BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Nếu như kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn
có thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời
sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết
cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xã hội. Ly hôn giải phóng cho các cặp vợ
chồng và những thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc
trong cuộc sống. Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nước cũng hướng tới bảo vệ
lợi ích của gia đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt
quan hệ hôn nhân trước pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn. Việc áp dụng các
căn cứ ly hôn hiện nay ở nước ta đang gặp phải rất nhiều vướng mắc vì vậy
nhóm chúng em đã quyết định nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài “Căn cứ ly hôn
và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung về ly hôn và căn cứ ly hôn.
1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn.
1.1. Khái niệm về ly hôn.
Ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng (Khoản 8 Điều
8 Luật HN&GĐ năm 2000). Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân. Nếu kết
hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn là hiện
tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu
được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ.
1.2. Khái niệm về căn cứ ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hôn nhân (trong đó có ly
hôn) là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát
triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua
Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý
1
chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định những điều kiện
nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong những điều kiện căn cứ
nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn
cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước. Như vậy, căn cứ ly hôn
là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những
tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có quan điểm khác
nhau về quy định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định
trong pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so
với căn cứ ly hôn do Nhà nước phong kiến, tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà
nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly
hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng
chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn
nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ
sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình
thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly
hôn đã tan vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà nước XHCN công nhận quyền tự
do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện
nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng,
nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của
mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan
vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong
gia đình.
2. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn
Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945
đến nay đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp
lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn.
Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Trong xã hội có giai cấp ly hôn cũng thể hiện tính giai cấp. Việc quy định
về ly hôn thể hiện ý chí quyết định của giai cấp thống trị xã hội. Quan điểm của
2
chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập
quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ
vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đùng bản chất của một sự kiện – đó là hôn
nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không
phải ý chí của nhà lập pháp, cũng phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản
chất của sự kiện mới quyết định được cuộc sống hôn nhân này đã chết hay
chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện bản chất của mối quan
hệ, theo đó những trường hợp nào về mặt pháp lý hôn nhân được coi là sự tan vỡ
nghĩa là về thực chất , hôn nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép phá bỏ
hôn nhân chỉ là việc ghi biên bảm công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ
khi nào hôn nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được
xử cho ly hôn.
Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của
vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 1959 (Điều 26), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều
40) và hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2000 (Điều 89) đã quy định căn cứ ly hôn
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật HN&GĐ Việt Nam không quy
định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa
vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Trong mọi trường hợp ly hôn, dù
ly hôn do một bên vợ, chồng yêu cầu hay hai vợ chồng thuận tình ly hôn, Tòa án
nhân dân đều phải tiến hành điều tra và hòa giải nhằm bảo vệ lợi ích của gia
đình, vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc, chỉ khi nào xét thấy quan hệ vợ chồng đã
thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được” thì Tòa án mới giải quyết cho ly hôn.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta
được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa
học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta ban
hành Luật HN&GĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, không thể hiểu đơn thuần
là “là tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được” là tình yêu giữa vợ chồng không còn nữa mà điều đó nói
lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được
3
nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp
tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia
đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình
và xã hội.
II. Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Khi vợ chồng hay cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, sau khi thụ lí vụ kiện,
Tòa án phải tiến hành điều tra và hòa giải, nếu hòa giải không thành và xét thấy
giữa vợ chồng đã có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm yêu thương giữa vợ chồng
không còn nữa, mục đích của hôn nhân không đạt được, Tòa án mới giải quyết
cho ly hôn. Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“1.Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa
án quyết định cho ly hôn.
2.Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
xin ly hôn thì Tòa án quyết định cho ly hôn.”
Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 bao gồm hai nội
dung như sau:
1. Tình trạng trầm trọng, đời sống chung ko thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được
Trước hết cần hiểu quan hệ vợ chồng ở vào “tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài” là giữa vợ chồng đã có nhiều lục đục, mâu thuẫn
sâu sắc đến mức vợ chồng không thể chịu đựng được nhau nữa, các thành viên
trong gia đình không thể nào sống chung bình thường, quan hệ vợ chồng không
thể tồn tại được, sự tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình không thể tránh
khỏi. Vì thế, không thể hiểu đơn giản “tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài” chỉ là biểu hiện tình yêu giữa vợ chồng không còn gì nữa.
Khi nói đến tình yêu trong quan hệ vợ chồng còn hay hết là mới chỉ nói đến
quan hệ tình cảm có tính chất riêng tư của vợ chồng mà chưa thấy hết mọi mặt
khác trong đời sống vợ chồng nói riêng và đời sống gia đình nói chung. Và như
vậy, khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần phải thẩm tra, xem xét lợi ích của vợ
4
chồng, của con cái, của gia đình và xã hội trong quan hệ hôn nhân đó ra sao? Có
nhìn nhận một cách toàn diện như vậy thì giải quyết ly hôn chính xác mới mang
lại kết quả tích cực, mới thúc đẩy các quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với
đạo đức XHCN, phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội. Nếu như quan hệ vợ
chồng mới chỉ dừng lại ở tình trạng trầm trọng mang tính bồng bột chưa thực sự
chính chắn để hiểu rõ vấn đề thì còn cơ hội để xây dựng lại cuộc sống gia đình.
Tình trạng trầm trọng thường kéo theo hậu quả là đời sống chung không thể kéo
dài và tồn tại. Khi đó ly hôn là giải pháp tốt nhất cho cả hai.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 2312/2000 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000 đã nêu rõ:
“ 8. Căn cứ cho ly hôn (Điều 89)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn
nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục
đích của hôn nhân không đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như
người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy
tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể
nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan,
tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo
dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm
trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được
5
nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc
vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi
hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của
vợ chồng không thể kéo dài được.”
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn
nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân dưới chế độ XHCN là nhằm xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1 Luật
HN&GĐ năm 2000). Tờ trình về dự luật HN&GĐ năm 1959 của Chính phủ
trước Quốc hội đã chỉ rõ: “Mục đích của hôn nhân trong chế độ ta là xây dựng
những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người thương
yêu, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành
mạnh, tương lai con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển thịnh vượng và
làm cho mọi người trong gia đình đều phấn khởi lao động sản xuất, cùng nhau
cải thiện đời sống và kiến thiết Tổ quốc”. Điều đó thể hiện mối liên hệ hài hòa,
gắn bó giữa mặt riêng tư và mặt xã hội trong quan hệ hôn nhân. Để có cơ sở
nhận định đời sống chung chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải
căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như trong
hướng dẫn tại Mục 8, Điểm a.1, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Trên thực tế cho
thấy nếu đã được nhắc nhở hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ
ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục có quan hệ sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp
tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì có căn cứ để nhận định
rằng đời sống chung của vợ chồng ko thể kéo dài được (Mục 8, Điểm a.2, Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000).
Hạnh phúc của vợ chồng không phải chỉ có tình yêu giữa vợ chồng với
nhau mà còn bao gồm nhiều mặt trong đời sống của vợ chồng nói riêng và của
gia đình nói chung. Trong hạnh phúc của vợ chồng còn có niềm vui, niềm tự hào
về trách nhiệm đối với gia đình và xã hội mà họ đã làm tròn. Lợi ích của xã hội
trong hôn nhân thể hiện ở sự tồn tại vững bền của bản thân mối quan hệ hôn
6
nhân của mỗi cặp vợ chồng. Không chỉ vợ chồng, các con mà cả Nhà nước và xã
hội đều quan tâm tới việc xây dựng và củng cố quan hệ hôn nhân, làm sao cho
hôn nhân được bền vững, gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Sự bền vững của hôn
nhân là sự bền vững của từng gia đình và làm cho xã hội bền vững. Trong một
gia đình đầm ấm, hạnh phúc thì các thành viên của gia đình đều phấn khởi trong
lao động, sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Con cái được chăm sóc,
giáo dục trở thành công dân có ích cho xã hội.
“Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được” có mối liên hệ với nhau. Quan hệ vợ chồng đã ở vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài sẽ dẫn đến hậu quả là
mục đích của hôn nhân không đạt được. Không thể có một gia đình đầm ấm,
hạnh phúc khi giữa vợ chồng đã có mâu thuẫn sâu sắc, họ không còn muốn sống
chung, thậm chí không muốn nhìn mặt nhau nữa. Khi đó, mục đích hôn nhân
không đạt được thì quan hệ hôn nhân thường có tác động ngược lại và được giải
quyết bằng ly hôn.
2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly
hôn thì tòa cho ly hôn.
Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một
người cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã
chết” (theo từ điển tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm
2005: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố
người đó mất tích….” Khoản 2 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy định
về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai
người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án
tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”.
7
Theo đó, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn việc áp dụng
quy định tại Khoản 2 Điều 89 nói trên, cụ thể là:
“Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
b.1. Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho
ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác
các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
b.2. Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố
người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng
hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường
hợp này Toà án giải quyết cho ly hôn.
b.3. Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người tuyên bố mất tích thì cần
chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng
quy định tại Điều 89 Bộ luật Dân sự.”
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn có bằng chứng
chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày có tin
tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông
báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có
tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Việc tuyên bố cá nhân
mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân
cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả
pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng
thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên
bố các cá nhân mất tích
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã
ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần
8
phải giải phóng chồng thoát khỏi” hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu
được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích.
III. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng căn cứ ly hôn trong pháp
luật hiện hành.
1. Vướng mắc trong quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn.
1.1. Vướng mắc trong các quy định của pháp luật trong việc đánh giá thế nào
là “tình trạng trầm trọng trong hôn nhân, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được”
Trong các vụ ly hôn hiện nay, Tòa án thường vận dụng quy định tại
Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 để phán xét. Theo đó, “Tòa án xem
xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly
hôn”. Có thể thấy căn cứ ly hôn này có tính khái quát cao, phản ánh được bản
chất của quan hệ hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, quan hệ này mang nhiều yếu tố
tình cảm nên trong thực tế việc xem xét, đánh giá căn cứ trên là rất khó và gặp
phải nhiều vướng mắc. Nhiều thẩm phán cho rằng khái niệm tình trạng trầm
trọng trong hôn nhân rất trừu tượng. Theo những người này, hướng dẫn của Tòa
án nhân dân tối cao chỉ mang tính hướng dẫn chung chung, khó để vận dụng giải
quyết thấu đáo án ly hôn. Từ đây, xuất hiện quan điểm là nếu bác đơn ly hôn thì
chỉ cần căn cứ vào hướng dẫn của Nghị quyết mà lập luận, còn cho ly hôn thì cứ
nói đơn giản rằng mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là trầm trọng. Bởi lẽ, lý do muôn
thuở mà các cặp vợ chồng muốn ly hôn đều đưa ra là không hợp nhau, hay bất
đồng quan điểm sống,…Trong khi lại không có căn cứ rõ ràng để xác định thế
nào là “vợ chồng không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau”. Vì
vậy, khi giải quyết các vụ việc này, thẩm phán thường chỉ dựa vào năng lực kinh
nghiệm của bản thân để xét xử.
Việc xét thế nào là “tình trạng hôn nhân trầm trọng” dựa vào hướng
dẫn trong Nghị quyết số 02/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao. Cụ thể, vợ chồng không còn yêu thương nhau, không thực hiện nghĩa vụ
với nhau, được gia đình, cơ quan tổ chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần. Ngoài ra,
9
vợ chồng có hành vi ngược đãi đánh đập nhau, xác phạm uy tín, nhân phẩm, có
biểu hiện ngoại tình,….Những hành vi nói trên phải dẫn đến mục đích hôn nhân
không đạt được, tức là không có tình nghĩa vợ chồng, không bình đẳng về nghĩa
vụ và quyền giữa vợ và chồng, không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của
vợ chồng, không tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng,
không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt,…
Theo đó, thì hướng dẫn này cũng chưa thực sự sát với thực tế, gây khó
khăn cho việc áp dụng. Như đã khẳng định, quan hệ vợ chồng là quan hệ tình
cảm nên không thể đem ra cân đo, đong đếm để biết “vợ chồng không yêu
thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau” được. Cũng giống như vậy, quy
định có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau hoặc có hành vi khác xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau cũng rất mơ hồ. Bởi những hành vi dùng
hành động của mình tác động vào thân thể người khác thì được coi là hành hạ
đánh đập nhưng việc xác định những hành vi khác dưới dạng lời nói hay ngôn
ngữ thì rất khó nên việc đánh giá tình trạng trầm trọng trong hôn nhân thường
chỉ dựa vào cảm nhận chủ quan của người xét xử.
Một yếu tố nữa ảnh hưởng nhiều đến việc ly hôn là nạn bạo lực gia đình
cũng chưa được quy định thấu đáo. Do sự chênh lệch về sự phát triển kinh tế xã hội cũng như trình độ của dân trí ở các vùng miền khác nhau mà việc nhận
thức về hành vi này cũng khác nhau. Luật chỉ xác định được những hành vi hành
hạ thông qua hành động cụ thể, nhưng ngày nay sự hành hạ về tinh thần còn
nặng nề hơn rất nhiều, tuy nhiên pháp luật chưa có quy định điều chỉnh cụ thể.
Như vậy, qua vài điểm trên có thể thấy những hướng dẫn của Nghị quyết
có tính cụ thể về những hành vi biểu hiện, phản ánh được một phần quan hệ vợ
chồng nhưng chưa phản ánh được hết thực chất quan hệ hôn nhân. Hơn nữa,
việc xuất hiện nhiều quan điểm, tư tưởng mới đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng
mắc của các quy định hiện hành về căn cứ cho ly hôn.
1.2. Vướng mắc về vấn đề ly thân trong quy định của pháp luật hiện hành.
Thực tế, ly thân trước đó đã có và phổ biến, thường xảy ra trước khi vợ,
chồng có đơn ly hôn và đây là một trong những tình tiết để Tòa án xác định có
10
hay không có mâu thuẫn trầm trọng làm căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, theo quan
điểm riêng của nhóm chúng em thì nó lại không đặt ra yêu cầu bức thiết phải
được quy định rõ trong luật về thủ tục, trình tự và hậu quả pháp lý của việc này,
vì đơn giản đây chỉ là giải pháp tạm thời giải quyết tình trạng căng thẳng giữa
hai vợ chồng trước khi họ quyết định ly hôn hay tiếp tục chung sống với nhau
mà thôi. Trên thực tế khi đã phát sinh mâu thuẫn nhưng nhiều cặp vợ chồng vẫn
ở cùng nhà, ngủ riêng, không ăn chung và sinh hoạt chung, việc ai người ấy làm,
nhưng thậm chí vẫn chăm sóc con chung và việc này diễn ra trong một thời gian
dài; không có bạo lực gia đình, cãi cọ gì lớn giữa hai vợ chồng, cũng không có
việc một người đi ở chỗ khác. Nhưng qua xem xét thêm các tình tiết khác, Tòa
án xác định mâu thuẫn đã trầm trọng và xử cho ly hôn. Nhưng cũng có vụ án
người chồng đánh đập vợ nên người vợ buộc phải đi chỗ khác ở một thời gian
rồi vợ chồng lại về ở với nhau. Sự việc lại tái diễn nhiều lần nhưng không phải
trong mọi trường hợp người vợ làm đơn xin ly hôn mà lại là người chồng. Có vụ
án hình sự chồng đánh vợ đến mức bị xử lý hình sự nhưng người vợ cũng không
xin ly hôn mà còn xin giảm án cho chồng. Tùy mỗi cặp vợ chồng mà họ có sự
lựa chọn cách giải quyết khác nhau, theo chúng tôi thì luật không nên can thiệp
vào mà chỉ nên ghi nhận hiện tượng và có sự điều chỉnh khi cần thiết, vì lợi ích
chung của toàn xã hội hoặc vì quyền lợi của người thứ ba.
Ly thân được hiểu là tình trạng vợ chồng không cùng chung sống, không
còn quan hệ tình cảm cũng như không thiết lập khối tài sản chung…với nhau.
Khi mâu thuẫn giữa hai bên vợ chồng trở nên trầm trọng thì Luật quy định hai
phương thức giải quyết mâu thuẫn là hòa giải để đoàn tụ, hoặc chấm dứt hôn
nhân bằng ly hôn, còn vấn đề ly thân lại chưa được quy định. Tuy vậy, trong
thực tế nước ta hiện nay ly thân diễn ra rất phổ biến, bởi đây là một giai đoạn
nhạy cảm trong việc giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân, tạo căn cứ pháp lý
cho các quan hệ tài sản, nhân thân cũng như con cái…Do đó, yêu cầu đặt ra đối
với việc bổ sung chế định ly thân vào luật hiện nay là rất cần thiết. Một nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ly hôn là do nhiều người sợ bị ảnh hưởng đến
danh dự của bản thân, uy tín của gia đình, ngại mang tiếng bị vợ bỏ, chồng bỏ,
11
sợ ảnh hưởng đến tâm lý con cái hay khó khăn trong việc chia tài sản….nên
không chọn giải pháp ly hôn mà chọn ly thân. Có trường hợp xác định là mâu
thuẫn không thể hàn gắn được nhưng vì muốn có tâm lý trả thù, không để cho
người kia có được hạnh phúc mới – kết hôn với người khác nên không đồng ý ly
hôn để cản trở và tiến hành ly thân. Lúc này, quan hệ vợ chồng chỉ còn tồn tại
trên danh nghĩa pháp lý, chứ tình cảm cũng như tài sản gần như đã rạch ròi,
không còn dính líu gì tới nhau.
Việc ly thân cũng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của
hai bên vợ chồng trong nhiều vấn đề. Khi không còn “ăn cùng mâm, ở cùng
nhà” thì thường trách nhiệm nuôi con cái sẽ bị phó mặc cho một người, người
còn lại muốn đòi người kia phải cấp dưỡng thì lại không có căn cứ, vì luật không
có quy định trách nhiệm cấp dưỡng trong thời kỳ ly thân. Hơn nữa, có nhiều
người còn lợi dụng tình trạng ly thân để tẩu tán tài sản, hợp pháp hóa tài sản
chung thành tài sản riêng, hoặc cố tình vay mượn để buộc người kia phải chung
trách nhiệm trả nợ. Cùng với đó là việc đùn đẩy trách nhiệm giữa việc nuôi
dưỡng, giáo dục con cái hoặc phụng dưỡng bố mẹ,…dẫn đến nhiều hệ lụy đáng
buồn.
Ly thân là quá trình cần thiết để các cặp vợ chồng đang mâu thuẫn với
nhau nhìn lại mâu thuẫn giữa hai bên, từ đó cân nhắc xem xét tiếp tục chung
sống hay tiến tới ly hôn. Do đó, có ý kiến cho rằng cần bổ sung vấn đề ly thân
như là một quyền của các cặp vợ chồng, tuy nhiên chỉ sử dụng khi thật sự cần
thiết chứ không khuyến khích họ tìm đến ly thân như một giải pháp khi gặp mâu
thuẫn. Như vậy, việc luật hóa chế định ly thân là một căn cứ rất quan trọng trong
việc giải quyết rạch ròi các vụ án ly hôn, tuy nhiên cần lưu ý đến vấn đề phân
hóa trách nhiệm quá rõ trong quá trình ly thân sẽ càng khoét sâu thêm mâu
thuẫn, khiến quan hệ vợ chồng càng không thể hàn gắn.
2. Khó khăn trong việc áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn khi xét xử.
Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Khi Tòa án xem xét yêu cầu
ly hôn, nếu thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án cho quyết định ly hôn…”. Như
12
vậy, theo quan điểm lập pháp, việc giải quyết ly hôn phải dựa vào bản chất của
quan hệ hôn nhân chứ không dựa vào lỗi của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, dưới
góc nhìn của người thực thi luật thì khái niệm “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” khi áp dụng
vào thực tiễn xét xử các vụ ly hôn lại rất chung chung, trừu tượng và khó xác
định. Như đã nói ở trên, việc quy định chưa rõ ràng về các căn cứ ly hôn cũng
như thiếu các quy định về vấn đề này nên khi xét xử các vụ ly hôn trên thực tế
đã gặp phải rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất, các căn cứ của Luật đưa ra có nhiều quy định còn chưa rõ
nghĩa, mơ hồ khiến những người áp dụng gặp nhiều lúng túng trong việc xác
định tình trạng trầm trọng trong hôn nhân, đời sống chung không thể kéo dài và
mục đích của hôn nhân không đạt được. Với tính chất hướng dẫn chung chung,
chưa sát với tình hình thực tế nên mỗi người ở mỗi nơi lại có những cách hiểu
khác nhau, điều này dẫn tới việc áp dụng và thực hiện pháp luật về ly hôn một
cách không thống nhất. Không chỉ có vậy, việc xét xử ly hôn thường mang đậm
tính chủ quan của người xét xử chứ không có được tính chất phân minh, rạch ròi
của pháp luật.
Thứ hai, vấn đề ly thân chưa được luật hóa một cách chính thức nhưng lại
diễn ra rất phổ biến trong thực tế và chưa được coi là một căn cứ để xác định
việc ly hôn. Chính vì thế nên ly thân còn là một trở ngại trong việc áp dụng các
căn cứ để giải quyết một cách thấu tình đạt lý cho các vụ án ly hôn.
IV. Một số kiến nghị nhằm vào căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến ly hôn thường bắt nguồn
từ lỗi của một bên. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành chỉ dựa vào thực trạng
của hôn nhân để giải uyết ly hôn. Chính vì yếu tố “lỗi” không phải là vấn đề quy
định xử lý cho ly hôn, hay có chăng thì việc xác định yếu tố lỗi chỉ có ý nghĩa
trong công tác hòa giải. Hầu hết, người có lỗi gây ra tình trạng hôn nhân tan vỡ
lại chính là người đưa ra yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để thỏa mãn lợi ích
riêng cho mình nhưng lại không phải chịu bất cứ chế tài nào của luật Hôn nhân
và gia đình. Nếu không có một loại chế tài nào đó tực sự nghiêm khắc mang tính
13
răn đe, định hướng hành vi xử sự của vợ chồng thì hiện tượng ly hôn sẽ còn diễn
ra nhiều hơn và bên có lỗi hay không có lỗi đều phải gánh chịu hậu quả pháp lý
như nhau.
Thứ hai, vấn đề ly hôn là một vấn đề bức xúc của xã hội, các vụ ly hôn
chiếm được tỉ lệ rất lớn, đồng thời việc áp dụng căn cứ ly hôn là một việc khá
phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, Tòa án cần phải điều tra đầy đủ, làm rõ
nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, đánh giá đúng mức tình trạng hôn nhân. Tòa
án chỉ giải quyết cho vợ chồng ly hôn khi xét thấy thực sự quan hệ hôn nhân đã
đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân ko thể đạt được”. Để có đầy đủ căn cứ chứng minh được “tình trạng trầm
trọng” của hôn nhân đòi hỏi sự thận trọng, trách nhiệm, trình độ của người thẩm
phán. Muốn vậy, thì phải nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các thẩm phán cũng
như đạo đức nghề nghiệp của những nhà thực thi pháp luật.
Thứ ba, cần phải tăng cường trình tự công tác hòa giải tại cơ sở, việc hòa
giải cho các cặp vợ chồng từ khâu này sẽ giảm bớt số vụ việc ly hôn phải đưa ra
Tòa án xét xử. Bên cạnh đó, việc hòa giải sẽ giúp hạ chế sự tan vỡ của hạnh
phúc gia đình và đồng thời sẽ giúp họ nhìn nhận và suy nghĩ lại mối quan hệ của
mình. Các cán bộ hòa giải ở địa phương cũng cần nắm rõ được nguyên nhân,
mức độ mâu thuẫn giữa vợ chồng, hoàn cảnh cụ thể của gia đình để giải thích,
khuyên nhủ, động viên, giúp đỡ đương sự hàn gắn những rạn nứt, mâu thuẫn
trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Thứ tư, nhà làm luật nên xem xét về việc quy định chế định ly thân, coi ly
thân như là một bước tiếp theo của công tác hòa giải không thành, nhưng cần
thêm thời gian để nhìn nhận lại hôn nhân (có thể gọi nó là lý hôn thử nghiệm).
Nghĩa là, khi cảm thấy không chung sống với nhau được nữa, thay vì li hôn, vợ
chồng nên chọn giải pháp ly thân, thử sống xa nhau một thời gian để suy nghĩ
lại. Thời gian ly thân kéo dài trong một khoảng thời gian hợp lí để tránh những
rắc rối, phức tạp có thể nảy sinh. Cuối cùng, sau khi thời gian ly thân kết thúc
nếu hai bên vẫn không thể hòa giải được mâu thuẫn thì có thể yêu cầu xin ly
hôn.
14
Chế định ly hôn trong HN&GĐ hiện nay được xây dựng trên cơ sở kế
thừa và phát triển các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình qua các thời kì
lịch sử cũng như tiếp thu tinh hoa lập pháp của các nước trên thế giới. Việc thực
hiện và áp dụng căn cứ ly hôn có ý nghĩa quan trọng trên phương diện khoa học
pháp lý và thực tiễn xã hội sâu sắc, hoàn thiện và thực hiện đúng các quy định
về ly hôn nói chung, căn cứ ly hôn nói riêng tạo ra một trật tự xã hội và môi
trường pháp lý trong quan hệ hôn nhân và gia đình, tạo tiền đề cho quá trình vận
động, phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, từ bỏ những quan niệm lạc hậu của chế
độ phong kiến, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
C. KẾT LUẬN
Nhìn chung, căn cứ ly hôn và việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
đang là một chủ đề nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận xã hội. Không
thể phủ nhận rằng các căn cứ ly hôn đã góp phần giải quyết tốt nhiều án ly hôn,
giải phóng cho nhiều cuộc hôn nhân thoát khỏi những bế tắc. Tuy nhiên, cùng
với đó cũng phải nhìn nhận về những thiếu sót cũng như hạn chế, vướng mắc
của pháp luật về các quy định này và ghi nhận sự cố gắng nỗ lực của các cá nhân
cũng như tổ chức, đoàn thể để hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn. Để ly hôn
không chỉ đơn thuần là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại, nó
củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất
có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, GIÁO TRÌNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH VIỆT NAM, Nxb Công an nhân dân, năm 2012.
2. LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, Nxb Lao động, năm 2012.
3. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 159/SL NGÀY 17 THÁNG 11
NĂM 1950.
4. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH (không số) ngày 29 tháng 12 năm 1959.
5. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH (không số) ngày 29 tháng 12 năm 1986.
6. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM
2005.
7. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, NGHỊ QUYẾT Của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng
12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000.
8. Nguyễn Thị Thanh Thảo, Căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam:
khoá luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012.
9. Hoàng Yến, “Tình trạng hôn nhân trầm trọng”: Khó định lượng, Báo pháp
luật TP. Hồ Chí Minh online: phapluattp.vn.
16