Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.84 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, giới và bình đẳng giới đã trở thành vấn đề mang tính thời đại, là
một trong những vấn đề đang được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới,
tự nó là mục tiêu phát triển và là yếu tố nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc
gia, xóa đói giảm nghèo và góp phần quản lí nhà nước hiệu quả. Xây dựng xã hội
bình đẳng giới là một phần quan trọng nằm trong chiến lược phát triển nhằm đảm
bảo để tất cả mọi người – cả nam và nữ, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo
công bằng xã hội.
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là viêc nam, nữ trong
mối quan hệ giới được thừa nhận, coi trọng và tạo điều kiện phát huy những khả
năng vốn có của chính mình, cũng như được thụ hưởng những thành quả trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, thể dục,
thể thao, y tế nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của xã hội. Trong đó lao động
có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của con người. Nghiên cứu bình đẳng giới
trong lĩnh vực lao động là một việc làm cần thiết trong xã hội hiện nay, nhằm tìm
ra các giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong lao động và trong xã hội. Với tư
cách là một bộ phận của xã hội vấn đề lao động không thể không nói tới vấn đề
giới.
Bởi vậy nhóm em xin chọn đề tài: “Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao
động- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để đi sâu và làm rõ vấn đề trên.

1


NỘI DUNG
INHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Một số khái niệm
1.1. Giới tính
Giới tính là những khác biệt sinh lý cơ bản nhất giữa đàn ông và đàn bà,
khác biệt về cơ quan sinh dục và khả năng sinh sản.
Khoản 2 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “ Giới tính chỉ các đặc


điểm sinh học của nam, nữ”
1.2.

Giới

Dưới góc độ xã hội học, giới chỉ sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và nữ,
phản ánh đặc điểm quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ, liên quan đến địa vị xã hội
của nam giới và phụ nữ.
Dưới góc độ Luật học, khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy đinh:
“Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã
hội”
1.3. Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ đều có vị thế
bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Phụ nữ và nam giới cùng:
+ Có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các nguyện
vọng của mình.
+ Có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực
xã hội và thành quả phát triển.
+ Được bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
-

Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động:

Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là sự ngang nhau giữa lao
động nam và lao động nữ về lĩnh vực lao động, về nghĩa vụ và quyền lợi hay cống
hiến và hưởng thụ. Như vậy, không có nghĩa là phải bảo đảm bình đẳng giới theo
2



nghĩa tuyệt đối mà phải giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo
nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì có quyền lợi (được
hưởng thụ) ngang nhau từ kết quả lao động, việc làm; đồng thời tạo cơ hội như
nhau giữa nam và nữ trong phát triển nghề nghiệp, tạo và tìm kiếm việc làm, tiền
lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội và các điều kiện việc làm khác.
1.4.

Đặc điểm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động

Tính ngang quyền: phụ nữ cần được tạo điều kiện và cơ hội ngang bằng nam
giới trong lĩnh vực lao động.
Tính ưu đãi: do đặc điểm sinh học và truyền giống của phụ nữ khác biệt so
với nam giới, để đạt được bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích
đặc biệt và hợp lý đối với phụ nữ. Ví dụ phụ nữ phải đảm nhận chức năng sinh đẻ
và nuôi con nhỏ, vì vậy pháp luật lao động quy định khi nữ lao động nghỉ thai sản
họ vẫn được hưởng nguyên lương đồng thời được trợ cấp thai sản.
Tính linh hoạt: sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt
trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không mang tính bất biến. Ví dụ, do đặc điểm
sinh học của phụ nữ nên phụ nữ thường có thể chất yếu hơn và sức chịu đựng kém
hơn so với nam giới, vì vậy pháp luật các nước đều có quy định cấm tuyển dụng nữ
lao động trong các nghành nghề lĩnh vực nguy hiểm, nặng nhọc. Tuy nhiên, khi
khoa học kỹ thuật phát triển, điều kiện lao động được cải thiện, cần có sự điều
chỉnh cho phù hợp nhằm loại bỏ quy định cấm này đối với các nghành nghề, lĩnh
vực đã được cải thiện điều kiện lao động, để tạo thêm cơ hội có việc làm cho phụ
nữ.
Tính phân loại: bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động không chỉ được xem
xét vị thế của phụ nữ và nam giới trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng
lớp phụ nữ thuộc các thành phần xã hội khác nhau trong các vùng lãnh thổ khác
nhau, trong phạm vi quốc gia và trên thế giới. Ví dụ quy định tăng độ tuổi nghỉ hưu
đối với phụ nữ, thì mặt bằng chung này có thể có lợi cho nữ giới lao động trong

3


lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giảng dạy...nhưng lại bất lợi đối với nữ giới ở khu
vực lao động nặng nhọc, phụ nữ nông thôn và phụ nữ trong khu vực kinh tế phi
tiền tệ (nội trợ). Như vậy, quy định trên chỉ đem lại mặt bằng ưu tiên hạn hẹp, dẫn
đến làm dãn khoảng cách đối xử và tạo ra phân biệt đối xử trong nữ giới nói chung.
1.5.

Định kiến giới

Khoản 4 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy đinh: “Định kiến giới là nhận
thức, thái độ và cách đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và
năng lực của nam hoặc nữ.”
1.6.

Bất bình đẳng xã hội

Là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các cơ hộivà các quyền
lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân các nhóm xã hội. Trên lí
thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là không bằng nhau, không ngang nhau về
các khía cạnh cơ bản của cuộc sống xã hội giữa các cá nhân các nhóm người. Trên
thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội được dung chủ yếu để chỉ môi trường
tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến mức gây tổn hại đến quyền và
lợi ích của bên yếu thế.
2. Quy định của pháp luật về Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
2.1.

Trong một số văn bản pháp luật.


Quan điểm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm được Công ước
CEDAW quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 11. Phù hợp với các quy định tại khoản
1 Điều 11 của Công ước, kế thừa đạo lý truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, trong lĩnh vực lao động, Nhà nước ta đã thể chế hoá bằng
những quy định cụ thể trong Hiếp pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 62,
Điều 63), văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Bộ luật Lao động năm 2012, văn bản pháp luật quan trọng
nhất điều chỉnh toàn diện các vấn đề lao động và việc làm nói chung, trong đó
4


dành riêng một chương (Chương X) quy định các vấn đề việc làm đối với lao động
nữ…
Tại Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ
sung có quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã
hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.” (điều 55). Tại
điều 63 cũng có ghi “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt...
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động
nữ có quyền hưởng chế độ thai sản… Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ
nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội;
…. ”
Luật bình đẳng giới đã có quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao
động, cụ thể Điều 13 Luật Bình đẳng giới nêu rõ:
“1. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình
đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều
kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
2.Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các
chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
3.Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ
làm việc trong một số ngành , nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các
chất độc hại.”
Ngoài ra vấn đề này còn được quy định trong một số văn bản pháp luật
hướng dẫn khác.

5


2.2.

Trong bộ luật lao động 2012

Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động được thể hiện trong các quy định của
pháp luật lao động mà cụ thể là các điều khoản tại Chương X Bộ Luật Lao động
(BLLĐ) năm 2012 bao gồm các nội dung sau:
2.2.1. Chính sách của nhà nước đối với lao động nữ
Bộ luật lao động dành nhiều chương, điều khoản riêng điều chỉnh các quan
hệ lao động mà người lao động là nữ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực
lao động . Bộ luật lao động đã đảm bảo được vấn đề lồng ghép giới trong từng lĩnh
vực. Cụ thể là:
- Điều 153 về chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ quy định: “Bảo đảm
quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ, khuyến khích người sử dụng lao động
tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ
làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm
tại nhà....”
-BLLĐ bảo vệ quyền lợi của lao động nữ trong việc trả lương ngang bằng với nam
giới khi cùng làm công việc như nhau; bình đẳng trong việc nâng bậc lương và trả

công lao động tại Điều 90
-Điều 12 về chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển việc làm quy đinh: “ hỗ trợ
người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động nữ”
- BLLĐ có quy định riêng về người lao động giúp việc gia đình. Đây là một loại
hình lao động phổ biến trong xã hội ngày nay. Chủ yếu lao động giúp việc là lao
động nữ. Luật đã quy định cụ thể về nghĩa vụ của người sử dụng lao động tại Điều
181 và Điều 183
- BLLĐ giữ nguyên tuổi nghỉ hưu của nam là 60, của nữ là 55, trừ một số trường
hợp đặc biệt như khi người lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, người
6


lao động làm nghề công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác (có thể
nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm so với quy định) – Điều 187
- Chính sách của nhà nước về lao động, Bộ luật lao đông 2012 quy định: “Bảo
đảm nguyên tắc bình đẳng giới, quy định chế độ lao động và chính sách xã hội
nhằm bảo vệ lao động nữ,…” (Điều 4). Cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới
tính,…; ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm viêc…” (Điều 8)
- Về việc làm và giải quyết việc làm, BLLĐ quy định chính sách của Nhà nước hỗ
trợ và phát triển việc làm, trong đó có “hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng
nhiều lao động nữ để giải quyết việc làm” (Điều 12)
- Về sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động , BLLĐ quy định các trường
hợp mà người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động , trong đó có
trường hợp người lao động bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức tình dục,
lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bênh (Điều
37) hay tại khoản 3 Điều 155 về các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao
động, Điều 32 quy định “… lao động nữ mang thai theo Điều 156 của luật này…”

7



2.2.2. Các quy định về bảo vệ sức khỏe lao động nữ
Điều 160 quy định về các công việc không được sử dụng lao động nữ bao
gồm: Công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban
hành, Công việc phải ngâm mình thường xuyên dưới nước, Công việc làm thường
xuyên dưới hầm mỏ. Đây đều là các công việc nặng nhọc, không phù hợp với đặc
điểm về sức khỏe, giới tính cơ bản của phụ nữ. Ví dụ như các công việc trong hầm
mỏ thường là các công việc nặng nhọc, tiếp xúc nhiều với khí độc, sự ô nhiễm;
không khí dưới các hầm mỏ cũng thường ngột ngạt nên sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe
của người phụ nữ. Vì nam giới luôn có sức khỏe tốt hơn nữ giới, lại không phải
thực hiện “thiên chức” do đó không tuyển lao động nữ vào các công việc này.
Cũng bởi đặc điểm về sức khỏe mà, Điều 152 khi quy định về chăm sóc sức khỏe
của người lao động cũng ghi nhận: “lao động nữ phải được khám chuyên khoa phụ
sản”
Khoản 1Điều 154 quy định về nghĩa vụ đầu tiên của người sử dụng lao động
đối với lao động nữ: “Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác.”. Điều khoản này đưa cả những biện
pháp thúc đẩy bình đẳng giới vào làm một trong những nghĩa vụ của người sử
dụng lao động nữ. Ngoài ra, nó còn quy định các nghĩa vụ khác như: Tham khảo ý
kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan
đến quyền và lợi ích của phụ nữ; bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù
hợp tại nơi làm việc; giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần
chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho lao động nữ.
2.2.3. Bảo vệ và hỗ trợ người mẹ:

8



Chức năng sinh con là chức năng tự nhiên gắn liền với người phụ nữ, không
thể chuyển giao cho người khác. Phụ nữ là người trực tiếp thực hiện vai trò tái sản
xuất sinh học. Bằng việc mang thai và sinh con, người phụ nữ đã thực hiện việc
duy trì nòi giống, duy trì dân số của quốc gia, đảm bảo lực lượng lao động trong
tương lai của đất nước. Vì vậy, lao động nữ cần trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con
ốm, khám thai, thực hiện các biện pháp tránh thai tại Điều 159, hay tại các Điều
156, 157, 158. Việc quy định này thể hiện rất rõ chính sách bảo vệ và hỗ trợ người
mẹ - một trong những nguyên tắc của Luật Bình đẳng giới và đây không bị coi là
phân biệt đối xử về giới.
II- THỰC TIỄN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG
1. Một số thành tựu
Thứ nhất, đến nayViệt Nam được đánh giá là đã cơ bản hoàn thiện khung
chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
Để cụ thể hoá các quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về bình
đẳng giới, đồng thời luật hóa các quy định liên quan trong các công ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên (tiêu biểu là CEDAW), trong 10 năm qua, hệ thống chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới của Nhà nước ta đã từng bước được hoàn thiện.
Bên cạnh Luật Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, Bộ luật Lao động đã giành
nhiều chương, điều khoản riêng điều chỉnh các quan hệ lao động mà người lao
động là nữ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động. Chẳng hạn:
chính sách của nhà nước về lao động : “ Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, quy
định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là
người khuyết tật, người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên” cấm các hành
vi “phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn
nhân,…”. Về việc làm và giải quyết việc làm, Bộ luật Lao động quy định chính
sách của nhà nước hỗ trợ phát triển việc làm, trong đó có “hỗ trợ người sử dụng lao
động sử dụng nhiều lao động nữ để giải quyết việc làm”. Bộ luật lao động bảo vệ
9



quyền lợi của lao động nữ trong việc trả lương ngang bằng với nam giới khi cùng
làm công việc như nhau; bình đẳng trong việc nâng bậc lương và trả công lao
động.
Thứ hai, trong một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc
phát triển thị trường lao động, mở rộng cơ hội việc làm cho phụ nữ và nam giới.
Khoảng cách giới trong lĩnh vực lao động đã được cải thiện, phụ nữ ngày càng
khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong gia đình và xã hội. Lao động việc
làm ở khu vực nông thôn, thành thị đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng ngày
càng tăng số lao động nữ, góp phần cân bằng số lao động nữ và nam. Trong năm
2012, cả nước tạo việc làm cho 1,5 triệu lao động, lao động nữ gần 48%. Tỷ lệ lao
động nữ được đào tạo tăng từ 35% (năm 2011) lên 43% (năm 2012). Trong đề án
Đào tạo nghề cho lao động Nông thôn trong 2 năm 2011-2012, cả nước đã đào tạo
được 798.240 người thì phụ nữ chiếm gần 49%. Trên toàn quốc, tỷ lệ nữ tham gia
lực lượng lao động đạt 78,2% so với nam giới là 86%. Phụ nữ tham gia tích cực
vào tẩt cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng ngày tạo ra của cải vật chất và
tinh thần cho gia đình và xã hội.
Trong sản xuất nông nghiệp, phụ nữ đã biết ứng dụng khoa học, công nghệ
vào sản xuất, đa dạng hóa cây trồng vật nuôi. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của
phụ nữ nông thôn liên tục tăng. Nhà nước đã có chính sách đảm bảo quyền của phụ
nữ trong sở hữu tài sản, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đặc biệt là việc
tiếp cận vốn vay tín dụng, giúp cho phụ nữ nghèo được vay vốn để phát triển tạo
công ăn việc làm cho chính họ và cả những người xung quanh, giúp họ tăng thu
nhập và có cuộc sống tốt hơn. Đây là một thành quả lớn mà hiện nay nhiều quốc
gia trên thế giới chưa có đươc. Chính sách này được thể hiện qua Nghị định
181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đất đai, các quy định về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả tên vợ và chồng.
10


Trong công nghiệp xây dựng: phụ nữ chiếm tỷ trọng cao trong các ngành

chế biến, dệt may, da giày, tiểu thủ công nghiệp,…Bên cạnh đó phụ nữ đã tích cực
nghiên cứu để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, khẳng định thương hiệu Việt
Nam trên thị trường, góp phần tăng tiêu dùng trong nước và tăng kim nghạch xuất
khẩu.
Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ: tỉ lệ nữ là chủ doanh nghiệp đã tăng
lên 25% và ngày càng khẳng định vai trò trong các lĩnh vực như thương mại tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm,du lịch, bưu chính viễn thông,…
2. Hạn chế
Phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đằng thể hiện qua mức lương thấp hơn,
ít nắm giữ các vị trí lãnh đạo so với nam giới, được thể hiện qua kết quả nghiên
cứu về vấn đề giới trong quảng cáo việc làm trên báo in do Viện nghiên cứu Kinh
tế – xã hội và Môi trường tổ chức mới đây.
Qua các số liệu cho thấy, thu nhập giữa lao động nam và nữ rất chênh lệch.
Trong tất cả các ngành nghề, thu nhập phụ nữa chỉ bằng 74,5% so với nam. Mức
lương của phụ nữ chỉ bằng 85% so với nam, đặc biệt trong các ngành nông-lâmngư nghiệp thì mức lương phụ chỉ bằng 67% của nam giới, nguyên nhân được cho
là chủ yếu là do nền tảng giáo dục của phụ nữ nói chung thấp hơn nam giới, khiến
khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động thấp hơn.
Hơn 50% phụ nữ Việt nam hiện đang làm công việc nội trợ nên không có thu
nhập trực tiếp, số liệu này được công bố trong Báo cáo phát triển con người khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP).
Tại Việt Nam, phụ nữ chiếm 46,6% lực lượng lao động, nhưng chủ yếu làm
việc trong khu vực kinh tế tư nhân, nên không được hưởng chế độ an sinh xã hội.
Vẫn còn tồn tại nhiều định kiến trong tuyển dụng của các doanh nghiệp đem
lại lợi thế cho nam giới. Các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao thì có đến 50% yêu
11


cầu ứng viên phải là nam giới, chỉ có 17% số quảng cáo yêu cầu là nữ giới.Sự bất
bình đẳng giới được thể hiện thông qua các yêu cầu về trình độ đào tạo, học

vấn,lứa tuổi hoặc hình thức.
Cùng với đó sự phân biệt đối xử trực tiếp lại không nhiều nhưng sự bất bình
đẳng giới lại được ẩn đi, thông qua các yêu cầu về đào tạo, trình độ học vấn, lứa
tuổi hay hình thức. Hiện nay qua các cuộc điều tra về lao động việc làm tỷ lệ và số
lượng lực lượng tham gia lao động của phụ nữ thấp hơn so với nam giới. Điều
đáng nói là khoảng cách này có xu hướng ngày càng tăng; chất lượng của lực
lượng lao động nữ dù có được cải thiện xong vẫn thấp hơn chất lượng của lực
lượng lao động nam giới.Tiền lương và thu nhập bình quân của một lao động nữ
luôn thấp hơn so với lao động nam.
Có thể nói những chính sách pháp luật về lao động nữ (LĐN) khá cụ thể, chi
tiết, nhưng qua thực tiễn việc thực thi pháp luật còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp
sử dụng đông LĐN nhưng ít lập kế hoạch đào tạo nghề dự phòng, không hỗ trợ
kinh phí cho phụ nữ nuôi con nhỏ, việc tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo cho con công
nhân lao động không được quan tâm… bởi tất cả khoản chi đều được hạch toán
vào chi phí sản xuất, gây tốn kém cho doanh nghiệp. Để tiết kiệm chi phí và thời
gian, nhiều doanh nghiệp không thực hiện chủ trương này mà chỉ tuyển dụng lao
động trẻ khỏe, có tay nghề để thay thế hoặc sa thải LĐN đã có tuổi, năng suất lao
động không cao. Thực tế, phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn so với nam giới khi tìm
việc làm và khi có việc, họ phải nhận mức lương thấp hơn và ít phúc lợi hơn so với
nam giới làm cùng một công việc. Có nhiều thông báo tuyển dụng lao động chỉ
tuyển nam, nếu tuyển LĐN thì yêu cầu phải cam kết thời gian lấy chồng, sinh con
cùng với các yêu cầu khác về chiều cao, ngoại hình... Những quy định thiếu bình
đẳng như thế sẽ liên quan đến hôn nhân và việc sinh con của LĐN. Có nhiều
trường hợp LĐN đã mang thai đến tháng thứ 7 nhưng vẫn phải làm việc trên 10
giờ/ngày. Một bộ phận lao động không được đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y
12


tế, thiếu trang bị bảo hộ lao động mặc dù họ phải làm việc trong môi trường ô
nhiễm và có nguy cơ cao mắc bệnh nghề nghiệp.

Vậy có thể thấy trên thực tế tình trạng bất bình đẳng về lao động nữa nam
giới và nữ giới vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết từ cơ hội có việc làm
cho tới môi trường làm việc và việc hưởng lương.
3. Nguyên nhân của sự bất bình đẳng trong lĩnh vực lao động
Sự bất bình đẳng trong lĩnh vực lao động xuất phát từ một số nguyên nhân
sau:
Tính thực thi những quy đình trong luật pháp liên quan đến phụ nữ và bình
đẳng giới chưa cao, vẫn còn nhiều hiện tượng vi phạm đối với Luật Lao động, một
số chính sách tỏ ra bất cập không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Các chính
sách cùng với các chuẩn mực xã hội không phù hợp có thể dẫn tới sự phân công
lao động không đồng đều. Hậu quả là việc tiếp cận nguồn lực không đồng đều giữa
nam và nữ.
Quan niệm và cách ứng xử của xã hội còn phân biệt đối xử về giới. Nhận
thức về giới, về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ của một bộ phận xã hội còn
hạn chế, thậm chí còn sai lệch. Không ít các tổ chức, cơ quan hiên nay vẫn không
đề bạt phụ nữ làm các công việc lãnh đạo, họ vẫn quan niệm rằng chỉ có nam giới
mới có khả năng làm việc lớn, như vậy trong công tác lãnh đạo hay đại biểu quốc
hội thì nam giới chiếm đa số. Nhiều nhà tuyển dụng không muốn tuyển dụng phụ
nữ vì ngại thực hiện chính sách xã hội và năng suất bị giảm sút, tình trạng thất
nghiệp của phu nữ đã khiến họ phải chấp nhận công việc nặng nhọc, lương thấp,
chế độ làm việc không được đảm bảo, và nhiêu vấn đề khác bất lợi cho phụ nữ khi
làm việc.
Do các định kiến về giới mà phụ nữ cần phải đảm trách các công việc trong
gia đình, do vậy không có nhiều thời gian để làm việc như vậy sẽ không đạt được
hiệu quả cao trong công việc, dẫn tới các nhà tuyển dụng cũng không muốn tuyển
13


dụng lao động nữ. Cũng xuất phát từ định kiến về giới trong xã hội mà nột số công
việc nam giới có đủ khả năng để hoàn thành tốt nhưng họ không được thực hiện,

không được làm do vậy dẫn đến sự chênh lệch về giới lao động trong ngành, nghề
đó.
Gánh nặng trong gia đình đã làm cho phụ nữ không thể vươn xa được trong
công việc, trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay thì công việc
đòi hỏi phải có sự đầu tư nhiều thời gian, mà ngườ phụ nữ lại không có nhiều thời
gian, dẫn tới ít được tham gia, lao động.Vì những lý do gia đình mà phụ nữ chỉ làm
công việc ở mức hoàn thành, họ cũng ít được tham gia các khóa huấn luyện, đào
tạo nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật.
4. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
Bình đẳng giới trong quá trình làm việc là một phần quan trọng trong chiến
lược hội nhập bình đẳng giới với quốc tế mà Đảng và Nhà nước đang thúc đẩy.
Để đảm bảo bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về mọi mặt, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện cam kết mạnh mẽ, thể hiện ở việc phê chuẩn hàng loạt công
ước quốc tế có liên quan và phản ánh ở hệ thống luật pháp, chính sách của quốc gia
từ Hiến pháp đến các Bộ luật, luật và văn bản dưới luật. Việc thúc đẩy thực hiện
bình đẳng giới cho LĐN là một trong những hoạt động thường xuyên của tổ chức
Công đoàn. Năm 2011, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Chương
trình hành động nhằm thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011 – 2020; trong đó, giai đoạn 2011-2015 với mục đích nhằm tăng
cường công tác vận động nữ CNVCLĐ, chăm lo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nữ CNVCLĐ, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh
có 7 mục tiêu: Tăng cường sự tham gia của nữ CNVCLĐ trong các vị trí quản lý,
lãnh đạo nhằm giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; giảm khoảng
cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và kỹ năng nghề nghiệp cho nữ
14


CNVCLĐ; bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ; bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực tuyên truyền giáo dục; bảo

đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, xoá bỏ bạo lực trên cơ sở giới; nâng
cao năng lực và hiệu quả hoạt động vì sự tiến bộ của nữ cán bộ, CNVCLĐ được
triển khai đến các cấp Công đoàn trên cả nước.
Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao bình đẳng giới trong lĩnh vực
lao động:
Một là, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người dân, cộng đồng và
xã hội thông qua công tác tuyên truyền về giới góp phần thay đổi nhận thức về
giới. Những hình ảnh phụ nữ gắn với vai trò xã hội, nam giới làm công việc gia
đình đang dần làm thay đổi nhận thức trong công chúng rằng, nam hoặc nữ đều có
thể làm bất cứ công việc gì phù hợp với khả năng của họ nhằm đáp ứng nhu cầu
của xã hội mà không có sự phân định rõ ràng cho một giới nào khác. Từ nhận thức
giới được thay đổi thông qua hình tượng giới, hành vi giới sẽ thay đổi dần theo
hướng tiến bộ bình đẳng nam, nữ. Một mặt chúng ta khẳng định khả năng trí tuệ
của hai giới như nhau nhưng mặt khác chúng ta cũng thừa nhận sự khác biệt về
giới tính để đưa phụ nữ vào đúng vị trí, làm tốt chức năng của mình. Phụ nữ ngày
nay trong xu thế phát triển sẽ ngày càng bộc lộ những phẩm chất mới. Tất cả
những phẩm chất ấy cần được phát huy, nếu không bị định kiến trói buộc thì sẽ trở
thành sự tiến bộ, phát triển và họ sẽ đóng góp được rất nhiều cho sự phát triển của
đất nước.
Hai là, để có thể phát huy được vai trò và khả năng của phụ nữ, các dịch vụ
xã hội dành cho gia đình cần được phát triển một cách rộng rãi và phù hợp với thu
nhập để phụ nữ dễ dàng được tiếp cận. Tạo điều kiện cho phụ nữ đầu tư sản xuất
kinh doanh, cải thiện thu nhập, có tiếng nói trong gia đình và từ đó ít lệ thuộc hơn
vào người chồng. Khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng trong một số lĩnh
vực như: quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, các phúc lợi xã hội, chế độ bảo hiểm...
15


Ba là, phụ nữ cần được giảm bớt gánh nặng gia đình. Muốn vậy, không chỉ
chia sẻ, nam giới cần phải tham gia vào công việc gia đình cùng với phụ nữ. Tuy

nhiên, trong khi bình đẳng giới đang là một quá trình thì việc nam giới chia sẻ
công việc gia đình với phụ nữ cũng có một ý nghĩa to lớn. Chính sự chia sẻ và cảm
thông của người chồng đã làm cho nhiều người phụ nữ đạt được thành công trong
sự nghiệp.
Bốn là, lãnh đạo những cơ quan, đơn vị có nhiều phụ nữ cần được nâng cao
nhận thức giớ để từ đó có được công bằng giới trong tuyển dụng, đào tạo, đề bạt.
Đặc biệt, trên phạm vi toàn xã hội, cần tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian
làm công việc gia đình, không nên coi phụ nữ cũng như nam giới trong việc phân
công, đòi hỏi, yêu cầu mà không tính đến việc người phụ nữ phải thực hiện thiên
chức làm mẹ.
Năm là, đối với bản thân phụ nữ, cũng cần có sự kết hợp hài hòa chức năng
xã hội và gia đình. Bởi đây là nét đặc trưng của phụ nữ nước ta. Là phụ nữ thường
phải có gia đình, phải sinh con và nuôi dạy con. Đối với phụ nữ, dung hòa giữa gia
đình và công việc xã hội là điều không mấy dễ dàng. Tuy nhiên đã có nhiều phụ nữ
biết cách giải quyết tốt hai chức năng này và đã trở thành người mẹ hiền, vợ đảm,
lại là nhà quản lý giỏi, nhà khoa học thành đạt. Kinh nghiệm của họ mà nhiều phụ
nữ cần học tập là, cố gắng thu xếp một cách khoa học để vừa có thời gian cho gia
đình, vừa hoàn thành tốt công việc xã hội.
Cuối cùng đó là cần thực hiện lồng ghép vấn đề giới trong việc xây dựng, tổ
chức thực hiện đề án, dự án, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát
triển lao động việc làm để tạo ra sự bình đẳng giới ở trong đó. Đó là mục tiêu mà
nước ta cần hướng tới và phát triển mục tiêu này hơn nữa.
KẾT LUẬN
Thông qua các lập luận ở trên, ta có thể thấy vấn đề bình đẳng giới trong
lĩnh vực lao động luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước.
16


Ngoài những thành công đã đạt được trong việc thực hiện vấn đề bình đẳng giới
trong lĩnh vưc lao động thì bên cạnh đó việc thực hiện vấn đề này vẫn còn vướng

phải một số khó khăn nhất định. Bởi vậy, Đảng, Nhà nước ta cần có những chính
sách để có thể giảm bớt và xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng trong lao động, tạo điều
kiện để phụ nữ và nam giới có điều kiện phát triển ngang nhau, tạo công bằng và
bình đẳng trong xã hội. Từ đó tạo tiền đề cho xã hội ngày càng công bằng dân chủ
văn minh và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB Hồng
2.
3.
4.
5.

Đức
Luật bình đẳng giới
Bộ luật lao động 2012
Công ước CEDAW
Nguyễn Thị Anh Hoa, “Pháp luật lao độngViệt Nam về vấn đề bình đẳng
giới và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Nghệ An”, Luận văn Thạc sỹ Luật

học, Hà Nội, 2012.
6.
7. />8. />
17



×