều 187
BLTTDS.
-Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về các vấn
đề phải giải quyết, nếu có các căn cứ đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy
định tại Điều 189 và Điều 192 BLTTDS thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án tương ứng với từng trường hợp. Nếu không có các căn cứ tạm
đình chỉ và đình chỉ vụ án thì Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, để đảm
bảo “mọi tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội đều được giải quyết”.
III. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN
DÂN SỰ
1. Kiến nghị về xây dựng pháp luật
- Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS, thì việc pháp luật quy định hòa giải
đối với việc dân sự là không phù hợp với bản chất của việc dân sự. Do đó, cần sửa
đổi Điều 10 theo hướng Tòa án chỉ hòa giải “vụ án dân sự” thay vì “vụ việc dân
sự” như hiện nay. Quy định như vậy sẽ phù hợp với bản chất của việc dân sự và
thống nhất việc áp dụng luật trong thực tiễn giải quyết việc dân sự.
- Điều 184 BLTTDS quy định về thành phần phiên hòa giải. Tuy nhiên điều
luật này lại không đề cập đến sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, dẫn đến trường hợp một số Tòa án áp dụng luật một cách máy
móc và không cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
tham gia phiên hòa giải. Điều này đã làm hạn chế quyền được biết và nghĩa vụ bảo
vệ của họ đối với đương sự trong quá trình tố tụng. Do đó, thiết nghĩ Điều 184 nên
bổ sung thêm thành phần phiên hòa giải bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự.


- Đối với quy định về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được tại
Điều 182, để tránh tình trạng hiểu và xử lí khác nhau giữa các Tòa án về việc xác
định các trường hợp đương sự không thể tham gia phiên hòa giải vì lí do chính
đáng (theo Khoản 2 Điều 182) thì pháp luật nên bổ sung theo hướng chặt chẽ và rõ
ràng hơn các trường hợp được coi là có “có lí do chính đáng”.
- Về thủ tục hòa giải, quy định tại Khoản 3 Điều 187 có nghĩa là, các đương
sự có mặt vẫn có quyền thỏa thuận những vấn đề có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa
vụ của đương sự vắng mặt, trong khi đó Khoản 3 Điều 184 lại quy định các đương
sự có mặt chỉ được tiến hành hòa giải khi việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến
quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Như vậy, để tránh gây hiểu nhầm rằng
hai điều luật này có mâu thuẫn với nhau, nhà nước cần ban hành những hướng dẫn
thống nhất và chi tiết về cách hiểu của hai điều luật này phòng trường hợp áp dụng
khác nhau trên thực tế.
Một vấn đề nữa đặt ra ở đây là, Khoản 2 Điều 187 quy định: “Thẩm phán
chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự
thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án”. Với quy định này thì
có thể hiểu, chỉ khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ vụ án thì
Tòa án mới công nhận sự thỏa thuận của họ, Tuy nhiên, trong thực tiễn, khi vụ án
đã được mang ra giải quyết tại Tòa án thì việc Tòa án có thể hòa giải được giữa các
đương sự là một việc vô cùng khó khăn do khi đã khởi kiện ra Tòa án, các đương
sự đã không thể tìm được tiếng nói chung để giải quyết mâu thuẫn. Vì vậy, Điều
luật cần được sửa đổi theo hướng: dù các đương sự chỉ thỏa thuận giải quyết được
một phần của vụ án thì Tòa án cũng cần tôn trọng thỏa thuận đó và ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần này nếu Tòa án thấy rằng thỏa
thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội và không xâm phạm
đến quyền và lợi ích của các đương sự khác.
2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật

- Cần bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng hòa giải cho
Thẩm phán. Thẩm phán là người chịu trách nhiệm chủ trì phiên hòa giải do đó việc


bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn cho Thẩm phán luôn là yêu cầu quan
trọng. Việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ và kĩ năng hòa giải cho người làm công
tác xét xử có thể thông qua các hoạt động như: tham gia các lớp học nghiệp vụ, lớp
bồi dưỡng, hội thảo, tập huấn, .. do các ngành các cấp tổ chức.
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ hòa
giải của mình, Nhà nước cũng cần quan tâm đến việc đảm bảo cho Tòa án các cấp
đủ cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cũng như đảm bảo đầy đủ cuộc sống sinh
hoạt cho những người làm công tác hòa giải để họ an tâm hoàn thành tốt công việc.
- Cần nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Thực tế cho thấy, một trong
những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp dân sự là trình độ hiểu biết pháp luật, ý
thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn
chế. Để nâng cao ý thức pháp luậ cho nhân dân cần triển khai đồng bộ các hình
thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật như: Tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng, thong qua các hội nghị, xây dựng tủ sách pháp luật… Đặc
biệt,cần tuyên truyền phổ biến ý nghĩa của công tác hòa giải để nâng cao nhận thức
của nhân dân về vai trò, ý nghĩa của hòa giải để hiệu quả của hòa giải được cao
hơn.
KẾT BÀI:
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy rõ tầm quan trọng của chế định
hòa giải trong tố tụng dân sự. Hòa giải không chỉ có ý nghĩa kinh tế, xã hội mà còn
thể hiện tính khoa học trong lĩnh vực pháp lý và hoạt động của Tòa án. Bên cạnh
việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự, đem lại tình đoàn
kết trong nhân dân, hòa giải còn giúp cho Tòa án thông qua đó thực hiện việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của các điều kiện về kinh tế, xã hội dẫn tới
sự phát triển của các quan hệ xã hội, một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự

về hòa giải không còn phù hợp nữa. Do đó, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện chế
định hòa giải trong tố tụng dân sự là một vấn đề bức thiết và luôn luôn cần được
chú trọng.



×