Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.05 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................- 1 NỘI DUNG.......................................................................................................- 1 1. Những quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật..........................................................................- 1 2. Thực tiễn về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................- 4 2.1. Thành tựu đạt được....................................................................................- 4 2.2. Một số hạn chế.........................................................................................- 10 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật........................................................................- 12 KẾT LUẬN.....................................................................................................- 14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................- 15 -

0


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, với sự xâm nhập của những công
nghệ hiện đại và tiên tiến trên thế giới, nhiều sản phẩm công nghệ thông tin và
truyền thông đã được ra đời, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Một trong những đối tượng mà công nghệ thông tin và truyền thông hướng đến
đó là người khuyết tật. Với những công nghệ sản xuất và dây chuyền hiện đại,
hàng loạt sản phẩm đã ra đời để không chỉ đáp ứng của những người bình
thường, mà còn hướng đến việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khuyết tật.
Mặc dù vậy, để tiếp cận được với công nghệ thông tin và truyền thông người
khuyết tật vẫn gặp khá nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Để giải quyết
điều đó, pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể để nhằm giúp người
khuyết tật có điều kiện tiếp cận tốt hơn công nghệ thông tin và truyền thông
trong thực tiễn, góp phần cải thiện cuộc sống, giúp người khuyết tật hòa nhập
cộng đồng.
NỘI DUNG
1. Những quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật
Truy cập thông tin và công nghệ thông tin, truyền thông tạo ra nhiều cơ
hội cho mỗi người nói chung, cho người khuyết tật nói riêng. Công nghệ này
giúp con người mở mang tầm nhìn, cập nhật thông tin, phát huy được tiềm năng
của mình. Đối với người khuyết tật, công nghệ thông tin có thể giúp họ phát huy


được vai trò đóng góp cho sự phát triển xã hội. Hiệp sĩ công nghệ thông tin năm
2005 Nguyễn Công Hùng, người mắc chứng bại liệt bẩm sinh làm Giám đốc cơ
sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo Công Hùng là ví dụ. Người khuyết tật
ở một số dạng nhất định như khiếm thính, khiếm thị thường gặp khó khăn hơn
trong việc học tập và trao đổi thông tin với xã hội bên ngoài, bởi người khiếm
thị thông thường chỉ có thể đọc thông tin qua hệ thống chữ nổi, trong khi hầu hết
các tài liệu đều không ở dạng này. Tuy nhiên, công nghệ thông tin và truyền
thông có thể giúp họ tháo gỡ, khắc phục được những khó khăn này, thậm chí họ
có thể tìm được việc làm phù hợp để có thu nhập. Thông qua một số phần mềm
1


chuyên dụng và với sự hỗ trợ của máy tính, người khiếm thính có thể gửi, nhận
thông tin qua email, hình ảnh. Việc phát triển các phần mềm như Jaw, NDC, Via
Voice đã giúp người khiếm thính có thể nghe được nội dung các tài liệu mình
cần đọc thông qua máy tính, trong khi các tài liệu được viết bởi những người
bình thường. Với sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên dụng, người khiếm thị có
thể tham gia các công việc văn phòng, dịch thuật tài liệu; người khiếm thính có
thể làm tốt việc nhập dữ liệu hoặc điều hành các Internet shop. Trên thế giới,
một số hãng như IBM, Microsoft là các hãng dẫn đầu trong việc phát triển các
loại công nghệ dành cho người khuyết tật. Ở các nước phát triển phần lớn đều có
những trung tâm thiết kế công cụ hỗ trợ người tàn tật trong lĩnh vực này. Đa số
người khuyết tật có thể tự làm việc, hòa nhập với cộng đồng qua công cụ đó từ
internet.
Ngoài ra, công nghệ thông tin còn có thể là công cụ làm tăng khả năng
phục hồi, khắc phục khiếm khuyết ở người khuyết tật. Với người chậm phát
triển về não, các trò chơi trên máy tính giúp cho sự phát triển trí óc do tác dụng
kích thích sự tìm tòi, vận động suy nghĩ...
Bên cạnh công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông một mặt
phản ánh thông tin cần thiết về người khuyết tật trên mọi lĩnh vực đến cộng

đồng, mặt khác cũng cung cấp thông tin từ đời sống cộng đồng đến với người
khuyết tật, nếu họ có khả năng tiếp nhận hoặc được hỗ trợ phương tiện tiếp cận
thuận tiện. Chất lượng đời sống tinh thần của người khuyết tật qua đó được nâng
lên.
Xuất phát từ vai trò đó của công nghệ thông tin và truyền thông, pháp luật
đã xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong
lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành
cho người khuyết tật. Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với
lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch
vụ, phương tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành
cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người khuyết tật nghe, nói và
2


người khuyết tật trí tuệ (Điều 43 khoản 1, khoản 4 Luật người khuyết tật). Luật
công nghệ thông tin năm 2006 cũng nhấn mạnh việc nhà nước có chính sách ưu
đãi để tổ chức, cá nhân có hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
đối với người khuyết tật. Ví dụ: có thể được ngân hàng cho vay vốn với lãi suất
ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để thực hiện dự án đầu tư, sản xuất kinh
doanh... (Điều 5 Luật công nghệ thông tin).
Ngày 14/9/2009, Bộ thông tin và truyền thông ban hành thông tư số
28/2009/TT-BTTTT quy định về việc áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ
người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ban
hành kèm theo Thông tư này là “Danh mục tiêu chuẩn hỗ trợ người khuyết tật
tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông”. Các tiêu chuẩn hỗ trợ
người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông được
quy định áp dụng theo hai hình thức: bắt buộc áp dụng và khuyến nghị áp dụng.
Chẳng hạn, các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, phân phối, bán lẻ thiết
bị viễn thông bắt buộc phải sắp xếp kí tự số, kí tự chữ và kí hiệu trên máy điện

thoại và các thiết bị khác để giúp người khuyết tật tiếp cận và sử dụng mạng
điện thoại. Khi thiết kế và xây dựng trang thông tin điện tử (website), bắt buộc
phải hướng dẫn khả năng tiếp cận và sử dụng nội dung thông tin của trang thông
tin điện tử phiên bản 1.0...
Bên cạnh đó, ngày 11/03/2013 vừa qua, Bộ thông tin và truyền thông đã
ban hành Công văn số 723/BTTTT-KHCN đề xuất nhiệm vụ hỗ trợ người
khuyết tật trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông năm 2013 và năm
2014. Đây là nội dung tiếp theo của Đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006
– 2010. Các nhiệm vụ quy định trong công văn gồm những nội dung sau:
- Nghiên cứu phát triển các công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận
công nghệ thông tin và truyền thông;
- Nghiên cứu phát triển và tổ chức sản xuất các công cụ tiện ích hỗ trợ
người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông;
- Duy trì, phát triển, nâng cấp các cổng/trang thông tin điện tử hỗ trợ
người khuyết tật;
3


- Xây dựng nội dung đào tạo, hướng nghiệp theo các hình thức đào tạo
mới cho người khuyết tật dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông;
Trong Quyết định số 1019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 ban hành ngày 05/08/2012
cũng quy định mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2012 - 2015 sẽ có 30% người
khuyết tật được trợ giúp tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông, và đến giai đoạn 2016 – 2020 tỷ lệ đó sẽ là 50%. Bên cạnh đó, để thực
hiện được đề án , nội dung Quyết định cũng quy định các hoạt động nhằm giúp
người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông theo như quy định
tại Công văn số 723/BTTTT-KHCN.
Trong lĩnh vực truyền thông, cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm
phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật để cộng đồng bắm

bắt được thông tin về bộ phận cư dân đặc biệt này. Ngược lại, để người khuyết
tật có thể tiếp cận được thông tin, Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực
hiện chương trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho
người khuyết tật (Điều 43 Khoản 2 Luật người khuyết tật). Các đài truyền hình
trung ương được cấp phép phủ sóng toàn quốc có trách nhiệm áp dụng công
nghệ hỗ trợ người khiếm thính tiếp cận chương trình thời sự chính trị tổng hợp
phát hàng ngày tối thiểu trên một kênh. Đối với các đài truyền hình thuộc các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đài truyền hình có diện phủ sóng khu vực,
Nhà nước khuyến khích áp dụng công nghệ hỗ trợ người khiếm thính (Điều 4
Thông tư 28/2009/TT-BTTTT).
Tóm lại, công nghệ thông tin nói chung dù được phát triển khá mạnh mẽ
nhưng vẫn là lĩnh vực tương đối mới mẻ ở nước ta. Tuy vậy, ở mức độ nhất
định, pháp luật đã có những quy định cụ thể (chủ yếu mang tính “khuyến khích”,
“ưu tiên”) nhằm tạo điều kiện để người khuyết tật có thể tiếp cận với lĩnh vực
hiện đại này, đảm bảo quyền được hòa nhập cộng đồng của họ.
2. Thực tiễn về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thành tựu đạt được
4


Có thể khẳng định, từ trước đến nay ở Việt Nam chưa có một cuộc điều
tra quy mô, tổng thể và đầy đủ nào về tình hình và thực trạng người khuyết tật.
Nguyên nhân chính của tình trạng đó có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan, song có vấn đề là chưa có quan niệm thống nhất như thế nào
là người tàn tật, như thế nào là người khuyết tật, vì vậy không thể có con số
thống kê chính xác được. Liên quan tới các cuộc điều tra về thực trạng người
khuyết tật ở Việt Nam có nhiều tổ chức quốc tế và trong nước tham gia, tuy
nhiên hầu hết các cuộc điều tra chỉ trong phạm vi nhất định và như vậy kết quả
tổng thể chưa có thể kiểm chứng. Tuy nhiên, việc vào cuộc của các tổ chức

chứng minh sự quan tâm về đời sống của người khuyết tật và bước đầu đưa ra
cách nhìn tổng quan về thực trạng người khuyết tật ở nước ta nói chung cũng
như thực trạng áp dụng các quy định về pháp luật công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật nói riêng.
Theo khảo sát của Tổng cục Thống kê năm 2006, người khuyết tật chiếm
15,3% dân số, tương đương 13 triệu người, trong đó có 1,2-1,5 triệu thanh niên
khuyết tật.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật, cùng với sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước, tại một số địa phương trong cả nước đã có những kế hoạch
cụ thể và bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan.
Theo số liệu thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh
Quảng Nam, năm 2011 toàn tỉnh có hơn 35.800 người khuyết tật, trong đó số
không có khả năng tự phục vụ là gần 19.000 người, đối tượng tâm thần phân liệt
chiếm hơn 6000 người... Đối với những người khuyết tật nặng không có khả
năng tự phục vụ, địa phương này đã hỗ trợ 360.000 đồng/người/tháng, các đối
tượng còn lại được trợ cấp 270.000 đồng/tháng. Mới đây, trong năm 2011 Trung
tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông tình Quảng Nam đã phối hợp với Sở
Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh tổ chức các khóa đào tạo công nghệ
thông tin miễn phí và hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại trong suốt thời gian học tập cho
người khuyết tật theo chương trình phối hợp năm 2011. Theo đó, đối tượng đăng
5


ký là người khuyết tật có tuổi đời từ 16 đến 45, tốt nghiệp THCS trở lên, có nhu
cầu học công nghệ thông tin. Dự kiến trong tháng 9/2011 sẽ mở 2 lớp đào tạo,
mỗi khóa đào tạo trong vòng 4 tháng. Những nỗ lực của Quảng Nam đã tạo điều
kiện cho người khuyết tật trong tỉnh có việc làm ổn định, giúp họ vượt qua mặc
cảm để hòa nhập cộng đồng.
Lãnh đạo UBND tỉnh Lạng Sơn cũng đã xây dựng bản kế hoạch số 20 về

thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020 trên địa bàn của
tỉnh. Tại một số địa phương khác như Lào Cai, Đà Nẵng... cũng đã cho ban hành
những bản kế hoạch với nội dung tương tự.
Bên cạnh đó, cùng với sự giúp đỡ và tạo điều kiện của chính quyền các
cấp, các, các tổ chức quốc tế đã đầu tư tiền và công nghệ cho một số hoạt động
khuyến khích, hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông. Nhà nước cũng đã có những đầu tư phù hợp cho công tác giúp đỡ người
khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.
Tại TP. Đà Nẵng, sáng ngày 3/12/2012, Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ (USAID), phối hợp với tổ chức Catholic Relief Services (CRS) và trường
Đại họ Đông Á Đà Nẵng đã tổ chức khai giảng khóa đào tạo Công nghệ thông
tin cho người khuyết tật Đà Nẵng và một số tỉnh, thành, địa phương miền Trung.
Đây là một dự án lớn đầu tiên được triển khai tại miền Trung – Tây Nguyên, với
kinh phí là 9 tỷ đồng. Theo đó, dự án sẽ kéo dài từ 2012-2015. Khóa đào tạo đầu
tiên sẽ kéo dài trong 6 tháng với hơn 250 sinh viên khuyết tật. Hai tổ chức này
sẽ tài trợ mọi chi phí học tập, ăn ở, đi lại của toàn bộ sinh viên.
Ngoài công nghệ thông tin với các ngành như thiết kế đồ họa, lập trình
web, học viên còn được dạy tiếng Anh và các kỹ năng mềm như: kỹ năng làm
việc nhóm, kỹ năng hòa nhập xã hội... và ngoài ra các học viên còn được sự hỗ
trợ của các doanh nghiệp Công nghệ thông tin trên địa bàn. Dự kiến sau khi đào
tạo sẽ có khoảng 80% học viên sẽ có việc làm, thu nhập ổn định. Đây là một
trong những dự án tiêu biểu nhằm đảm bảo quyền lợi của người khuyết tật được
tham gia đầy đủ và bình đẳng vào các lĩnh vực của cuộc sống thông qua việc
đảm bảo tiếp cận bình đẳng trong giáo dục và việc làm.
6


Buổi khai giảng dự án đào tạo công nghệ thông tin cho người khuyết tật
Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở đào tạo công nghệ
thông tin và truyền thông cho người khuyết tật ngày càng được trang bị hiện đại,

người khuyết tật dần được tiếp cận với các công nghệ mới trên thế giới. Cơ sở
hạ tầng dành riêng cho người khuyết tật cũng ngày càng được đảm bảo tốt nhất
có thể. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho học viên là người khuyết tật học tập
tốt, các đơn vị đào tạo công nghệ thông tin cũng đã cắt cử cán bộ thường xuyên
liên hệ và tổ chức các buổi giao lưu với học viên. Ví dụ như ngày 30/08/2011 đã
diễn ra hội thảo “việc làm về công nghệ thông tin cho người khuyết tật” tại
Trường Đại học Văn Lang, TP. Hồ Chí Minh. Hội thảo ngoài mục đích giúp cho
sự phát triển của dự án, còn là dịp để các nhà tổ chức, điều hành chương trình,
các nhà hảo tâm nhìn lại những thành quả bước đầu về xóa bỏ rào cản, định kiến
xã hội đối với người khuyết tật. Đã có 45 cơ quan, doanh nghiệp thuộc các lĩnh
vực hành chính, công nghệ thông tin từ miền Trung đến Nam Bộ đăng ký tiếp
nhận thực tập sinh và tuyển dụng học viên cùng con số 87,9% học viên khuyết
tật của tất cả các ngành tìm được việc sau khi tốt nghiệp. Như vậy, không chỉ
giúp người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông, mà thông
qua quá trình đào tạo này đã góp phần giúp cho người khuyết tật có việc làm, tạo
nguồn thu nhập, sớm hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, đến tháng 6/2010, dự
kiến sẽ có ít nhất 400 học viên tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Mnh được đào tạo từ
7


dự án Đào tạo Công nghệ thông tin cho người khuyết tật do cơ quan Phát triển
Quốc tế Hoa Kỳ tài trợ.
Bên cạnh đó, các nhà hảo tâm, các tổ chức trong nước cũng đã có sự giúp
đỡ và tạo điều kiện nhất định cho người khuyết tật tiếp cận với công nghệ thông
tin. Ngày 26/03 vừa qua, Vietinbank Bến Tre phối hợp với Agribank Bến Tre đã
tiến hành trao tặng 25 bộ máy vi tính để phục vụ công tác giảng dạy của Trường
dạy nghề người khuyết tật tỉnh Bến Tre. Đây là một hoạt động ý nghĩa thiết thực,
đã góp phần đảm bảo tốt cho việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông
của người khuyết tật.
Đối với lĩnh vực truyền thông, để giúp người khuyết tật có thể tiếp cận

thông tin đại chúng một cách tốt nhất có thể, Nhà nước đã có sự đầu tư nhất định
các trang thiết bị, phương tiện hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận truyền thông
nhanh chóng, đặc biệt là đối với người khiếm thính. Nhằm tiếp tục điều phối
hiệu quả các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Cục Bảo trợ xã hõi
(Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) phối hợp với Trung tâm Tin, Tổ chức hỗ
trợ người khuyết tật Việt Nam (VNAH) và Chương trình Điều phối các hoạt
động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD) xây dựng Trang thông tin điện
tử Hỗ trợ người khuyết tật. Website ra đời nhằm trợ giúp người khuyết tật tiếp
cận và sử dụng đầy đủ thông tin về chính sách, pháp luật, mô hình dự án,
chương trình và những trao đổi hỏi-đáp. Đây cũng là địa chỉ để cộng đồng người
khuyết tật xích lại gần nhau hơn. Đặc biệt là tại thời điểm khi Luật Người
khuyết tật có hiệu lực, trang thông tin điện tử này là công cụ hữu hiệu để tuyên
truyền, góp phần đưa luật vào cuộc sống của những người khuyết tật.
Đặc biệt là từ ngày 1/4/2011, chương trình thời sự của Đài truyền hình
Việt Nam đã đưa vào phát sóng chương trình thời sự dành cho người khiếm
thính. Chương trình được phát sóng vào lúc 22 giờ tối các ngày trong tuần với
thời lượng 45 phút. Đây là kên thông tin nhằm giúp người khiếm thính tiếp cận
tốt hơn với những thông tin văn hóa – xã hội. Ngoài hình ảnh và lời của phát
thanh viên, trên màn hình tivi sẽ có dòng phụ đề để người khiếm thính có thể

8


theo dõi được. Những phụ đề cũng được biên tập ngắn gọn hơn, giúp giảm bớt
khó khăn trong việc tiếp nhận của người khiếm thính.

Biên tập viên đang diễn đạt bằng ngôn ngữ cử chỉ
Việc ra đời chương trình này là một tin vui cho 400.000 người khiếm
thính trên toàn quốc. Bởi trước đó họ xem bản tin thời sự mà không hiểu gì hoặc
hiểu rất ít.

Bên cạnh việc giúp người khuyết tật tiếp cận truyền thông thì Nhà nước
cũng chú trọng việc giúp người bình thường có cái nhìn đúng về người khuyết
tật, giúp cho việc xóa bỏ rào cản giữa người bình thường với người khuyết tật.
Tại buổi tọa đàm về “xóa bỏ rào cản đối với người khuyết tật bằng truyền thông
đúng” đã nêu lên những quan điểm đúng đắn về người khuyết tật, đồng thời
trình bày những phương pháp tiếp cận đúng đắn về vấn đề này. Buổi tọa đàm đã
thu hút sự tham gia của các diễn giả đến từ Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, IDEA,
Kênh truyền hình VOV, Hội người khuyết tật thành phố Hà Nội, Trung tâm sống
độc lập và đông đảo phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí. Hầu hết các diễn
giả đều đánh giá cao vai trò của truyền thông trong việc thay đổi định kiến của
cộng đồng đối với người khuyết tật. Bà Hồng Oanh, Trưởng ban IDEA nhận
định: “Báo chí đã đóng góp tiếng nói lớn để chuyển tải đến cộng đồng thông tin
về người khuyết tật, giúp cộng đồng thay đổi cách nhìn nhận tích cực hơn:
người khuyết tật không phải là những người đáng thương mà cần phải được tôn
9


trọng bởi những thành công và có đóng góp nhất định cho sự phát triển của đất
nước”
Như vậy, công nghệ thông tin và truyền thông đã thực sự được Nhà nước
ta chú trọng, tạo điều kiện và đảm bảo để người khuyết tật tiếp cận nhanh chóng
và từ đó giúp họ xóa bỏ những mặc cảm, tự ti, sớm hòa nhập cộng đồng, vươn
lên bằng sự nỗ lực, sống có ích, làm việc và có thu nhập nuôi sống bản thân.
2.2. Một số hạn chế
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó vẫn
còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định trong việc quy định về tiếp cận công
nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật.
Một là mặc dù đã có sự chú trọng đầu tư và có những đóng góp nhất định
cho công tác đảm bảo tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông cho người
khuyết tật, song không phải địa phương nào cũng đảm bảo tốt các điều kiện vật

chất cũng cho người khuyết tật một cách đầy đủ.
Hai là nguồn kinh phí hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông
tin và truyền thông có hạn, chủ yếu lấy từ sự đóng góp của các các nhân, tổ chức
trong và ngoài nước, trong khi nhu cầu tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông khá lớn. Hơn nữa, giá cả trang thiết bị máy móc phục vụ cho công nghệ
thông tin và truyền thông cũng không phải là rẻ. Bên cạnh đó, để có không gian
cho dạy và học công nghệ thông tin và truyền thông cũng cần phải bỏ ra chi phí
thuê mặt bằng. Vì vậy, số lượng và chất lượng cơ sở vật chất cũng chưa được
đảm bảo, những máy móc thiết bị được tặng cho đa số là đồ đã qua sử dụng.
Ba là hệ thống máy móc, công nghệ nhằm giúp cho người khuyết tật tiếp
cận công nghệ thông tin và truyền thông còn kém phát triển so với các nước tiên
tiến trên thế giới. So với một số nước như Nhật Bản, Mỹ... thì chúng ta còn kém
xã về trình độ kỹ thuật và công nghệ. Những nước này đã có rất nhiều thiết bị hỗ
trợ phù hợp và rất tiên tiến dành riêng cho những người khuyết tật.
Bốn là rào cản giữa người bình thường và người khuyết tật vẫn chưa thực
sự được xóa bỏ ở một số nơi. Khi người khuyết tật đi xin việc làm liên quan đến
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, thậm chí khi có mong muốn tiếp
10


cận công nghệ thông tin và truyền thông vẫn còn có một khoảng cách tồn tại với
đối tượng đặc biệt này. Yếu tố tâm lý vẫn chưa được giải quyết khi mà người ta
vẫn còn nhìn người khuyết tật bằng ánh mắt thương hại thay vì nhìn nhận một
cách khách quan năng lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông
của họ.
Năm là một số ngành nghề trong lĩnh vực truyền thông mà người khuyết
tật vẫn chưa thực sự có thể tham gia. Lý do đơn giản bởi vì người khuyết tật
không thể hoặc rất khó đáp ứng được yêu cầu cơ bản của ngành nghề đó. Ví dụ
như người khuyết tật nói sẽ gặp khó khăn trong lĩnh vực truyền thanh.
Sáu là cơ sở hạ tầng dành riêng cho người khuyết tật tại một số trung tâm

đào tạo công nghệ thông tin chưa thực sự được chú trọng và đảm bảo. Ví dụ như
chưa có đường dành riêng cho xe lăn của người khuyết tật vận động ở các trung
tâm. Đây là vấn đề cần thiết phải giải quyết triệt để, bởi ở một số trung tâm đào
tạo tin học dành cho người khuyết tật vẫn chưa đáp ứng được những cơ sở hạ
tầng dành riêng cho người khuyết tật, bộ phận người khuyết tật vẫn phải sử dụng
như điều kiện dành cho người bình thường.
Bảy là tại một số vùng sâu, vùng xa, do điều kiện khó khăn về mặt địa lý
cũng như một số điều kiện tự nhiên khác, công nghệ thông tin và truyền thông
vẫn chưa thực sự đến với người khuyết tật. Thậm chí có nhiều vùng trong cả
nước, ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo hệ thống trang thiết bị, máy
móc và công nghệ chưa có. Thực tế cho thấy có nhiều vùng chưa kể đến việc
trang thiết bị máy móc về công nghệ thông tin, chỉ mới nói đến những nhu cầu
thiết yếu cơ bản mà mỗi gia đình đều phải có là điện đường, trường, trạm vẫn
chưa có nói gì đến xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông
dành riêng cho người khuyết tật.
Tám là trong thực tiễn áp dụng, đội ngũ cán bộ, nhân viên trợ giúp người
khuyết tật trong tiếp cận thông tin và truyền thông vẫn còn thiếu và chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Do đó, một số nhu cầu về máy móc thiết bị vẫn chưa
được giải quyết cho người khuyết tật.

11


Cuối cùng, pháp luật về quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật khi áp dụng vào thực tế vẫn còn nhiều khiếm
khuyết nhất định. Ở một số địa phương triển khai kế hoạch vẫn chưa sát với luật,
thậm chí có nơi còn chưa hiểu đúng bản chất của việc hỗ trợ công nghệ thông tin
và truyền thông đối với người khuyết tật. Do đó, việc triển khai trên thực tế vẫn
còn gặp khá nhiều khó khăn.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về công nghệ thông tin

và truyền thông đối với người khuyết tật
Hiện nay, quy định của pháp luật về quyền tiếp cận công nghệ thông tin
và truyền thông đã vẫn còn những thiếu sót nhất định. Thực tiễn cho thấy khi
triển khai áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tế vẫn chưa được áp
dụng đúng đắn và thậm chí chưa giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người
khuyết tật. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công nghệ thông tin
của người khuyết tật, em xin đưa ra một số giải pháp hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng và củng cố hơn nữa pháp luật về công nghệ
thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật. Hiện tại, các quy định về
công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật vẫn còn khá ít và
cần có thêm những điều khoản thiết thực hơn nữa nhằm giúp người khuyết tật
tiếp cận gần hơn với công nghệ thông tin và truyền thông trên thực tế.
Thứ hai, cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho công tác phát triển pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông đối với
người khuyết tật, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc cũng như các
điều kiện cơ sở hạ tầng giúp cho người khuyết tật có thể tiếp cận tốt nhất với
công nghệ thông tin và truyền thông. Hệ thống trang thiết bị hiện tại vẫn chưa
thể đáp ứng hết được các yêu cầu về công nghệ thông tin và truyền thông đối với
người khuyết tật.
Thứ ba, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật. Đội ngũ
cán bộ, nhân viên hiện tại vẫn chưa đáp ứng hết được các yêu cầu của người
khuyết tật trong việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông. Do đó, cần
12


có nhiều hơn nữa những cán bộ, nhân viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông để có thể đáp ứng được những yêu cầu chung của
người khuyết tật về công nghệ thông tin và truyền thông.
Thứ tư, không ngừng học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới về việc

xây dựng các điều luật nhằm đảm bảo tốt hơn cho người khuyết tật tiếp cận công
nghệ thông tin và truyền thông mọi lúc mọi nơi. Tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn
các nước trong việc phát triển hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại, đảm bảo
người khuyết tật được tiếp cận phần nào công nghệ hiện đại của thế giới. Ví dụ
như một số công nghệ hỗ trợ người mù trong việc đọc và viết chữ, hệ thống máy
tính đọc cho người khiếm thị nghe. Hoặc như một số nước có thể tổ chức những
đoàn xe lưu động mang công nghệ thông tin đến từng vùng sâu, vùng xa, những
vùng khó khăn nhằm phục vụ cho cả đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo và
người khuyết tật.
Thứ năm, Cần không ngừng nâng cao nhận thức của người dân về người
khuyết tật, giúp họ hiểu đúng về người khuyết tật, xóa bỏ mọi rào cảng giữa họ
với những người bình thường trong đời sống xã hội, góp phần đưa người khuyết
tật hòa nhập cộng đồng, xóa bỏ mặc cảm, tự ti.
Thứ sáu, Đài truyền hình cần có một kênh chuyên biệt dành riêng cho
người khuyết tật và điều này thiết nghĩ nên quy định trong các điều khoản trong
lĩnh vực thông tin truyền thông. Bởi hiện tại, đài truyền hình trung ương mới chỉ
có một hoặc một số chương trình dành cho người khuyết tật, thực sự là rất ít ỏi
đối với người khuyết tật.
Thứ bảy, nhà nước tạo mọi điều kiện về mặt bằng, hỗ trợ mọi mặt nhằm
giúp người khuyết tật có được không gian và điều kiện để tiếp cận tốt hơn công
nghệ thông tin và truyền thông. Để làm được điều đó, Nhà nước cần ban hành
các văn bản để từ đó các địa phương đề ra những kế hoạch cụ thể góp phần giúp
người khuyết tật thực hiện được các quyền lợi của mình trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông.
Thứ tám, Nhà nước cần chú trọng việc xây dựng hệ thống hỗ trợ mọi mặt
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông tại những vùng còn nhiều
13


khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, để đảm bảo sự bình đẳng giữa

tất cả những người khuyết tật trên cả nước, để người người đều được tiếp cận
với công nghệ thông tin và truyền thông. Ngoài việc hỗ trợ những chính sách ưu
đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cần tạo sự bình đẳng trong việc thụ hưởng các
chính sách của đối tượng bảo trợ xã hội ở trung tâm bảo trợ xã hội trong hay
ngoài công lập, trong đó có chính sách về phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật.
Thứ chín, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ
chức xã hội trong việc chăm sóc và đảm bảo quyền tiếp cận công nghệ thông tin
và truyền thông của người khuyết tật. Các chính sách xã hội hóa cần áp dụng và
mở rộng mô hình trung tâm bảo trợ xã hội không chỉ do nhà nước thiết lập.
Trong đó, chú trọng xây dựng hệ thống trang thiết bị, máy móc công nghệ thông
tin và truyền thông dành cho người khuyết tật.
Cuối cùng, để làm được những điều đó cần có những nguồn kinh phí hỗ
trợ nhất định. Do đó, nhà nước ta cần tạo mọi điều kiện hết sức có thể để thu hút
sự đóng góp của các nhà hảo tâm, các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, cần
có một chính sách cụ thể cùng với cơ chế mở để thu hút được nguồn tài trợ của
các nhà tài trợ.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã
góp phần giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện về tình hình tiếp cận công
nghệ thông tin và truyền thông của người khuyết tật Việt Nam trong thực tế,
hiểu được những khó khăn mà người khuyết tật gặp phải trong quá trình thực
hiện quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông của mình. Qua đó đề ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa những điều kiện về vật chất và tinh
thần, giúp cho người khuyết tật nước ta ai ai cũng được đảm bảo quyền lợi trong
việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.

14



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2011.
2. Luật người khuyết tật năm 2010.
3. Luật công nghệ thông tin năm 2006.
4. Thông tư số 28/2009/TT-BTTTT về quy định việc áp dụng tiêu chuẩn,
công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông.
5. Công văn số 723/BTTTT-KHCN đề xuất nhiệm vụ hỗ trợ người khuyết
tật trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông năm 2013 và năm 2014.
6. Website: /> /> /> /> /> />và một số website khác.

15



×