Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.87 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN..................................1
1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại............................................................1
1.1. Khái niệm trọng tài thương mại...................................................................1
1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại..............................................................1
2. Sự cần thiết của việc hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương
mại.................................................................................................................................2
II. SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI THÔNG QUA BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH................................................................................................................3
1. Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài
viên................................................................................................................................4
2. Quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời........................................7
3. Quy định về hủy phán quyết của trọng tài............................................................9
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN SỰ HỖ
TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT..............11
1. Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên.................11
2. Về quy định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời......................................12
3. Về quy định hủy phán quyết của trọng tài..........................................................13
KẾT LUẬN................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................16

0


MỞ ĐẦU
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông
qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng


là trong khi số vụ tranh chấp được giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại
còn rất khiêm tốn thì hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng số lượng vụ án
tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) đã ra đời và có
nhiều quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại,
khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Để đi
sâu vào phân tích vấn đề trên, trong bài tập lớn học kỳ, em xin lựa chọn đề bài:
“Phân tích 3 (ba) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ
của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp
dụng các quy định đó”.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN
1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại
1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh
chấp ra trước một trọng tài viên hoặc Ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau
khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm
dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp
phải thực hiện.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật TTTM 2010 thì: "Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định
của Luật này".
1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo
pháp luật và quy chế về trọng tài thương mại. Nhà nước không can thiệp sâu vào các
1



hoạt động của cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình thông
qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng như những tác động khác như tham gia
điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất...
Thứ hai, trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trước
tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận
và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Một trong những nguyên
tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý chí thỏa thuận của các
bên tranh chấp. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên
đương sự phải thi hành. Do đó, nhìn ở một góc độ nào đó thì quyết định của trọng tài
cũng có tính chất như quyết định của cơ quan tài phán công.
Thứ ba, pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam
đều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của trọng tài
thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông qua trình tự, thủ tục
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại, Tòa án đảm bảo các
quyết định của trọng tài thương mại được thi hành trên thực tế khi các bên tranh chấp
không tự nguyện thi hành, Tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, chỉ định Trọng tài viên,...
Thứ tư, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là trọng tài vụ
việc (là phương thức do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết tranh
chấp và tự chấm dứt tồn tại khi đã giải quyết xong) và trọng tài quy chế (là hình thức
giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài).
Thứ năm, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng
cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết có giá
trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết sẽ được chuyển sang Cơ quan thi
hành án.
2. Sự cần thiết của việc hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài
thương mại
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài:
Trọng tài là cơ quan tài phán phi Chính phủ. Phán quyết của trọng tài không
mang tính quyền lực Nhà nước, không đại diện cho ý chí Nhà nước mà đại diện cho ý

2


chí của các bên tranh chấp. Vì vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài gặp
rất nhiều khó khăn cần đến sự giúp đỡ của Tòa án. Ví dụ như: trong quá trình thành
lập Hội đồng trọng tài, có trường hợp bị đơn không chọn được trọn tài viên cho mình,
hay các bên không chọn được trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp tẩu
tán tài sản, làm thất thoát khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối
với bên kia thì trọn tài cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối
với các hành vi đó,... Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án cho hoạt
động của trọng tài để khắc phục những điểm yếu và phát huy những điểm mạnh của
trọng tài. Có như vậy mới đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài
được thông suốt và hiệu quả.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam:
Các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày một
nhiều hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu khác nhau
của chủ thể kinh doanh. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại đã có lịch sử tồn tại khá
lâu dài, tuy nhiên chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản
là do thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tòa án nói
riêng. Thực tiễn này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan Tòa án nói
riêng phải có sự hỗ trợ nhất định đối với trọng tài. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho hoạt
động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, đồng thời
không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa quyền tự
định đoạt của các đương sự.
Thứ ba, xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế:
Cùng với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được đưa đến Tòa kinh tế ngày càng
nhiều, đã tạo ra tình trạng "quá tải", án tồn đọng tại các Tòa kinh tế, đặc biệt là ở một
số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo thống kê của Trung tâm

Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi Toà kinh tế Hà Nội trong năm 2011
phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có khoảng 300 vụ án kinh tế và Toà kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án các loại, trong đó có 1.000 vụ án kinh tế,
thì VIAC cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ. Tính trung bình mỗi Trọng tài viên của
3


VIAC chỉ xử 0,25 vụ một năm, trong khi mỗi thẩm phán Toà kinh tế Hà Nội phải xử
trên 30 vụ một năm và mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên
50 vụ một năm. 1 Việc giải quyết tình trạng trên tại các Tòa kinh tế rất cần có những
tổ chức trọng tài mạnh, đủ sức hấp dẫn các nhà kinh doanh để giảm bớt gánh nặng xét
xử cho Tòa án. Hay nói cách khác, khi hình thức trọng tài được củng cố, ghi nhận sự
hỗ trợ từ phía Tòa án, thì cũng chính là làm tăng tính hiệu quả hoạt động của Tòa án,
đồng thời bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tranh chấp.
II. SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THÔNG QUA BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại được thể hiện
thông qua các quy định của Luật TTTM 2010. Luật đã đưa ra hàng loạt các quy định
thể hiện rõ nét sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại. Đó là:
- Quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trước khi giải
quyết tranh chấp: Tòa án chỉ định, thay đổi Trọng tài viên; Tòa án hỗ trợ trong việc
thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; các quy định về xem xét thỏa thuận trọng tài,
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài.
- Quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong quá
trình giải quyết tranh chấp: Tòa án giúp đảm bảo sự có mặt của người làm chứng;
Tòa án hỗ trợ áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong quá
trình thi hành phán quyết của trọng tài thương mại: Tòa án công nhận và thi hành
phán quyết của trọng tài thương mại; Tòa án quyết định hủy hay không hủy phán

quyết trọng tài; Tòa án đăng ký phán quyết của trọng tài vụ việc; Tòa án hỗ trợ trong
việc lưu giữ hồ sơ giải quyết tranh chấp của trọng tài vụ việc.
Trong phạm vi đề bài này, em xin được đi sâu phân tích 3 quy định của Luật
TTTM 2010 về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại, đó
là: Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi Trọng tài
viên; quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; và quy định về hủy
phán quyết của trọng tài.
1

Theo thông tin tại trang web của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam:

4


1. Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi
trọng tài viên
Trong tố tụng trọng tài, việc thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh
chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa
chọn thành lập Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài viên tùy
theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận về số
lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên (Điều 39 Luật
TTTM).
Tuy nhiên, đối với việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, nếu bị đơn hoặc
các bị đơn không chọn được trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên không bầu được
một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài, hoặc các bên không chọn
được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một
trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có trụ sở theo
yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định Trọng tài viên, chỉ
định Chủ tịch Hội đồng trọng tài trong các trường hợp trên (Điều 41 Luật TTTM).
Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM có quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội

đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên
còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại
của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng
tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên
tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định
về việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy đối với trường hợp cần phải thay đổi Trọng
tài viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ
việc giải quyết), nếu các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định
được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh
chấp, thì Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp)
có thể hỗ trợ việc quyết định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án
có thẩm quyền sẽ phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài
viên.

5


Trong khi đó, Pháp lệnh TTTM 2003 quy định chủ thể có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết là nguyên đơn, điều này đã hạn chế quyền của các Trọng tài viên và bên
bị đơn trong việc yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên. Nói cách khác, theo Pháp
lệnh TTTM 2003, nếu không có yêu cầu của nguyên đơn thì không phát sinh thẩm
quyền của Tòa án trong việc thay đổi Trọng tài viên. Có thể thấy, Luật TTTM 2010
đã khắc phục được hạn chế này của Pháp lệnh TTTM 2003, điều này đảm bảo sự
công bằng và quyền lợi chính đáng của các bên tranh chấp.
Bên cạnh đó, Luật TTTM 2010 còn có quy định tại khoản 4 Điều 43 đối với
trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh
chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên
trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh

chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu
không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó,
Tòa án cũng có thể hỗ trợ trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể
tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan.
Như vậy, các quy định trên của Luật TTTM đã tránh được các bế tắc trong tố
tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết. Bởi vì,
vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án
không thụ lý giải quyết. Việc không thành lập được Hội đồng trọng tài hoặc không
chọn được Trọng tài viên duy nhất gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp. Vì
thế, quyền lợi của các bên tranh chấp khó được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và
lợi ích bị xâm phạm. Do đó, sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong
việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên là việc hết sức cần thiết. Sự can thiệp của quyền
lực nhà nước vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đã
làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên tranh chấp giao phó,
giúp các bên tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn đã phát sinh.

2. Quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

6


Luật TTTM 2010 quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài
trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản đang có nguy
cơ bị tẩu tán, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm thi hành án. Sự hỗ trợ của Tòa án đối
với trọng tài ở đây thể hiện ở việc, Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước
mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà Hội đồng
trọng tài không có được do không nhân danh nhà nước để thực hiện quyền lực nhà
nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao
hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp của Hội đồng

trọng tài.
Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi
có biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Đây là một quy định tiến bộ hơn
so với Pháp lệnh TTTM 2003. Pháp lệnh TTTM có quy định hạn hẹp là: chỉ Tòa án
nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên
trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ: khi các bên kiện ra Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có
trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áo dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản
nằm ở địa bàn khác thì việc yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn không khả thi và hợp lý.
"Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự
bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài" (theo khoản 2 Điều 48 Luật TTTM). Các biện pháp tạm thời được áp dụng cũng
tương tự như những biện pháp được áp dụng cho một vụ án được giải quyết tại Tòa
án. Luật TTTM cũng quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 51), trách nhiệm của các
bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 52). Luật quy định bên yêu
cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chứng minh về sự cần thiết áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và chịu trách nhiệm về hậu quả pháp lý phát sinh
từ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không hợp lý là nhằm mục đích đảm bảo
tính ràng buộc pháp lý và tính khả thi của các biện pháp này.
7


Một điểm khác biệt của Luật TTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM 2003 là việc
Luật quy định Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời để các bên duy trì, khôi phục hiện trạng tranh chấp, tiến hành các biện pháp bảo

quản tài sản cần thiết đảm bảo cho việc thi hành phán quyết, bảo quản chứng cứ liên
quan hay bảo quản tài sản liên quan đến tranh chấp. Quy định này cho thấy thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài đã thực sự được mở rộng gần với thẩm quyền của Tòa
án. Quy định như vậy là hợp lý vì Hội đồng trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp,
hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ nhất nội dung vụ việc, cũng như mức độ, tính
cần thiết của các biện pháp cần áp dụng Tuy nhiên, vì Hội đồng trọng tài không phải
là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước mà là do các bên tranh chấp trao cho trên
cơ sở pháp luật; hơn nữa việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể làm
ảnh hưởng tới quyền lợi của bên bị áp dụng, nên khi ra quyết định, Hội đồng trọng tài
phải rất thận trọng.
Ngoài ra, để giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài,
khoản 3 Điều 49 Luật TTTM 2010 còn quy định: "Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội
đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ
chối".” Khoản 5 Điều 53 Luật này cũng quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu Hội đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Còn nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì Hội đồng trọng tài cũng phải từ chối. Do đó, với quy định tại khoản 5
Điều 53, Luật TTTM đã nâng cao vai trò của Hội đồng trọng tài trong việc áp dụng
một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với hoạt động này, Tòa án đóng
vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài.
8



Quy định như trên là phù hợp với vai trò của Tòa án là cơ quan tài phán công
được Nhà nước trao quyền, đồng thời thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc tự do thỏa
thuận là nguyên tắc đặc thù của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại. Quy định này đã giải quyết một cách mềm dẻo mối quan hệ giữa Tòa án
và trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy có thể khẳng định, việc Luật TTTM 2010 quy định có sự tham gia của
Tòa án trong việc hỗ trợ trọng tài thương mại áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá
trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của
trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.
3. Quy định về hủy phán quyết của trọng tài
Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là các quy
định về hủy quyết định trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định
trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy tiện. Tố tụng trọng tài
không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của
trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót
trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, khoản 1 Điều 44 Luật TTTM 2010 đã quy định: bên không đồng ý với
quyết định trọng tài "có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại
quyết định của Hội đồng trọng tài".
Hủy quyết định trọng tài có nghĩa là Tòa án (với tư cách là cơ quan xét xử của
Nhà nước) có thẩm quyền xem xét lại phán quyết của trọng tài. Tuy nhiên, thủ tục
hủy quyết định trọng tài của Tòa án không phải là thủ tục xét xử lại vụ kiện, không
giống như thủ tục phúc thẩm trong tố tụng dân sự. Khi nhận được đơn yêu cầu hủy
quyết định trọng tài đối với vụ tranh chấp đã được trọng tài giải quyết, Tòa án có
thẩm quyền không xét xử lại vụ tranh chấp, mà chỉ đối chiếu với các trường hợp hủy
quyết định trọng tài theo quy định tại Điều 68 Luật TTTM 2010 để ra quyết định.

Nếu như bên yêu cầu chứng minh được quyết định trọng tài đã tuyên thuộc một
trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM thì
Tòa án sẽ hủy quyết định trọng tài. Với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
9


68 (phán quyết của trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam),
thì Tòa án sẽ có trách nhiệm chủ động xác minh, thu thập chứng cứ để quyết định hủy
hay không hủy quyết định trọng tài. Như vậy, quy định này góp phần khắc phục
những sai phạm (nếu có) của Hội đồng trọng tài khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ
tranh chấp được giải quyết thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu
như quyết định trọng tài đã tuyên không bị hủy, thì phán quyết đó cần được các bên
tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành.
Luật TTTM 2010 đã quy định một cách cụ thể về vấn đề hủy quyết định trọng
tài: căn cứ hủy quyết định trọng tài (Điều 68); quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài (Điều 69); đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 70); Tòa án xét đơn yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 71). Khi xem xét việc hủy phán quyết trọng tài,
còn có sự tham gia của Viện kiểm sát với tư cách là cơ quan giám sát hoạt động tố
tụng của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động trọng tài. Quyết định của Tòa án là quyết
định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Đây là một chế định quan trọng của Luật
TTTM 2010 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi đưa tranh
chấp ra giải quyết tại trọng tài.
Khác với Pháp lệnh TTTM 2003, thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài theo Luật TTTM 2010 chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật
quy định một Hội đồng gồm ba Thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù
hợp (Điều 71). Như vậy, việc xét đơn chỉ có một cấp và quyết định của Hội đồng xét
đơn yêu cầu là quyết định chung thẩm đã khắc phục được những thủ tục rườm rà
không cần thiết của giai đoạn kháng cáo, kháng nghị. Việc không quy định thủ tục
kháng cáo, kháng nghị đối với các phán quyết của trọng tài đảm bảo cho thủ tục tố

tụng trọng tài đơn giản, việc giải quyết tranh chấp thương mại được nhanh gọn.
Khi xem xét yêu cầu hủy quyết định trọng tài, Hội đồng xét đơn yêu cầu không
xét xử lại nội dung vụ tranh chấp, mà chỉ kiểm tra quá trình thực hiện thủ tục giải
quyết tranh chấp thương mại theo quy định. Nếu phát hiện có sự vi phạm thủ tục này,
Tòa án sẽ ra quyết định hủy quyết định trọng tài. Như vậy, trước khi đưa đơn đến Tòa
án yêu cầu hủy quyết định trọng tài, các nhà kinh doanh cần đối chiếu xem yêu cầu
của mình có rơi vào một trong những trường hợp hủy quyết định trọng tài hay không.
10


Nếu thấy có căn cứ theo Điều 68 Luật TTTM 2010 thì bên được thi hành gửi đơn yêu
cầu Tòa án xem xét, tránh tình trạng bên phải thi hành không muốn thi hành phán
quyết trọng tài mà dựa vào thủ tục hủy phán quyết trọng tài để mong muốn phán
quyết này sẽ bị hủy và mình sẽ không phải gánh chịu nghĩa vụ.
Như vậy, qua sự phân tích trên ta thấy, việc có sự hỗ trợ của Tòa án về việc hủy
phán quyết trọng tài đối với những phán quyết vi phạm pháp luật của trọng tài thương
mại giúp cho các nhà kinh doanh yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp, vì khi trọng tài có sự vi phạm pháp luật, Tòa án sẽ đứng ra giúp
đỡ họ. Quy định này góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của Trọng
tài viên, khiến cho Trọng tài viên phải khách quan, vô tư khi giải quyết tranh chấp.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN SỰ
HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
Sự ra đời Luật TTTM 2010 đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình
thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng
ba quy định trên của Luật TTTM trong gần ba năm qua, tuy được đánh giá có nhiều
điểm tiến bộ hơn so với các văn bản pháp luật trước đó, đặc biệt là so với Pháp lệnh
TTTM 2003, nhưng một số quy định của Luật này cũng đã bộc lộ một số bất cập.
Đặc biệt, một trong những bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt

Nam là cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong ba quy định như đã phân tích
ở trên vẫn chưa thực sự hiệu quả, cụ thể như sau:
1. Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên
Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay đổi
Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM,
các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài từ chối giải quyết tranh chấp hoặc các bên
tranh chấp là những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy
nhiên, điều luật này chỉ quy định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết
định về việc thay đổi Trọng tài viên (là 15 ngày, kể từ ngày có đơn yêu cầu) mà
không có quy định về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên. Điều này,
đôi khi làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể có quyền yêu
11


cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có thẩm quyền
trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có Trọng tài viên thay thế.
Theo ý kiến cá nhân em, nên quy định thời hạn các chủ thể có quyền yêu cầu
gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài viên thông báo bằng
văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết
có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình (khoản 2 Điều 42 Luật này).
Các bên chỉ có quyền gửi yêu cầu thay đổi trọng tài viên trong thời hạn cho phép. Hết
thời hạn theo quy định mà các bên không đưa ra yêu cầu thay đổi trọng tài viên thì họ
sẽ mất quyền yêu cầu. Điều này vừa khiến quá trình tố tụng được đảm bảo lại vừa
nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên. Họ phải theo dõi sát sao quá trình thành
lập Hội đồng trọng tài cũng như trong suốt quá trình xét xử để đảm bảo cho quyền lợi
của mình. Bởi trong thực tế nhiều khi một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách
nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức trọng
tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài theo ý chí của
mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu một bên (thường là bị đơn) không muốn
tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát sinh. Do đó họ không đáp lại yêu cầu thành

lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau đó họ lại tìm cách trì hoãn tố tụng bẳng cách
yêu cầu thay đổi trọng tài viên. Quy định cụ thể về thời hạn các chủ thể có quyền yêu
cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền sẽ hạn chế được tình trạng này.
2. Về quy định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thứ nhất, Luật TTTM 2010 quy định Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng một
số biện pháp khẩn cấp tạm thời để các bên duy trì, khôi phục hiện trạng tranh chấp,
tiến hành các biện pháp bảo quản tài sản cần thiết đảm bảo cho việc thi hành phán
quyết, bảo quản chứng cứ liên quan hay bảo quản tài sản liên quan đến tranh chấp.
Quy định này cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đã thực sự được mở rộng
gần với thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, mặc dù Luật trao quyền cho Hội đồng
trọng tài nhưng lại không quy định việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
của Hội đồng trọng tài. Do đó, Luật cần quy định thêm về việc thay đổi, áp dụng bổ
sung, hủy bỏ các biện pháp này tương tự như các biện pháp của Tòa án.

12


Thứ hai, khoản 3 Điều 50 Luật TTTM 2010 có quy định: "bên yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc
giấy tờ có giá do Hội đồng trọng tài ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể
phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây ra để bảo vệ lợi
ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời". Tuy nhiên, Luật chưa
tiên liệu được trường hợp, một doanh nghiệp nhỏ đưa đơn yêu cầu áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời nhưng họ lại không đủ tiền, kim khí quý tương ứng với giá trị
thiệt hại có thể phát sinh. Vậy, yêu cầu của họ về việc áp dụng các biện pháp đó có
được đáp ứng hay không?
Tại Đức, Bộ luật Tố tụng dân sự của nước này quy định, khi Tòa án trọng tài
có quyền yêu cầu mỗi bên nộp một khoản bảo đảm hợp lý, người ta dùng từ
"Angemessene Sicherheit", tạm dịch là "thích hợp", chứ không dùng từ "tương ứng"

như trong Luật TTTM của Việt Nam. 2 Ví dụ, nếu hai bên tranh chấp về một lô hàng
trị giá một tỷ đồng, nếu Tòa án giải thích rằng tài sản bảo đảm phải tương ứng với
một tỷ đồng thì quá bất lợi cho bên yêu cầu biện pháp khẩn cấp tạm thời, làm chi
phí tranh tụng tăng đáng kể, và trên thực tế sẽ vô hiệu hóa khả năng sử dụng các
lệnh tòa tạm thời.
Vì thế, các nhà làm luật nên xây dựng quy định này theo hướng mở hơn:
không nhất thiết áp đặt khoản tài chính cần cung cấp phải tương ứng với giá trị thiệt
hại xảy ra mà nên có những biện pháp đánh giá đúng tình hình thực tế vụ việc cũng
như tình hình tài chính của doanh nghiệp để đưa ra con số hợp lý. Quy định này được
thực thi trên thực tế sẽ đảm bảo quyền lợi của bên bị xâm phạm, ngăn chặn bên vi
phạm tẩu tán và thay đổi hiện trạng tài sản.
3. Về quy định hủy phán quyết của trọng tài
Luật sư Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC) cho biết, giai đoạn từ năm 1993 - 2013, trong số các phán quyết trọng tài có
12% bị yêu cầu tòa án hủy bỏ, trong đó, số phán quyết bị hủy là 34%. Trung bình cứ
ba đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài thì một phán quyết bị hủy. Xem xét kỹ
hơn, luật sư Dương phân tích, trong giai đoạn 1993 - 2010, khi thực hiện Pháp lệnh

2

Theo bài viết trên trang web của Tòa án nhân dân tối cao: />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=6181496

13


Trọng tài, tỷ lệ phán quyết bị hủy là 25%, giai đoạn 2011 - 2013 thực hiện theo Luật
Trọng tài thương mại thì tỷ lệ hủy lên tới 36%. 3
Việc ban hành Luật Trọng tài thương mại được xem là tiến bộ, hạn chế tình
trạng hủy phán quyết trọng tài của tòa án, nhưng vì sao tỷ lệ hủy này vẫn tăng lên?
Nguyên nhân đầu tiên là việc thiếu một Nghị quyết hướng dẫn Luật của Tòa án nhân

dân tối cao dù Luật đã có hiệu lực 3 năm. Nguyên nhân này dẫn đến tình trạng xét xử
thiếu thống nhất giữa các tòa án, trong khi các Thẩm phán lại có xu hướng áp dụng
Bộ luật Tố tụng dân sự khi xem xét đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết.
Điều 68 Luật TTTM đã nêu ra các căn cứ để hủy phán quyết trọng tài. Tuy
nhiên, việc xác định cụ thể các căn cứ trên thực tiễn khá phức tạp. Đơn cử, Luật quy
định phán quyết trọng tài bị hủy nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài (điểm a
khoản 2 Điều 68). Nhưng nhiều trường hợp, dù đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, nhưng sau đó đương sự lại viện dẫn nhiều lý do để cho rằng, thỏa
thuận trọng tài không tồn tại. Như trường hợp ký hợp đồng và thỏa thuận qua trung
gian, đến khi có tranh chấp, một bên đương sự cho rằng mình không ký thỏa thuận
lựa chọn trọng tài. Bên cạnh đó, các lý do hủy quyết định trọng tài thường ở dạng
“trừu tượng”, không rõ ràng cụ thể nên mới xảy ra tình trạng một bên yêu cầu Tòa án
can thiệp để làm chậm việc thi hành quyết định trọng tài vì trong khi xem xét hủy
phán quyết trọng tài thì phán quyết này không thể được thi hành (khoản 1, Điều 66
Luật TTTM).
Theo em, để khắc phục tình trạng nêu trên, trước tiên cần có một văn bản
hướng dẫn thi hành Luật TTTM của Tòa án nhân dân tối cao để nâng cao sự thống
nhất trong việc xét xử giữa các Tòa án, tránh tình trạng các Thẩm phán thường có xu
hướng áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự khi xem xét đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết.
Tiếp theo, để đối phó với nguy cơ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài,
nên chăng cần có những cơ chế hay chế tài thích hợp, ví dụ như buộc bên “lạm dụng”
quyền yêu cầu Tòa án phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc lạm dụng này. Cụ
thể, có thể buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm thi hành
phán quyết nếu họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Nếu làm được
việc này, sẽ giảm được những yêu cầu thiếu cơ sở và do đó sẽ tăng được hiệu quả của
trọng tài.
3

Theo báo Đời sống và pháp luật.


14


Trên đây là một số thực tiễn và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện ba trong
số những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương
mại. Bên cạnh đó, để nâng cao sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài
thương mại không chỉ với ba quy định trên mà là với tất cả các quy định còn lại trong
Luật TTTM 2010, cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: phải đảm bảo tính
độc lập của trọng tài thương mại và Tòa án trong giải quyết tranh chấp; phát huy
những ưu điểm, thành công, sửa đổi, bổ sung những nhược điểm, bất cập của các quy
định hiện hành; tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, của Trọng tài viên, Thẩm
phán, của các đương sự có tranh chấp; tham khảo kinh nghiệm Tòa án hỗ trợ trọng tài
thương mại của các nước khác trên thế giới. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài nói chung và Luật TTTM 2010 nói
riêng trong cộng đồng các doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan. Đặc biệt, giới
luật gia, luật sư cũng nên nghiên cứu kỹ và tư vấn cho doanh nghiệp mỗi khi doanh
nghiệp có tranh chấp liên quan đến cơ quan tài phán, để hoạt động hỗ trợ của Tòa án
với trọng tài thương mại được hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại được quy định
trong Luật TTTM 2010 đã khắc phục những thiếu sót, bất cập của những văn bản
pháp luật trước đó. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa cơ chế hỗ trợ của Toà án trong
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, khắc phục được những bất cập còn tồn tại,
nhà làm luật cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định theo theo hướng hoàn thiện
hơn, góp phần làm cho hoạt động trọng tài được hiệu quả, thu hút sự quan tâm của
các doanh nghiệp, khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng
tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án, đáp ứng được nhu cầu của các
doanh nghiệp trong tranh chấp kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết Tý
(chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. Giáo dục,
15


2008.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (thuật ngữ luật
kinh tế), Nxb. CAND, Hà Nội, 2000.
4. Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp thương
mại, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2007.
5. Trung tâm thương mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trọng tài
và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài
thương mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005.
7. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
8. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
9. Một số trang web:
/>.

16


17



×