MỤC LỤC
BÀI LÀM
Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng những thông tin, tư liệu tồn tại
trong thực tế khách quan, liên quan đến vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ
tục pháp luật quy định. Theo Điều 64 khoản 2 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003,
chứng cứ được xác định bằng các nguồn là vật chứng, lời khai, kết luận giám định,
biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu đồ vật khác. Các cơ quan tiến
hành tố tụng chỉ có thể thu thập các loại nguồn chứng cứ nêu trên theo trình tự, thủ
tục pháp luật tố tụng hình sự quy định để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do đó,
việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự là một yêu
cầu không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
I. LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ.
Chứng cứ là những gì có thật được xác định bằng các nguồn nhất định và
được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định mà Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác cần thiết
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự được sử dụng làm phương tiện duy nhất
để chứng minh tội phạm, làm rõ các tình tiết của vụ án. Cho nên, chứng cứ được sử
dụng trong vụ án hình sự phải bảo đảm đầy đủ ba thuộc tính quan trọng sau, đó là
tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
2. Khái niệm nguồn chứng cứ
Hiện nay, chưa có một khái niệm nào mang tính chính thống về thuật ngữ
“nguồn chứng cứ”. Ngay cả trong BLTTHS 2003 cũng chưa đề cập đến vấn đề này
một cách trực tiếp. Chính vì vậy, trên thực tế có sự nhầm lẫn giữa khái niệm nguồn
chứng cứ và chứng cứ. Có quan điểm cho rằng nguồn chứng cứ và chứng cứ là
một. Tuy nhiên, theo khoa học về tố tụng hình sự cũng như lý luận về chứng cứ thì
cách hiểu như trên là sai lầm, nguồn chứng cứ và chứng cứ là hai khái niệm không
đồng nhất, cụ thể hơn: “Nguồn chứng cứ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại
của chứng cứ, được quy định bởi các quy phạm pháp luật, mà từ đó có thể rút ra
được chứng cứ”(1). Từ quan điểm này ta có thể hiểu nguồn chứng cứ theo hai khía
cạnh: Thứ nhất, nguồn chứng cứ là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta
nhận thức được một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; Thứ hai, nguồn chứng cứ là
nơi chứa đựng chứng cứ mà từ đó có thể rút ra chứng cứ.
Nguồn chứng cứ chỉ “là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng
các thông tin, tư liệu”(2) mà khi đảm bảo đủ ba thuộc tính của chứng cứ thì các
thông tin tư liệu này được coi là chứng cứ và được dùng để chứng minh trong vụ án
hình sự. Ví dụ: Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng thì chứng cứ có thể là dấu
vết để lại trên tang vật đó chứ không phải là bản thân tang vật đó. Ví dụ: trong số
vật chứng thu được của một vụ án giết người, có một con dao dính máu (đã được
giám định là máu của nạn nhân) thì con dao đó chỉ là nguồn chứng cứ, còn vết máu
trên dao mới là chứng cứ. Hoặc đối với loại nguồn là biên bản về hoạt động điều
tra, xét xử thì bản thân các biên bản này không là chứng cứ mà chỉ có các tình tiết
ghi nhận trong biên bản mới có khả năng trở thành chứng cứ.
Tóm lại, ta có thể hiểu rằng: nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng những thông
tin có thể xác định là chứng cứ của vụ án hình sự nếu thỏa mãn các thuộc tính của
chứng cứ được thu thập theo trình tự thủ tục pháp luật quy định.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về các loại nguồn chứng cứ
Trong BLTTHS 2003, tại Khoản 2, Điều 64 có quy định các loại nguồn
chứng cứ bao gồm: Vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động
điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Việc xác định rõ các loại nguồn chứng
cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng vì chỉ khi xác định được chính xác đâu là nguồn
của chứng cứ thì mới có thể xác định được chứng cứ. Bên cạnh đó, quy định này
1
2
Nguyễn Văn Thắng, Nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự, trang 5, Tạp chí Công an nhân dân, số 05/1995.
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trang 185, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
2
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
còn ràng buộc các cơ quan tiến hành tố tụng khi chứng minh vụ án, không được rút
chứng cứ ra từ bất cứ nguồn nào khác.
1.Vật chứng:
Theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003: “Vật chứng là vật được dùng
làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng
của tội phạm cũng như tiền bạc và vật chất khác có giá trị chứng minh tội phạm và
người phạm tội”.
Vật chứng chứa đựng và phản ánh trong mình những sự kiện thực tế liên
quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng
quan trọng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể của vụ án hình sự và bao gồm
những điển hình sau:
+ Vật chứng là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Đây là
những vật mà người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đã sử dụng chúng để
hỗ trợ quá trình thực hiện tội phạm để góp phần hoàn thành nhanh chóng và thuận
lợi hơn. Ví dụ: dùng dao, súng, rìu để giết người, dây thừng, dây dù để thắt cổ,
thuốc độc để đầu độc…
+ Vật chứng là những vật mang dấu vết tội phạm. ở đây, vật chứng thể hiện
bằng những dấu vết mà người phạm tội đã để lại trong quá trình thực hiện hành vi
phạm tội (hiện trường) và dấu vết này được gọi là dấu vết hình sự. Dấu vết hình sự
là những phản ánh của các sự vật, hiện tượng để lại trong quá trình thực hiện tội
phạm. Ví dụ: trộm cắp tài sản để lại dấu vết phá khóa, cạy tủ hay quần áo, hung khí
của người phạm tội có dính máu của nạn nhân…
+ Vật chứng là đối tượng của tội phạm mà người phạm tội tác động đến. Ví
dụ: tài sản (xe máy, dây chuyền, đồng hồ…) trong các tội chiếm đoạt tài sản, hàng
hóa trong tội buôn lậu…
+ Vật chứng là tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và
người phạm tội. Ví dụ: đồ trang sức, tiền bạc trên chiếu bạc, đồ vật mà người phạm
tội đã mua sắm được bằng tài sản do chiếm đoạt của người khác, quần áo, giầy dép,
mũ của người phạm tội tại hiện trường nơi xảy ra vụ án…
* Đặc điểm của vật chứng:
- Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, nó ghi nhận
chính xác những sự kiện thực tế của vụ án nên giá trị chứng minh của nó trong vụ án
hình sự rất cao và trong nhiều trường hợp, không có gì có thể thay thế được chúng.
Với đặc tính là vật duy nhất, vật chứng tồn tại một cách khách quan, nó lưu giữ các
hình ảnh xảy ra trong hiện thực bởi vậy, nó không thể thay thế được bằng bất cứ vật
3
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
thể nào khác. Nói một cách khác, vật chứng là chứng cứ mang tính vật chất, nó tồn
tại độc lập, khách quan và không bị chi phối bởi ý thức chủ quan của con người.
- Vật chứng được thu thập trong giai đoạn điều tra .
- Vật chứng là những vật ở dạng vật chất, được nhận thấy qua các giác quan
của con người nên vật chứng có tính khách quan rất cao nhưng cũng dễ bị tác động
của các điều kiện tự nhiên làm thay đổi, dễ bị làm giả, làm sai lệch…Do những đặc
điểm trên và giá trị chứng minh của vật chứng đối với việc giải quyết vụ án hình
sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 đã quy định một cách cụ thể, chặt chẽ về thủ tục
thu thập và bảo quản vật chứng tại Điều 75.
Vật chứng mang dấu vết tội phạm có vai trò giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng xác định được hướng điều tra để giải quyết nhanh chóng vụ án. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, sự tồn tại của vật chứng chỉ mang tính chất tương đối, chỉ
ở một mức độ, một thời hạn nhất định. Do đó, trong quá trình thu thập, bảo quản
vật chứng, các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo nguyên vẹn, không để mất
mát, hư hỏng hay lẫn lộn vật chứng. Vì vậy vật chứng phải được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền thu thập theo trình tự mà pháp luật tố tụng hình sự quy định, đồng
thời người có trách nhiệm bảo quản phải thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy
định, nếu vi phạm tuỳ mức độ sẽ bị xử lý.
* Thủ tục thu thập vật chứng: Thông thường, vật chứng được thu thập khi
phát hiện ra tội phạm bằng những hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (ví
dụ như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám đồ vật, khám nhà…),
nhưng nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc thu thập
chứng cứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại hoặc bất kỳ cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào cung cấp. Theo khoản 1 Điều 75 BLTTHS 2003 “Vật
chứng phải được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên
bản và đưa vào hồ sơ vụ án” . Thu thập vật chứng buộc phải lập thành văn bản,
biên bản thu thập vật chứng phải ghi nhận và mô tả tỷ mỷ đặc điểm của vật đó
như: mà sắc, khối lượng, trọng lượng hình dáng, những dấu vết tội phạm để lại ở
vật chứng, nơi tìm thấy vật chứng hoặc người cung cấp. Những vật không được mô
tả trong biên bản thu thập vật chứng thì dù có giá trị chứng minh tội phạm và người
phạm tội thì cũng không được coi là chứng cứ.
* Cách thức bảo quản vật chứng được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 75
BLTTHS 2003, vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn
lộn và hư hỏng. Tuỳ loại vật chứng mà Bộ luật quy định rõ ràng về chủ thể có trách
nhiệm bảo quản vật chứng:
4
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
+ Với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng, trách nhiệm bảo quản
thuộc về cơ quan công an và cơ quan thi hành án;
+ Với tài sản, vật đặc biệt như tiền, vàng, chất nổ, chất độc…, trách nhiệm
bảo quản thuộc về cơ quan chuyên trách;
+ Trường hợp không đưa về cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan chuyên trách
không bảo quản thì do chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật tài sản hoặc người thân
thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản.
Khoản 3 Điều 75 BLTTHS 2003 quy định tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm mà có các hình thức xử lý cụ thể đối với các chủ thể có trách nhiệm bảo quản
vật chứng trong trường hợp vật chứng bị mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong,
tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc huỷ hoại.
BLTTHS 2003 quy định một cách rõ ràng chủ thể có trách nhiệm bảo quản
vật chứng đồng thời cũng quy định hậu quả pháp lý đối với chủ thể đó trong trường
hợp vật chứng bị hư hỏng, mất mát… nhằm tránh tình trạng vật chứng không được
bảo quản hoặc bảo quản không đúng cách dẫn đến vật chứng bị giảm sút cả giá trị
chứng minh và giá trị vật chất, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hình sự.
* Việc xử lý vật chứng được quy định tại Điều 76 BLTTHS 2003, khoản 2
Điều 76: “Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình
chỉ ở giai đoạn điều tra; do cơ quan Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình
chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét
xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”.
Vật chứng được xử lý bằng các biện pháp sau:
- Tịch thu tiêu hủy đối với vật chứng không có giá trị, không sử dụng được
hoặc cấm lưu hành;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với vật chứng là công cụ, phương tiện
phạm tội, vật chứng là tài sản không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp, vật chứng là tào sản do phạm tội mà có;
- Trả lại chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp vật chứng là tài sản của
người khác bị chiếm đoạt hoặc bị người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương
tiện phạm tội.
Trường hợp vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể
bán theo quy định của pháp luật và tiền bán được xử lý như các quy định trên.
2. Lời khai:
Xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật
được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của
pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Ngoài việc thu
5
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
thập chứng cứ là vật chứng, việc thu thập lời khai của những người tham gia tố
tụng cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Bộ luật TTHS 2003 quy định tương đối đầy đủ về vấn đề lời khai của người
tham gia tố tụng với tư cách là một trong các loại nguồn chứng cứ. Theo đó lời khai
bao gồm lời khai của người làm chứng (Điều 67), người bị hại (Điều 68), nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự (Điều 69), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án (Điều 70), người bị bắt, bị tạm giữ (Điều 71), bị can, bị cáo (Điều 72). Việc tiến
hành lấy lời khai đối với từng người tham gia tố tụng cụ thể được quy định từ Điều
135 đến Điều 137 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Đặc điểm chung của lời khai chung của lời khai thể hiện là chứng cứ phi
vật chất. Các thông tin về vụ án được lưu giữ trong ý thức chủ quan của người tham
gia tố tụng nên tính khách quan của lời khai dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác
nhau như: các hoàn cảnh khách quan, năng lực tâm, sinh lý chủ quan của con
người, lợi ích, mối quan hệ của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Chính
vì những đặc điểm này, nên khi thu thập đánh giá lời khai của người tham gia tố
tụng cần chú ý những điểm sau:
+ Đối với lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn
dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án cần phải cân nhắc đặc
điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thức, tiếp nhận thông tin, mối quan hệ của họ với
người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo; xuất xứ thông tin mà họ biết
được (trừ lời khai của người bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo thì không
được dùng làm chứng cứ những tình tiết mà người tham gia tố tụng trình bày nếu
họ không nói rõ vì sao biết được những tình tiết đó)
+ Đối với lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là những
nhân vật trung tâm của vụ án hình sự, có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm trọng
của việc thực hiện tội phạm. Ngoài việc cung cấp lời khai như chứng cứ, việc khai
báo của họ còn để thực hiện quyền tự bào chữa theo quy định của pháp luật. Pháp
luật không truy cứu trách nhiệm đối với hành vi từ chối khai báo hoặc cố tình khai
báo không trung thực của những người này. Với những đặc điểm như vậy khi thu
thập đánh giá lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo cầm phải lấy lời
khai ngay; động viên khuyến khích họ khai báo trung thực về các tình tiết của vụ
án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc
tội; khi thu thập, đánh giá lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
cần chú ý thái độ ăn năn hối cải hay không của họ để có biện pháp thu thập, kiểm
6
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
tra đầy đủ, đánh giá chính xác khách quan. Tuyệt đối không dược sử dụng biện
pháp trái pháp luật như bức cung, nhục hình để lấy lời khai…
3. Kết luận giám định:
Kết luận giám định là đánh giá cụ thể bằng văn bản của người có trình độ
chuyên môn về vấn đề khoa học, kỹ thuật tương ứng liên quan đến vụ án hình sự
đươc cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, kết luận giám định là nguồn chứng cứ quan trọng được sử dụng nhằm xác
định tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm, những thiệt hại xảy ra hay xác
định năng lực hành vi hình sự của bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại,
cũng như khả năng nhận thức của họ.
Các loại trưng cầu giám định thường gặp như: Trưng cầu giám định pháp y,
trưng cầu giám định kĩ thuật hình sự, trưng cầu giám định văn hoá, nghệ thuật,
trưng cầu giám định kế toán, tài chính…Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định đầy
đủ với những nội dung xung quanh việc tiến hành giám định như: kết luận giám
định (Điều 73), các trường hợp bắt buộc phải giám định (Khoản 3 Điều 155, Điểm
b Khoản 2 Điều 75), thủ tục giám định (Điều 156), nội dung kết luận giám định
(Điều 157), quyền lợi của bị can và người tham gia tố tụng đối với kết luận giám
định (Điều 158), giám định bổ sung hoặc giám định lại (Điều 159).
Việc xem xét và đưa ra kết luận giám định phải dựa trên kiến thức chuyên
môn, khoa học kĩ thuật hay nghệ thuật… làm căn cứ vạch ra sự thật khách quan của
vụ án hình sự. Bởi lẽ, kiến thức của những người tiến hành tố tụng là có giới hạn,
do đó những vấn đề thuộc về chuyên môn, lĩnh vực chuyên ngành phải do cơ quan
giám định đánh giá và cho ý kiến mới đưa ra kết luận chính xác. Kết luận giám
định là một phán quyết mang tính khoa học bởi nó chỉ dựa trên cơ sở khoa học và
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người nên khi tìm ra sự thật của vụ án,
giá trị chứng minh của kết luận giám định bao giờ cũng mang tính khách quan hơn
các nguồn chứng cứ khác. Do đó, việc đưa ra kết luận giám định đòi hỏi đạo đức
nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao bởi nhiều kết luận có ý nghĩa quan trọng
liên quan đến tính mạng, uy tín danh dự của một con người. Xuất phát từ tầm quan
trọng của kết luận giám định trong vụ án hình sự mà người giám định phải chịu
trách nhiệm về kết luận của mình nếu có kết luận gian dối vì động cơ cá nhân thì sẽ
bị xử lý theo Điều 308 Bộ luật hình sự năm 1999.
Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ có tính chất chuyên môn khoa
học, nó có giá trị pháp lý và được sử dụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử.
Ngoài ra, nó là công cụ, phương tiện tích cực giúp cơ quan điều tra có hướng xác
minh, điều tra sự thật, giúp cho Tòa án xác định, kết luận về tính chất và mức độ
7
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, về tội phạm… Cho nên, về nguồn chứng cứ này,
nhằm khẳng định về mặt hình thức pháp lý của kết luận giám định, đồng thời chặt
chẽ về kỹ thuật lập pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung thêm quy
định là: “Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản” (Đoạn 2 Khoản 1
Điều 73). Trong trường hợp khi so sánh với các chứng cứ khác, nếu cơ quan tiến
hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lí do (Khoản 2
Điều 73 BLTTHS năm 2003); trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa
rõ, chưa đầy đủ hoặc chưa phát sinh những vấn đề liên quan đến tình tiết của vụ án
đã được kết luận trước đó thì tiến hành giám định bổ sung; trường hợp nghi ngờ về
cùng một vấn đề thì tiến hành giám định lại bằng một giám định khác (Điều 59
BLTTHS năm 2003). Ngoài ra, để bảo đảm tính độc lập và khách quan trong hoạt
động tố tụng khi có nhiều người tham gia giám định, Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định: “trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi riêng ý kiến kết luận
của mình vào bản kết luận riêng”. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định
cụ thể về nội dung giám định. Để làm sáng tỏ hoặc bổ sung nội dung kết luận giám
định, cơ quan trưng cầu giám định có thể triệu tập người giám định để hỏi thêm,
quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại (Điều 157 BLTTHS). Bị can, bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền có ý kiến của mình về kết luận
giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại (Điều 158 BLTTHS)
4. Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác:
Biên bản về các hành vi và hoạt động tố tụng là một văn bản ghi nhận diễn
biến, nội dung, những người tham gia một công việc nào đó trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự được coi là một nguồn chứng cứ. Ví dụ như: biên bản bắt
người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên tòa .v.v.. (Điều 77, BLTTHS).
Có thể khẳng định rằng, không một vụ án nào lại thiếu được biên bản bởi vì
mọi hoạt động tố tụng được coi là hợp pháp, công khai khi nó được ghi nhận trong
biên bản. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự thường diễn ra trong
một khoảng thời gian thường rất dài. Trong khoảng thời gian ấy, các thông tin, hành
vi, hoạt động tố tụng cần được lưu trữ dưới dạng thuật lại một cách trung thực, đầy
đủ để làm căn cứ xác định các chứng cứ khác (biên bản khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, biên bản thu giữ tang vật, biên bản lấy lời khai .v.v..), hoặc xác
định tính đúng đắn của các hoạt động điều tra, tố tụng khác (biên bản bắt người,
khám xét, biên bản phiên tòa .v.v.. có thể là căn cứ để kháng cáo, kháng nghị). Đây
là nguồn chứng cứ quan trọng, ghi nhận những sự việc mà Cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện nên thông tin của nó đầy đủ về mặt nội dung, chuẩn xác mặt hình thức sẽ
8
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách nhanh chóng và thuận lợi.
BLTTHS đã quy định cụ thể về cách thức lập biên bản, nội dung bắt buộc đối với
mỗi loại biên bản, lưu trữ và sử dụng biên bản .v.v..
5. Tài liệu do cơ quan, tổ chức cung cấp
Ngoài bốn nguồn chính nêu trên, tại Điều 64 và Điều 78, BLTTHS cũng quy
định: “Những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu cũng như
đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ”. Loại
nguồn này có đặc điểm là không do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập mà do cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, khi tiến
hành điều tra vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi không thể thu
thập được toàn bộ, đầy đủ chứng cứ do thời gian, địa lý hay do tính chất phức tạp
của tội phạm .v.v.. Chính vì vậy, loại nguồn này là bổ sung hoàn toàn hợp lý cho
việc giải quyết vụ án. Đương nhiên, loại nguồn này cũng sẽ được tiếp nhận và xử lý
giống như các nguồn còn lại để tìm ra chứng cứ (nếu có).
III. Thực tiễn thi hành và phương hướng hoàn thiện các quy định pháp
luật về nguồn chứng cứ
1. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định khá chi tiết cụ thể về
nguồn chứng cứ, việc xác định các loại nguồn chứng cứ, thu thập, xử lý, đánh giá
các nguồn chứng cứ góp phần tạo cơ sở cho việc giải quyết các vụ án hình sự một
cách nhanh chóng, khách quan và chính xác. Tuy nhiên do tính chất đa dạng, phức
tạp, một số nguồn chứng cứ bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan của ý thức của con
người nên việc thu thập, xác minh tính chân thực của các loại nguồn chứng cứ
trong thực tiễn cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc.
1.1. Vật chứng
Như trên đã phân tích, BLTTHS 2003 đã có những quy định về cách thu
thập, bảo quản, xử lý vật chứng. Tuy nhiên pháp luật lại không quy định cách thức
xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội nhưng là tài sản dùng để đảm bảo
trong một giao dịch dân sự. Theo điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003, vật
chứng là công cụ, phương tiện phạm tội phải tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu
huỷ. Nhưng nếu công cụ, phương tiện dùng để phạm tội là tài sản dùng để đảm bảo
cho giao dịch dân sự thì nếu sung quỹ Nhà nước thì quyền lợi của bên nhận bảo
đảm sẽ không được đảm bảo. Điều này đã gây nhiều vướng mắc trong quá trình xử
lý vật chứng trong thực tiễn.
1.2. Lời khai
9
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
* Vấn đề lời khai của người làm chứng:
Thứ nhất, pháp luật tố tụng hình sự không quy định về độ tuổi của người
tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Như vậy, bất cứ ai có khả năng
nhận biết sự việc và khai báo về sự việc đó cũng đều có thể được triệu tập làm
người làm chứng, kể cả trẻ em, người chưa thành niên. Nhưng pháp luật lại không
có quy định về thủ tục đặc biệt lấy lời khai và tiến hành các hoạt động làm chứng
đối với những người làm chứng là trẻ em, người chưa thành niên. Điều này không
những có khả năng gây ảnh hưởng nhất định đến tính chính xác của lời khai mà còn
gây ra những tác động không tốt đối với tâm sinh lý của những người làm chứng là
chủ thể được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật khác (ví dụ Luật về bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em).
Thứ hai, mặc dù khoản 5 Điều 211 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường
hợp cần thiết phải đảm bảo an toàn cho người làm chứng và những người thân
thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy
định của pháp luật” song luật lại không quy định “người thân thích” của người làm
chứng là những người nào và cũng không quy định cụ thể về “những biện pháp cần
thiết” để bảo vệ họ. Chính vì không có cơ chế bảo đảm cụ thể, không có những
biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nhân chứng và người thân thích của họ cho nên quy
định trên đây chỉ mang tính hình thức, không có tác dụng động viên, khuyến khích,
bảo đảm cho người làm chứng khai báo trung thực về tất cả những gì họ biết để
giúp cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng xác định được sự thật.
Thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua cho thấy nhiều
trường hợp người làm chứng không dám khai báo hoặc khai báo không đầy đủ
những tình tiết liên quan đến vụ án mà họ đã biết vì sợ trả thù.Trong nhiều vụ án
lớn liên quan đến băng nhóm xã hội đen như vụ án Phúc bồ, Khánh trắng (Hà Nội),
Năm Cam (TP. Hồ Chí Minh) thì gần như những người làm chứng được tòa án
triệu tập đã không có mặt.
Hiện nay pháp luật chưa quy định về bảo vệ nhân chứng cũng như các
chương trình kế hoạch cụ thể. Do vậy, cần thiết phải có quy định thống nhất về việc
áp dụng các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho người làm chứng cũng như
những người thân thích của họ, phải đưa quy định này vào để khuyến khích cho
những người tố giác tội phạm. Trong vấn đề này, cần thiết phải nghiên cứu, tham
khảo có chọn lọc các kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Thứ ba, không có sự "tương xứng" giữa quyền và nghĩa vụ của người làm
chứng. Dù người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong việc giúp làm sáng tỏ vụ
án, song so với những quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng thì dường như
10
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
nghĩa vụ của họ nhiều và nặng nề hơn rất nhiều. Việc đi làm người làm chứng còn
gây mất thời gian, ảnh hưởng tới cuộc sống, công việc của họ. Do đó, trên thực tế
hầu như không ai muốn tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng.
Thứ tư, về sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa: Mặc dù BLTTHS
năm 2003 xác định sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa là quan trọng để
làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng luật cũng quy định người làm chứng có
thể vắng mặt tại phiên tòa nếu như trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra
(khoản 1 Điều 192). Quy định này là vi phạm nguyên tắc "khi nghị án chỉ được căn
cứ vào các chứng cứ (buộc tội và gỡ tội) và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa" (khoản 3
Điều 222). Như vậy quy định này đã tạo khe hở pháp luật là có những lời khai của
người làm chứng chưa được làm rõ tại phiên tòa nhưng vẫn được sử dụng làm căn
cứ xác định tội phạm. Việc không bảo đảm quyền tham gia phiên tòa để thẩm tra
lại chứng cứ của người làm chứng sẽ dẫn đến sự vi phạm quyền được bào chữa của
bị can, bị cáo.
Thứ năm, về quyền được đọc và yêu cầu sửa đổi bổ sung biên bản phiên
tòa. Theo quy định hiện hành thì chỉ có “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của
những người đó được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi,
bổ sung vào biên bàn phiên toà và ký xác nhận” (khoản 4 Điều 200 BLTTHS).
Trong thực tế nhiều bản án đã trích dẫn sai ý kiến của người làm chứng, việc yêu
cầu sửa đổi bổ sung chủ yếu do đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo hay bảo vệ
quyền lợi cho đương sự, còn chính bản thân người làm chứng lại không có quyền
này. Điều đó rõ ràng là sẽ ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo và là tiềm ẩn dẫn
đến việc án xử oan sai
* Vấn đề lời khai của người bị hại:
Người bị hại là người biết được các tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có
nghĩa vụ công dân trong việc giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Trong lời khai của mình, người bị hại trình bày những tình tiết của
vụ án mà họ biết. Để có cơ sở cho việc đánh giá chính xác, khách quan lời khai của
người bị hại, Bộ luật TTHS quy định người bị hại phải khai báo về mối quan hệ của
họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy
không ít trường hợp người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội
hoặc những người thân của người này khống chế, đe dọa, mua chuộc, lừa dối hoặc có
11
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
những thủ đoạn khác làm cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, không thể có mặt để
thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và vô hình chung
họ lại phạm vào tội từ chối khai báo theo Điều 308 BLHS năm 1999
Khoản 4 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định nghĩa vụ khai báo của người
bị hại và nếu người bị hại không khai báo mà không có lý do chính đáng có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS. Tuy nhiên lại không quy định chi tiết
về trường hợp từ chối khai báo “có lý do chính đáng”, chính vì vậy trên thực tế, chưa
có người bị hại nào bị truy cứu trách nhiệm về tội “từ chối khai báo” theo Điều 308
BLHS. Mặt khác, đã là người bị hại lại còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ vì họ
từ chối khai báo, trong khi đó bị can, bị cáo là người bị buộc tội từ chối khai báo lại
không phải chịu trách nhiệm gì như vậy liệu có công bằng?
Ngoài những điểm đã nêu trên đây, việc thu thập chứng cứ là lời khai của
những người tham gia tố tụng còn gặp phải một vướng mắc khác, đó là không có
chế tài đối với sự không khai báo phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Điều 307,
308 BLHS chỉ quy định chung về việc xử lý hình sự đối với tội khai báo gian dối
hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật và tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định
hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không hướng dẫn ở mức độ nào thì áp dụng và áp
dụng như thế nào trong từng trường hợp.
1.3. Kết luận giám định
Các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về kết luận giám định
còn dừng lại ở mức chung,chưa chi tiết cụ thể. Điều này đã gây tình trạng hiểu và
thực thi pháp luật chưa chính xác làm cho quá trình tiến hành tố tụng gặp nhiều khó
khăn.
Khoản 1 Điều 158 quy định bị can và những người tham gia tố tụng khác được
yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Khi những người này (chủ yếu là bị
can và người bị hại) mà cùng yêu cầu giám định lại hoặc cùng yêu cầu giám định
bổ sung về cùng một đối tượng thì sẽ chấp nhận yêu cầu của ai? Tại khoản 2 quy
định nếu: “Trong trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chấp nhận yêu
cầu của bị can, những người tham gia tố tụng khác thì phải nêu rõ lý do và thông
báo cho họ biết”. Như vậy luật mới quy định trường hợp không đồng ý, mà chưa
quy định rõ ràng trường hợp nhiều người cùng yêu cầu sẽ giải quyết thế nào,chấp
nhận ai, chấp nhận như thế nào… Đây là vấn đề gây khó khăn, vướng mắc trong
quá trình giải quyết vụ án bởi quy định pháp luật còn chung chung. Vì pháp luật
không quy định rõ ràng, cụ thể việc giám định lại nên rất dễ bị các cơ quan tố tụng
áp dụng tùy tiện. Nếu thiên vị bên A thì họ chấp nhận yêu cầu giám định lại của
12
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
bên A. Trong trường hợp không bảo vệ bên A thì không chấp nhận với lý do "xét
thấy không cần thiết".
Về vấn đề giám định bổ sung hoặc giám định lại theo khoản 2 Điều 159:
“Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có
mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc
giám định lại phải do người giám định khác tiến hành.” Pháp luật không quy định
số lần được giám định lại là bao nhiêu nên đã dẫn đến tình trạng vụ án bị ách tắc,
kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân, tốn kém nhân lực vật lực của Nhà nước.
Có nhiều trường hợp nội dung kết luận giám định không rõ ràng. Tại Điều 157
BLTTHS đã quy định nội dung kết luận giám định, tuy nhiên lại không quy định phải
trình bày rõ ràng về kết quả giám định.Vấn đề này trong thực tiễn đã gây không ít rắc rối.
Trường hợp các kết luận giám định xung đột với nhau, bộ luật chưa quy định
phải giải quyết như thế nào. Đây thực sự là sự thiếu xót, bởi lẽ trên thực tế sự xung
đột giữa các kết luận giám định trong nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng không biết tin và sử dụng kết quả giám định
nào như một chứng cứ để chứng minh các vấn đề trong vụ án hình sự. Chính vì
vậy, khi xác định giá trị của kết luận giám định trong nhiều vụ án hình sự giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có quan điểm khác
nhau và từ đó kết luận về bản chất vụ án cũng khác nhau. Mặt khác, thời gian giám
định trong vụ án bị kéo dài đã ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nhiều vụ án
phải tạm đình chỉ chờ kết quả giám định.
1.4. Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác và
các tài liệu đồ, vật khác do tổ chức cá nhân cung cấp.
Đây là hai nguồn chứng cứ quan trọng tuy nhiên thực tiễn thực hiện các quy
định pháp luật về hai loại nguồn chứng cứ này cũng gặp không ít khó khăn.
Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án có rắc rối khó khăn không phải ở quá trình xác
minh, điều tra mà lại ở khâu ghi nhận những hoạt động, kết quả của quá trình điều tra,
xác minh trong biên bản. Cụ thể vẫn còn tình trạng ghi chép không đầy đủ, thiếu nội
dung, không có người chứng kiến thậm chí cả không lập biên bản. Cách thức lập biên
bản đã được pháp luật quy định chặt chẽ, cụ thể yêu cầu người tiến hành tố tụng buộc
phải tuân theo nên sự vi phạm nghiêm trọng những quy định này làm cho biên bản
không có giá trị pháp lý để làm cơ sở chứng minh những vấn đề trong vụ án hình sự.
Các tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp không phải do cơ
quan tiến hành tố tụng cung cấp nên thường không đảm bảo tính hợp pháp. Hơn
nữa sự hạn chế của loại nguồn này là ở chỗ các tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp có được cơ quan tiến hành tố tụng chuyển hóa thành chứng cứ
13
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
pháp lý có giá trị chứng minh hay không? Nếu không được chuyển hóa thành
chứng cứ pháp lý thì chúng cũng không có giá trị chứng minh.
2. Phương hướng hoàn thiện quy định nguồn chứng cứ
Qua nghiên cứu một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong vụi án hình
sự cho thấy nguồn chứng cứ là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động tố tụng
hình sự. Nguồn chứng cứ là căn cứ pháp luật để cơ quan tiến hành tố tụng ra các
quyết định cần thiết để giải quyết đúng đắn và chính xác vụ án hình sự. Vì vậy để
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm cần hoàn thiện các
quy định về nguồn chứng cứ trong BLTTHS năm 2003.
- Thứ nhất, trong khoản 2 Điều 64 cần có một đoạn nêu khái niệm "nguồn
chứng cứ" là gì, sau đó mới đề cập (liệt kê) đến các loại nguồn chứng cứ thì mới
đầy đủ và chính xác hơn.
- Thứ hai, hoàn thiện các quy định về vật chứng. Bộ luật Tố tụng Hình sự
cần quy định về xử lý vật chứng là tài sản bảo đảm cho giao dịch dân sự, không
sung quỹ Nhà nước vật chứng đó mà nên quy định: Căn cứ quyết định, bản án của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án tiến hành bán đấu giá tài sản.
Số tiền bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán cho bên nhận
cầm cố, nhận thế chấp hợp pháp sau khi trừ các chi phí cho việc bảo quản và chi
phí cho việc tổ chức bán đấu giá; phần còn lại để thi hành án.
- Thứ ba, hoàn thiện các quy định về lời khai.
Luật nên quy định sự có mặt của nhân chứng người bị hại là bắt buộc tại
phiên tòa và nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa; hoặc quy định cụ thể trong trường
hợp nào thì có thể tiếp tục tiến hành xét xử dù không có sự tham gia của người làm
chứng, người bị hại. Có như thế mới bảo đảm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Bổ sung quy định về bảo vệ người làm chứng, người bị hại khi người bị hại
yêu cầu và cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng họ bị đe dọa; quy định cho
người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan…được quyền yêu cầu cho xem biên bản phiên tòa và được
quyền yêu cầu bổ sung, sửa chữa cho chính xác.
Bộ luật Tố tụng hình sự cũng nên có những quy định về chế độ đãi ngộ để
khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - hợp
tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm và xác lập chân lý của vụ án.
Cần quy định thêm chế tài về xử phạt hành chính, phạt tiền...đối với những
trường hợp khai báo không trung thực bởi việc quy định như vậy sẽ giúp cho quy
định pháp luật có tính khả thi cao hơn, những người tham gia tố tụng sẽ có ý thức
khai báo trung thực, đầy đủ hơn. Đối với trường hợp từ chối khai báo “có lý do
14
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
chính đáng” phải quy định cụ thể "lý do chính đáng" đó là gì để tạo điều kiện cho
việc áp dụng pháp luật một cách thuận lợi, dễ dàng.
Để lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 70) là một
trong những nguồn chứng cứ, thì cần phải quy định khái niệm như thế nào là
"người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan"
- Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật về kết luận giám định.
Pháp luật cần phải quy định việc trình bày kết quả giám định một cách cụ
thể, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án không gặp phải những hiểu nhầm không
đáng có; quy định hạn chế số lần được giám định.
Đối với trường hợp các kết luận giám định mâu thuẫn nhau nên quy định kết
luận giám định của cơ quan tổ chức nào có giá trị pháp lý cao hơn; đối với các kết luận
giám định có giá trị pháp lý ngang nhau thì kết luận giám định sau cùng sẽ được công
nhận. Mặt khác Bộ luật cũng cần quy định về thời gian giám định để vụ án được giải
quyết nhanh chóng, kịp thời đảm bảo lợi ích của những người tham gia tố tụng.
- Thứ năm, pháp luật tố tụng hình sự cần có quy định cụ thể hơn nữa về cách
lập, ghi biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và xử lý những người vi phạm gây
hậu quả nghiêm trọng. Đối với nguồn chứng cứ là đồ vật là tài liệu, đồ vật do cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cần sửa đổi theo hướng quy định rõ những điều
kiện để các tài liệu, đồ vật đó được coi như là chứng cứ.
- Ngoài ra, trong xã hội mà các phương tiện kỹ thuật, điện tử ngày càng phổ
biến và được tiếp cận dễ dàng bởi mọi người dân thì số lượng các loại tội phạm liên
quan đến máy tính, mạng máy tính và các phương tiện lưu giữ thông điệp dữ liệu
khác ngày càng gia tăng. Tuy nhiên chưa có quy định nào của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 nói riêng, pháp luật về tố tụng nói chung quy định chi tiết về loại chứng cứ
liên quan đến tội phạm mạng hay còn gọi là “chứng cứ điện tử” này. Cách thu thập,
xử lý loại nguồn chứng cứ này rất phức tạp và có liên quan chặt chẽ đến hệ thống
điều hành, sử dụng và an ninh mạng máy tính không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn
trên phạm vi thế giới. Nếu không có quy định cụ thể về giá trị pháp lý của loại nguồn
chứng cứ này, cũng như quá trình thu thập, lưu giữ, xác minh thì sẽ rất khó khăn cho
các cơ quan điều tra trong việc thu thập và xử lý chứng cứ đảm bảo hợp pháp, khách
quan để tìm ra sự thật của vụ án đặc biệt đối với các vụ án mà nguồn này là phương
tiện chủ yếu hoặc duy nhất để chứng minh tội phạm. Nên bổ sung thêm trong
BLTTHS loại nguồn chứng cứ mới đó là thông điệp dữ liệu. Đặc biệt chú ý đến việc
phối hợp giữa các cá nhân tổ chức cung cấp dịch vụ mạng máy tính, quản lý dữ liệu
điện tử với cơ quan điều tra trong việc thu thập loại nguồn đặc biệt này. Loại nguồn
này không phải là vật chất hữu hình giống như vật chứng mà tồn tại dưới dạng ảo với
15
Bài tập cuối kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Đề số 07
cách thức khởi tạo, lưu trữ, truyền gửi; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn
của thông tin; cách thức xác định người khởi tạo là vô cùng riêng biệt và khó xác
định độ tin cậy hơn các loại nguồn khác. Tuy nhiên không vì thế mà các thông điệp
dữ liệu mất đi giá trị chứng cứ của nó. Thực tế, tại Điều 14, Luật Giao dịch điện tử
2005 có khẳng định: “Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị làm chứng cứ chỉ
vì đó là một thông điệp dữ liệu”. Loại nguồn này nếu được bổ sung trong thời gian
tới chắc chắn sẽ là phương tiện chứng minh hữu hiệu đối với các loại tội phạm mạng.
Nhìn một cách tổng thể, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định khá
đầy đủ về các loại nguồn chứng cứ. Song, khi đi vào thực tiễn áp dụng, không thể
tránh khỏi những vướng mắc không lường trước với những tình tiết cụ thể, gây bế
tắc trong quá trình tiến hành tố tụng.Việc nhận ra những thiếu xót và hoàn thiện các
quy định pháp luật về nguồn chứng cứ là cần thiết để pháp luật đi vào đời sống một
cách hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
2. Nguyễn Văn Thắng, Nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự,Tạp chí
Công an nhân dân, số 05/1995
3. ThS. Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,
trang 91, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
4. TS. Mai Thế Bày, Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh
trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 18 & 20 (Tháng 9 và 10 năm 2008)
5. TS. Trần Quang Tiệp, Về chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng hình
sự, Tạp chí Kiểm sát số 18 & 20 (Tháng 9 và 10 năm 2008)
6. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam 2003
16