Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

HK dân sự 2 được 8 điểm năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.27 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................................1
MỞ ĐẦU.................................................................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................................2
I. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.....2
1. Khái niệm....................................................................................................2
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:......2
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân...................3
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp
luật của cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.. .4
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp
luật của cá nhân từ dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự .....7
2.1. Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường.........................................................7
a. Đối với những người dưới 15 tuổi..........................................................7
b. Những người bị mất năng lực hành vi dân sự......................................10
2.2. Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường...........................................11
2.3. Trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm bồi thường thiệt hại........14
a. Bồi thường thiệt hại cho người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian nhà
trường quản lý:.........................................................................................14
b. Bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý........................15
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp
luật của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây ra...................................18
III. Ý nghĩa của vấn đề xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.............................................................20
IV. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân..........................21
KẾT LUẬN...........................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................22
1




MỞ ĐẦU
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bản thân mình là một
quyền cơ bản của công dân. Qua sự bồi thường thiệt hại sẽ bù đắp được những
mất mát, khắc phục hậu quả và giảm đi nỗi đau về tinh thần của người bị thiệt hại.
Đồng thời thấy được sự cần thiết của những quy định của pháp luật đối với việc
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Hiện nay, quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi sai trái tuy đã được luật hóa tại Bộ
luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ
Điều 604 đến Điều 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản pháp luật dưới
BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người
thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan
giải khi tiếp cận. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Năng lực chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do kiến thức hiểu biết còn hạn chế và cách trình bày còn nhiều thiếu sót
nên bài làm không tránh khỏi sai lầm nhất định. Rất mong nhận được sự đóng
góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý được phát sinh dưa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ
thể có hành vi gây ra thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Cũng như các quan hệ pháp luật khác, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là một dạng quan hệ pháp luật mà trong đó chủ thể trong quan hệ vì hành vi trái
pháp luật của mình gây ra thiệt hại, có lỗi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe

thân thể, quyền lợi ích hợp pháp của người khác mà chủ thể gây thiệt hại phải
chịu trách nhiệm pháp lý bất lợi. Do đó có thể nói bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là một dạng trách nhiệm pháp lý bất lợi đối với chủ thể có lỗi gây thiệt hại
2


trong quan hệ pháp luật dân sự ngoài hợp đồng, và trách nhiệm đó sẽ thỏa mãn
các dấu hiệu phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng sau đây:
Thứ nhất, phải có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là các tổn thất được tính thành
tiền, bao gồm những mất mát hư hỏng, những hư hại về tài sản, thu nhập thực tế
bị mất, chi phí ngăn chặn khắc phục những hậu quả xấu về tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phẩm, uy tín do hành vi có lỗi gây thiệt hại. Thiệt hại là căn cứ
quan trọng để xác định mức độ bồi thường thiệt hại và là một trong những điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thiệt hại
trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm thiệt hại về vật chất
và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Thứ hai, có lỗi của người gây thiệt hại: Lỗi trong quan hệ đền bù thiệt hại
ngoài hợp đồng được coi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, về nguyên tắc thì chủ thể gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm bồi thường cả khi có lỗi cố ý hay vô ý.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quar giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp
luật: Trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp
luật được coi là nguyên nhân chính, trực tiếp gây hậu quả, do đó thiệt hại xảy ra
phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Như vậy, thiệt hại do hành vi trái
pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Không những thế thiệt hại thực tế còn là cơ sở pháp lý để xác định mức độ
bồi thường thiệt hại. Do đó, có thể nói trách nhiệm bồi thường thiệt hại chính là
nghĩa vụ pháp lý bất lợi đối với người gây thiệt hại.
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Hành vi gây thiệt hại có thể thực hiện bởi bất cứ chủ thể nào. Tuy nhiên,

không phải chủ thể nào gây thiệt hại cũng có khả năng để thực hiện bồi thường.
BLDS năm 2005 quy định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường hợp, tình
huống cụ thể. Có trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do tài sản
gây ra, có trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do hành vi của
con người gây ra, có trường hợp của pháp nhân, người của cơ quan nhà nước gây
thiệt hại…BLDS năm 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của cá nhân, khôg quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
các chủ thể khác. Do vậy, có thể hiểu mặc nhiên các chủ thể khác gây thiệt hại sẽ
3


được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 606, BLDS
năm 2005 quy định :
“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ
thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài
sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của
Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được
giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ
tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình;
nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.
Điều 606 BLDS năm 2005 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phụ thuộc vào thiệt hại phụ thuộc vào yếu tố độ tuổi và sự phát triển

nhận thức trí tuệ của cá nhân khi gây thiệt hại cho nguời khác ở ba mức độ khác
nhau. Theo đó chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm
pháp luật của cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ gây ra.
Điều 17 tới Điều 21 BLDS năm 2005 quy định, mức độ năng lực hành vi
dân sự của cá nhân gồm hai đối tượng là “người thành niên và người chưa
thành niên” vì vậy năng lực hành vi của hai đối tượng này cũng được quy định
từ Điều 17 đến Điều 21 BLDS 2005 khác nhau, cụ thể: “người từ đủ mười tám
tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa
thành niên”. Pháp luật quy định người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi
trở lên, không bị bệnh tâm thần, không mắc các bệnh khác dẫn đến không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, họ là người có đầy đủ năng lực hành
4


vi dân sự, cũng đồng thời có đầy đủ năng lực tố tụng dân sự trước Tòa án, vì vậy
cá nhân này phải chịu “trách nhiệm” về mọi hành vi của mình trước pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 606 BLDS 2005: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường” thì cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên khi gây
thiệt hại cho người khác phải tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của
mình cho thiệt hại mà họ gây ra, không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của bản
thân người này.
Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam hiện nay, những cá nhân có đủ năng lực hành
vi dân sự và tố tụng dân sự, có một phần không nhỏ còn đang theo học tại các cấp
đào tạo nghề, cao đẳng, đại học và toàn bộ tiền ăn, học, ở và các chi phí khác
phục vụ cho việc học tập đều do gia đình chu cấp. Những người ở độ tuổi từ đủ
mười tám tưởi trở lên, còn đi học chưa có việc làm và không có thu nhập, khi họ
có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác, thì theo nguyên tắc thiệt
hại phải bồi thường toàn bộ, kịp thời sẽ thật khó thực hiện được. Nếu không thực

hiện được thì lợi ích của người bị thiệt hại còn tiếp tục bị vi phạm do người gây
thiệt hại không có tài sản để bồi thường. Thực trạng này đã và đang tồn tại ở nước
ta mà hiện chưa có bất kì một biện pháp nào khắc phục được.
Mặt khác, người đã thành niên còn được hiểu bao gồm cả những người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại điều 23 BLDS 2005. Vì vậy,
vấn đề đặt ra ở đây là: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các
cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự gây ra như thế nào? Điều 606 BLDS
2005 không có quy định nào liên quan đến nhóm chủ thể này. Người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng bị nghiện ma túy hoặc
nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Tòa án có
thể ra quyết định tuyên bố một người thuộc diện này là người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, của
cơ quan hoặc tổ chức hữu quan. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của
người này phải có sự đồng ý của người đại diện theo quy định pháp luật do Tòa
án chỉ định. Quy định này nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự khi họ tham
gia vào quan hệ giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản, nhưng không phải là
căn cứ để loại trừ trách nhiệm dân sự khi họ có hành vi gây thiệt hại cho người
khác. Bởi vì khi tham gia giao dịch dân sự thì chủ thể tự mình tham gia theo ý
chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt và có ý nghĩa thực hiện các quyền và nghĩa vụ
5


dân sự liên quan đến tài sản của mình. Nếu người đó được xác định là nghiện
ma túy hoặc các các chất kích thích khác theo một bản án tuyên bố người đó bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự có hiệu lực pháp luật thì không làm chủ được
hành vi của mình khi tham gia vào những giao dịch dân sự dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình, của bản thân nên việc định đoạt những giao dịch liên quan đến
tài sản của người đó sẽ bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Nhưng những
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do các nguyên nhân được quy định tại
Điều 23 BLDS không đồng thời là căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường thiệt

hại cho người đó, khi người đó có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người
khác. Bởi vậy, về nguyên tắc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự “vẫn
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại” cho người khác do hành vi trái pháp
luật của mình.
Theo quy định tại mục I phần 3.1 Nghị quyết 03 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người đã thành niên có
hành vi gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ
thiệt hại bằng tài sản của mình và có tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa án trừ khi
họ mất năng lực hành vi dân sự.
Ví dụ: X 19 tuổi đi xe máy trên đường. Do vượt đèn đỏ nên X đã đâm vào xe
Y làm Y ngã và bị thương. Trong trường hợp này do X đã thành niên nên X có khả
năng nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái pháp luật. Và khi X thực
hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho Y thì X phải tự chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho Y. 2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân từ dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực
hành vi dân sự gây ra.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm
pháp luật của cá nhân từ dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân
sự gây ra
2.1. Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường.
Khoản 2 Điều 606 BLDS quy định: “ Người chưa thành niên dưới mười lăm
tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản
của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài
6


sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy
định tại Điều 621 của bộ luật này.”
Như vậy, đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người từ dưới

15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thì cha mẹ của họ có trách
nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ. Trong trường hợp này, người gây ra
thiệt hại trực tiếp và chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khác nhau.
Những người ở độ tuổi này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự và không
thể tự mình có khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Vì vậy, việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ở độ tuổi này tại tòa án phải do người
đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
a. Đối với những người dưới 15 tuổi.
Theo quy định tại Điều 19, Điều 20 BLDS 2005 về năng lực chủ thể của cá
nhân thì điều kiện để một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân
đó phải thỏa mãn hai điều kiện là: “từ 18 tuổi trở lên và yếu tố khả năng nhận
thức”. Hai yếu tố này đã giúp cho cá nhân biết suy nghĩ, suy xét về mọi hiện
tượng, sự việc trong xã hội, nhận thức đựơc hành vi, hậu quả của hành vi đó trước
khi thực hiện và chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình. Điều 20 của BLDS
quy định, người dưới 15 tuổi bao gồm hai nhóm:
- Cá nhân dưới 6 tuổi không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình
được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự
mình xác lập giao dịch dân sự và họ chưa đủ lý trí để nhận biết những hành vi của
mình và hậu quả của những hành vi đó. Mọi giao dịch của họ đều phải được
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Như vậy, cá nhân
không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì cha, mẹ là
những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách bị đơn dân sự trước Tòa án.
- Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi
dân sự một phần. Những người thuộc đối tượng này khả năng nhận thức của họ
đang hoàn thiện dần nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật
quy định. Đó là những giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Những giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt và phù hợp với lứa tuổi tuy pháp luật không quy định rõ đó là
7



những giao dịch dân sự nào nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị
nhỏ phục vụ cho nhu cầu vui chơi, học tập…Ngoài ra, những giao dịch khác khi
họ xác lập, thực hiện phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Sỡ dĩ pháp
luật lại quy định như vậy là do những người trong độ tuổi này với khả năng nhận
thức hiện tại của họ thì khi họ thường hành động thiếu cân nhắc, gây thiệt hại
nghiêm trọng cho bản thân họ, tài sản của họ hoặc cho người khác trong xã hội.
Hơn nữa, do nhận thức chưa chín chắn nên họ thường bị lôi kéo, dụ dỗ, kích động
bởi những người xung quanh nhất là ở môi trường không lành mạnh.
Bên cạnh BLDS năm 2005, thì Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
cũng quy định:
“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của BLDS”
Ngoài ra, Điều 17 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 12/8/1991 cũng
quy định: “cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
dân sự về những thiệt hại do hành vi của đứa trẻ mình nuôi dạy gây ra”. Như
vậy, BLDS 2005 khi quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất coi trọng
trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của con từ dưới 15 tuổi gây ra. Khi những người con gây thiệt hại trong
độ tuổi này gây thiệt hại thì cha mẹ là bị đơn dân sự, có nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại cho con. Tuy nhiên, luật cũng quy định thêm trường hợp nếu tài sản của cha
mẹ không đủ để bồi thường thiệt hại mà con dưới 15 tuổi đó có tài sản riêng thì
lấy tài sản đó của người con để bồi thường phần còn thiếu. Người con trong độ
tuổi chưa thành niên gây thiệt hại không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại
mà trách nhiệm đó thuộc về cha mẹ. Trách nhiệm của cha mẹ là trách nhiệm pháp
lý, không cần điều kiện lỗi của cha mẹ trong việc quản lý giám sát hành vi của
con mình. Quy định này có ý nghĩa không những về mặt lí luận, mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn, nhằm bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
gây thiệt hại.

Như vậy, theo tinh thần của điều 606 BLDS 2005 quy định về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân thì không phải con dưới 15 tuổi là
chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm phải thực hiện mà trách nhiệm bồi thường thiệt
hại luôn luôn trực tiếp thuộc về cha mẹ. Trong quan hệ bồi thường thiệt hại thì
cha mẹ của người dưới 15 tuổi có trách nhiệm bồi thường, còn người con trực tiếp
8


gây thiệt hại lại không phải là chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
này. Việc lấy tài sản của người con dưới 15 tuổi trực tiếp gây thiệt hại để khắc
phục cho phần còn thiếu là nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị gây thiệt hại theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại phải toàn bộ và kịp
thời. Cha mẹ với tư cách là người quản lý tài sản của con chưa thành niên dùng
tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu không có nghĩa là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được chuyển sang cho con, đồng thời cũng không làm chấm dứt
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ. Dù cha mẹ có dùng tài sản của con
để bồi thường cho phần còn thiếu, thì cha mẹ vẫn là chủ thể có trách nhiệm bồi
thường, trong trường hợp này cũng không có tư cách là thực hiện nghĩa vụ bổ
sung. Vì nghĩa vụ bổ sung là nghĩa vụ của một người phải thực hiện nghĩa vụ bổ
sung bằng tài sản của mình với tư cách là người thực hiện nghĩa vụ bổ sung trong
trường hợp người có nghĩa vụ chính không thực hiện không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, đầy đủ nghĩa vụ với bên có quyền khi đến hạn thực hiện nghĩa
vụ. Nhưng trong trường hợp theo quy định tại Điều 606 BLDS quy định về năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân không thể hiểu là người con
dưới 15 tuổi trực tiếp gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bổ sung trong trường
hợp cha, mẹ không có hoặc không đủ tài sản để bồi thường cho người bị thiệt
hại. Bởi vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn thuộc về cha, mẹ mà không
thuộc về người con. Giả sử nếu người con không có tài sản riêng để thực hiện
nghĩa vụ cho phần còn thiếu đó thì trách nhiệm pháp lý vẫn luôn thuộc về cha mẹ.
Ví dụ: Anh X và chị Y có con là Z mới 11 tuổi, một hôm Z sang nhà bạn chơi

chẳng may làm vỡ chiếc ti vi của nhà bạn, thì anh X và chị Y có nghĩa vụ bồi
thường giá trị cái ti vi đó cho nhà bạn của con mình.
b. Những người bị mất năng lực hành vi dân sự.
Những người bị mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật
mặc dù có thể là những người đã thành niên hoặc những người chưa thành niên,
nhưng họ không thỏa mãn yếu tố nhận thức trí lực cấu thành nên năng lực hành vi
dân sự đầy đủ do họ bị tâm thần hoặc các bệnh khác mà bộ não phát triển không
bình thường nên không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình như: người
thiểu năng trí tuệ, người bị thần kinh nặng, bị điên…Trên cơ sở kết luận của các
tổ chức có thẩm quyền, và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan,
Tòa án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự theo những
9


trình tự, thủ tục luật định được quy định tại Điều 22 BLDS 2005. Mọi giao dịch
dân sự của những người này do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc
đồng ý. Vì vậy, những người mất năng lực hành vi dân sự và những người dưới
15 tuổi đều có một điểm chung là khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì họ
đều không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người khác.
Mặt khác, bản thân những người này không có hoặc chưa có khả năng lao
động nên đa số họ không có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho
người bị thiệt hại. Và khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 đã quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại chủ yếu thuộc về cha mẹ là những người đại diện đương nhiên cho
con chưa thành niên và mất năng lực hành vi dân sự sẽ có tư cách bị đơn dân sự
trước Tòa án. Điều này đươc cụ thể hóa tại tiểu mục I mục 3.1 nghị quyết 03/2006
của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Trong trường hợp quy định tại
đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân
sự”.
Ví dụ: X bị tâm thần nặng từ nhỏ. Một lần phát bệnh, X đã cầm gạch ném
vào đầu người hàng xóm là Y. Y phải đi bệnh viện và chữa trị hết 5 triệu đồng.

Do X bị tâm thần nặng nên được xác định là mất năng lực hành vi dân sự. Cha
mẹ của X sẽ là người bồi thường thiệt hại cho Y và là bị đơn dân sự trước tòa.
Trong tình huống này Y có quyền yêu cầu cha mẹ của X phải bồi thường cho
mình số tiền đã bỏ ra để chữa trị, ngoài ra Y còn có thể yêu cầu cha mẹ X phải
bồi thường một khoản thu nhập thực tế bị mất do phải nghỉ việc và một khoản tiền
bù đắp tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.
2.2. Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người
giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người
được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người
giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh
được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để
bồi thường”. Vấn đề này đặt ra trong trường hợp người dưới 15 tuổi và người mất
năng lực hành vi dân sự không còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc

10


còn cha mẹ nhưng cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự thì ai sẽ chịu trách nhiệm bồi thường?
Theo Điều 58 BLDS 2005, “giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật
quy định hoặc được cử đẻ thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự”. Việc đặt ra
quy chế người giám hộ nhằm mục đích bảo vệ pháp lý cho người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Địa vị pháp lý của người giám hộ hoàn
toàn khác biệt so với địa vị pháp lý người là cha, mẹ của người chưa thành niên
khác. Người giám hộ thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ
cũng phải chịu những trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện việc giám hộ của

mình, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
người được giám hộ gây ra. Họ sẽ có tư cách bị đơn dân sự thay cho người được
giám hộ trước Tòa án.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005 thì khi người được giám hộ
gây thiệt hại cho người khác, người giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của
người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Trong trường hợp người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của
người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Nếu
người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài
sản của mình để bồi thường. Đặc biệt trong trường hợp người chưa thành niên
không còn cha mẹ hoặc không có xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ mất năng
lực hành vi dân sự mà cũng không có người giám hộ hoặc có người giám hộ
nhưng người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ, nếu người chưa
thành niên gây thiệt hại thì người bị thiệt hại không được bồi thường và trong
trường hợp này được xem là trường hợp người bị thiệt hại chịu rủi ro vì yêu cầu
bồi thường thiệt hại không thể thực hiện được.
a. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được
giám hộ là dưới 15 tuổi gây ra.
Trong trường hợp con dưới 15 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trước tiên là cha mẹ. Trong trường hợp cha
mẹ đều không còn hoặc cha mẹ còn sống nhưng không đủ điều kiện làm người
11


giám hộ cho con thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trước hết là
trách nhiệm của anh cả hoặc chị cả đã thành niên có đủ điều kiện phải làm người
giám hộ của em chưa thành niên. Nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì người tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người
giám hộ. Nếu không có anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều

kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại có đủ điều kiện
phải là người giám hộ - Điều 62 BLDS 2005. Vậy theo khoản 3 Điều 606 BLDS
2005 thì anh cả hoặc chị cả hoặc ông bà nội, ngoại là người giám hộ thì họ người
được quyền dùng tài sản riêng của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản hoặc
không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường thiệt hại bổ
sung bằng tài sản của mình nếu người giám hộ có lỗi khi thực hiện việc giám hộ.
Khi đó nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám
hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường khi người được giám hộ
gây thiệt hại.
Ví dụ: Do bố mẹ mất sớm nên X (13 tuổi) ở với ông nội. Một lần đi đá bóng
chẳng may X đá gẫy tay bạn và làm bạn phải đi bó bột ở bệnh viện. Trong tình
huống này do cha, mẹ X không còn nên ông nội của X có đủ điều kiện để làm
người giám hộ cho cháu mình nên trong trường hợp này với tư cách là người
giám hộ của X thì ông nội X được dùng tài sản của X để bồi thường thiệt hại cho
bạn của X. Nếu X không có tài sản hoặc không đủ tài sản thì ông nội X phải bồi
thường bằng tài sản của mình.
b. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được
giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
Người mất năng lực hành vi dân sự đang do cha mẹ chăm sóc, quản lý, giáo
dục mà gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Trong
trường hợp họ được giám hộ theo quy định tại Điều 62 BLDS 2005 thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
- Người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ hoặc có chồng, thì người đó
có đủ điều kiện là người giám hộ được lấy tài sản riêng của người mất năng lực
hành vi dân sự để bồi thường. Nếu tài sản riêng của người được giám hộ không
đủ thì lấy tài sản chung của vợ chồng đền bù, sau đó mới lấy tài sản riêng của vợ

12



hoặc chồng làm người giám hộ để đền bù tiếp phần còn thiếu nếu có lỗi trong
việc quản lý người được giám hộ.
- Người được giám hộ là cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một
người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm
người giám hộ thì người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám
hộ. Nếu người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ. Nếu
người con cả không đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo đã
thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ. Trong trường hợp này, người
giám hộ được lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu tài
sản cha, mẹ không đủ thì người giám hộ phải lấy tài sản riêng của mình để bồi
thường cho phần còn thiếu nếu có lỗi trong việc quản lý người được giám hộ.
- Người đã thành niên bị mất năng lực hành vi đã có vợ, chồng, con nhưng vợ,
chồng, con không có điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ, có đủ điều kiện phải
là người giám hộ. Trong trường hợp như vậy, cha, mẹ có quyền lấy tài sản riêng của
người được giám hộ để bồi thường, chỉ khi tài sản riêng của người được giám hộ và
tài sản chung của vợ chồng người được giám hộ không đủ thì cha mẹ mới phải bồi
thường bằng tài sản riêng của mình nếu có lỗi trong việc quản lý người giám hộ.
Ví dụ: X và Y lấy nhau được một thời gian thì X bị tai nạn giao thông làm
chấn thương sọ não và bị tâm thần. Một hôm X vào nhà hàng xóm đập hỏng cái
xe máy của người ta. Trong tình huống này X đã lấy vợ và Y có đủ điều kiện trở
thành người giám hộ cho chồng mình. Vì vậy, trong trường hợp X gây thiệt hại
thì Y có quyền lấy tài sản của X để bồi thường thiệt hại. Nếu tài sản của X không
đủ để bồi thường thì Y có quyền lấy tài sản của vợ chồng để bồi thường.
2.3. Trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mặc dù luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ và
người giám hộ, nhưng trong những trường hợp người dưới 15 tuổi và những
người mất năng lực hành vi dân sự nếu gây thiệt hại cho người khác trong thời
gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý theo quy định tại Điều

621 BLDS 2005 thì:
1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại
thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
13


2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác
phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu
trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong
quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất
năng lực hình vi dân sự phải bồi thường.
Từ đây có thể chia ra thành các trường hợp:
a. Bồi thường thiệt hại cho người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian nhà
trường quản lý:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2005, thì người dưới 15 tuổi trong
thời gian tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Như vậy, nhà trường có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp học sinh
đang trong thời gian đang học tại trường gây thiệt hại cho người khác. Trách nhiệm
của nhà trường được xác định đối với những thiệt hại do học sinh đang trong thời
gian học tại trường gây thiệt hại. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà
trường trong việc quản lý học sinh đang học trong trường phổ thông cơ sở. Nhà
trường có nghĩa vụ quản lý học sinh trong thời gian học tại trường theo thời khóa
biểu học văn hóa chính khóa, ngoại khóa hoặc lao động, vui chơi, giải trí do nhà
trường tổ chức mà học sinh gây thiệt hại cho người khác thì nhà trường phải bồi
thường.
Ví dụ: X là học sinh lớp 4 trường tiểu học Y. Một hôm lớp X được nhà trường tổ
chức cho đi du lịch. Tại địa điểm du lịch thầy giáo để cho X và các bạn được tự do
đi thăm quan di tích và mua sắm đồ lưu niệm. Chẳng may X làm vỡ cái bình sứ ở

cửa hàng lưu niệm. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cửa hàng thuộc
về trường tiểu học Y. Bởi vì, X gây thiệt hại cho người khác trong thời gian X chịu sự
quản lý của nhà trường. Nhà trường đã có lỗi trong việc quản lý dẫn đến X đã có
hành vi gây thiệt hại cho người khác.
b. Bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong
thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý.
Một người bị mất năng lực hành vi dân sự như đã phân tích ở trên là những
người đã có năng lực hành vi dân sự nhưng bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
14


mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và đã có kết luận của cơ
quan chuyên môn, đang được điều trị tại một bệnh viện hoặc đang được một tổ
chức có chuyên môn, nghiệp vụ trực tiếp quản lý phải bồi thường thiệt hại. Quy
định này có ý nghĩa không những về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa trên thực tế
của đời sống xã hội. Nó ràng buộc trách nhiệm của bệnh viện, tổ chức xã hội phải
tăng cường công tác quản lý người bị mất năng lực hành vi dân sự. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của chủ thể quản lý người bị mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại là một trách nhiệm pháp lý phụ thuộc vào yếu tố lỗi của chủ thể quản lý.
Nếu bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý
thì cha mẹ, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại. Ngược lại với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ,
người giám hộ cũng là trách nhiệm pháp lý nhưng không phụ thuộc điều kiện lỗi
của cha mẹ trong việc quản lý, giám sát hành vi của con mình khi chúng bị mất
năng lực hành vi dân sự. Họ luôn có trách nhiệm bồi thường cả khi không có lỗi
trong việc quản lý, giám sát con bị mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại.
Ví dụ: X là bệnh nhân bị tâm thần nặng trong bệnh viện tâm thần Y. Một lần
do bác sỹ quản lý không chú ý X đã chạy ra khỏi phòng và nhặt được dụng cụ
phẫu thuật là con dao của bệnh viện. Cùng lúc đó lại gặp Z, một người nhà đi
thăm bệnh nhân. Trong lúc lên cơn phát bệnh X đã dùng dao đâm vào bụng Z. Do

được cấp cứu kịp thời nên Z không chết nhưng sức khỏe của Z bị ảnh hưởng. X là
người mất năng lực hành vi dân sự. Thời gian X thực hiện hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho sức khỏe của Z là trong thời gian bệnh viện tâm thần Y quản lý.
Như vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 621 BLDS 2005 thì bệnh viện tâm thần Y có
lỗi trong việc quản lý bệnh nhân của mình nên bệnh viện Y phải chịu bồi thường
thiệt hại cho Z.
c. Vấn đề loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà trường, bệnh
viện, tổ chức khi người dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
trong thời gian được quản lý.
Khi người dưới mười lăm tuổi trong thời gian chịu sự quản lý của trường học,
người mất năng lực hành vi dân sự đang chịu sự quản lý của bệnh viện, cơ sở
chữa bệnh khác, thì trường học, bệnh viện cũng như các tổ chức này phải có trách
nhiệm quản lý, theo dõi những người mà mình quản lý. Xuất phát từ sự nhận thức

15


còn hạn chế (người dưới 15 tuổi) hoặc không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình (người mất năng lực hành vi dân sự), Điều 621 BLDS quy định:
1. “Người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì
trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác
phải bồi thường thiệt hại xảy ra.”
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 621 BLDS 2005 thì “nếu trường
học, bệnh viên, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý
thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự phải bồi thường”. Quy định này cho thấy, mặc nhiên những người trong
độ tuổi này khi họ gây thiệt hại mà đang chịu sự quản lý của trường học, bệnh
viện tổ chức xã hội thì các tổ chức này phải bồi thường và việc chứng minh

không có lỗi để làm cơ sở cho việc giải thoát khỏi trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho tổ chức đó. Trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về của thể nào là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn trong việc xét xử ở
các cấp Tòa án.
Với những trường hợp người dưới 15 tuổi có hành vi vi phạm pháp luật gây
thiệt hại ngoài giờ học hoặc đang trong thời gian trên đường về nhà, từ nhà đến
trường thì không thuộc nghĩa vụ quản lý của nhà trường. Trong khoảng thời gian
trước hoặc sau mỗi buổi học ở trường mà họ gây thiệt hại thì sẽ là căn cứ để nhà
trường chứng minh không có lỗi trong việc quản lý và trách nhiệm bồi thường
không thuộc về nhà trường mà thuộc về phía cha mẹ của người gây ra thiệt hại.
Ví dụ: X là học sinh lớp 4 trường tiểu học Y. Một hôm khi đang trên đường đến
trường học X nhìn thấy Z là bạn cùng trường vốn hay trêu trọc bắt nạt mình, lúc
đó Z chỉ đi một mình. Tức quá X nhặt lấy viên gạch trên đường ném Z làm Z bị
chảy máu đầu và phải vào bệnh viện chữa trị. Chi phí chữa trị mất 3 triệu đồng.
Hành vi của X do gây thiệt hại trên đường đến trường học nên không thuộc sự
quản lý của nhà trường. Do đó, theo điểm 1 khoản 2 Điều 606 BLDS năm 2005
cha, mẹ X sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Z và là bị đơn dân
sự trước Tòa án. Trường tiểu học Y có căn cứ để chứng minh mình hoàn toàn
không có lỗi trong vụ việc trên nên không phải bồi thường thiệt hại cho Z.
16


- Với người mất năng lực hành vi dân sự đang được bệnh viện, tổ chức khác có
nghĩa vụ quản lý mà theo yêu cầu của những người thân thích, bệnh viện hay tổ
chức có trách nhiệm trực tiếp quản lý đã đồng ý cho người mất năng lực hành vi dân
sự về thăm gia đình và trong khoảng thời gian đó, người mất năng lực hành vi dân
sự gây thiệt hại cho người khác thì bệnh viện, tổ chức quản lý được loại trừ trách
nhiệm bồi thường. Hoặc trong những trường hợp khi không còn căn cứ tuyên bố một
người bi mất năng lực hành vi dân sự và theo yêu cầu của chính người đó hoặc Tòa
án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự mà

ngay tại thời điểm đó, người này đã trực tiếp gây thiệt hại cho người khác thì họ phải
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình.
- Trường hợp do có lỗi cố ý chính người bị thiệt hại mà dẫn đến việc người
dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự vi phạm pháp luật gây ra
thiệt hại cho chính người đó hoặc gây thiệt hại cho chính người thứ ba thì trường
học, bệnh viện, tổ chức khác cho dù đang trong thời gian trực tiếp quản lý những
người trực tiếp gây thiệt hại, cũng không có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại hoặc chịu thiệt hại thuộc về người bị thiệt hại có lỗi cố ý.
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật
của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây ra.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS 2005, cá nhân từ đủ 15 tuổi đến
dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm tự bồi thường thiệt hại bằng chính
tài sản riêng của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ sẽ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của họ. Điều 606 quy định như vậy cũng là phù
hợp với tinh thần Điều 20 BLDS 2005. Luật quy định cá nhân từ đủ 15 tuổi đến
dưới 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ, nhưng khả năng nhận thức
của họ đã phát triển cho nên ngoài các giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hằng ngày, họ còn có thể tự mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự
nếu có tài sản riêng, đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản
riêng đó. Tuy nhiên, nếu người đó có những tài sản có giá trị lớn và đặc biệt như
nhà ở, quyền sử dụng đất thì sự định đoạt các loại tài sản này vẫn cần những người
đại diện theo pháp luật của họ đồng ý.
Tại điều 606 BLDS 2005 quy định độ tuổi là 15 tuổi trở lên nếu có hành vi
gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người khác là căn cứ
vào điều kện thực tế xã hội. Bởi vì, những người trong độ tuổi này nhận thức của
17


họ cũng tương đối trưởng thành và họ đã có khả năng lao động, tạo ra thu nhập.

Theo quy định của bộ luật lao động bổ sung sửa đổi năm 2006 thì họ đã có quyền
tham gia vào hợp đồng lao động trong các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã…với
những công việc phù hợp với nhận thức và sức khỏe của người đó, được hưởng
các khoản tiền lương, tiền thưởng, các khoản phúc lợi khác và là chủ sở hữu của
các khoản thu nhập hợp pháp đó. Theo quy định của bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam năm 2004, thì người từ đủ 15 tuổi đã có năng lực hành vi tố tụng dân sự nên
họ có thể tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, tham gia với tư cách
là nguyên đơn hoặc bị đơn trước tòa. Tuy nhiên, khi giải quyết những tranh chấp
liên quan đến những người ở độ tuổi này trong trường hợp họ là bị đơn dân sự thì
Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của những người đại diện hợp
pháp của những người đó tham gia tố tụng. Với tư cách chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự, thì cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có một phần năng lực
hành vi dân sự nên họ có khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước
pháp luật. Pháp luật đã căn cứ vào những cơ sở này để quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi gây thiệt hại phải
bồi thường bằng tài sản của mình.
Để hiểu rõ hơn, Mục I phần 3.1 Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ngày 08/07/ 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “Trong trường hợp quy
định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự
và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Tuy nhiên, luật cũng quy định thêm trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha,
mẹ thay cho con gây thiệt hại trong trường hợp con không có tài sản hoặc không
đủ tài sản đề bồi thường. Nghĩa vụ này của cha mẹ được hiểu là nghĩa vụ bổ
sung.
Vì luật quy định người chưa thành niên được quyền có người giám hộ đương
nhiên hay giám hộ cử nên người từ đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi cũng có thể có
người giám hộ nếu họ thuộc những trường hợp theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 58 BLDS 2005. Nếu trong trường hợp họ có người giám hộ thì theo quy định
tại khoản 3 Điều 606 BLDS 2005, khi người được giám hộ gây thiệt hại thì người

giám hộ được quyền dùng tài sản của người được giám hộ đê bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
18


thường thì người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc
thực hiện nghĩa vụ của mình mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người
khác.
Ví dụ: X 16 tuổi đã nghỉ học và làm người bán vé số cho công ty xổ số. Một
hôm Y (là bạn xã hội cũ từng có xích mích với X) đến chỗ X bán vé số. Y tỏ ra coi
thường X và có những lời châm trọc X, rồi Y mua 1 tờ vé số và vứt tiền xuống
đất. Do tức quá X đã nhặt cục gạch trên đường ném vào đầu Y. Y đã phải vào
bệnh viện và khâu 4 mũi. Như vậy, trong tình huống này căn cứ vào đoạn 2 khoản
2 Điều 606 BLDS 2005 thì X phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Y. Do X đã
tham gia lao động là bán vé số nên trong trường hợp này X phải phải bồi thường
cho Y bằng tài sản của mình.
III. Ý nghĩa của vấn đề xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật có quy
định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân. Quy định về
năng lực chịu trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là rất cần
thiết. Vì cá nhân gây thiệt hại và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về ai có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tế
quan trọng. Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại do cá nhân là
người đã thành niên, người chưa thành niên hoặc là người mất năng lực hành vi
dân sự khi họ gây thiệt hại là mục đích điều chỉnh của pháp luật, vừa để xác định
rõ chủ thể có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại để quy trách nhiệm cho người
đó, đồng thời là căn cứ xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự; ai là bị đơn
dân sự phải bồi thường trách nhiệm dân sự trước Tòa án trong trường hợp cá nhân
gây thiệt hại cho người khác. Hơn nữa, nó có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của người bị

thiệt hại hoặc nhân thân của người bị thiệt hại đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật.
Người gây thiệt hại có thể là bất cứ ai: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước…
nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có khả năng bồi thường, mặc dù hành
vi gây thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. BLDS chỉ quy định về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân mà không quy định về năng lực
bồi thường của các chủ thể khác. Bởi vì các chủ thể khác đương nhiên được coi là có
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Năng lực chịu trách nhiệm bồi
19


thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luậ hiện hành được quy định tại
Điều 606 BLDS và hướng dẫn chi tiết tại tiểu mục 3 mục I nghị quyết
03/2006/HĐTP – TANDTC ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân
dân tối cao dựa mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản, khả năng bồi thường
thiệt hại của cá nhân và xác định cá nhân gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại theo các mức độ năng lực hành vi dân sự khác
nhau. Pháp luật căn cứ vào những điều kiện về độ tuổi và sự phát triển của trí tuệ,
nhận thức, căn cứ khả năng tạo lập tài sản cảu cá nhân để có cơ sở xác định trong
trường hợp cá nhân khi gây thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được thực hiện với mức độ nào.
IV. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Hiện nay vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra đang
là một vấn đề nổi cộm của xã hội. Xung quanh việc xác định mức độ lỗi và xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, BLDS Việt Nam năm 2005 đã
có nhiều quy định cụ thể về từng trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do hành vi trái pháp luật của cá nhân gây ra. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cụ
thể việc xác định mức độ lỗi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai đang là
một vấn đề nan giải và tương đối khó khăn, bởi lẽ có nhiều trường hợp có thiệt

hại xảy ra nhưng trách nhiệm bồi thường không thuộc về người gây ra thiệt hại
mà thuộc về người giám hộ, đại diện, thuộc về gia đình, nhà trường, bệnh viện tổ
chức ý tế quản lý, chăm sóc, giáo dục người gây thiệt hại trong trường hợp đó là
người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự. Còn một số
trường hợp trách nhiệm bồi thường phát sinh do hành vi gây thiệt hại của người
đại diện của pháp nhân gây ra. Vì thế cho nên trong thời gian gần đây các nhà làm
luật đã và đang không ngừng hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do cá nhân gây ra để từ đó từng bước hoàn thiện những thiếu sót của pháp
luật trong việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân gây ra đồng
thời đảm bảo được công bằng cho xã hội và bảo vệ được lợi ích chính đáng của
người bị thiệt hại.
Các cơ quan chức năng cần tiến hành kiểm tra lại toàn bộ các quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trong các lĩnh vực

20


khác nhau để có thể sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành những quy định mới nhằm
bảo đảm sự thống nhất với các nguyên tắc trong bộ luật dân sự.
Cần đẩy mạnh, gia tăng trách nhiệm quản lý của gia đình, bệnh viện, tổ chức
xã hội…trong việc quản lý trẻ em dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự. Đồng thời gia đình có trách nhiệm giáo dục con trẻ ý thức được hành vi của
mình, cần có trách nhiệm đối với các quyền dân sự gắn với bản thân cũng như các
quyền dân sự của người khác và đối với lợi ích chung của xã hội.
Tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của nhân dân hiểu thêm
vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng qua các phương tiện thông tin đại
chúng, giảng dạy trong nhà trường, cũng như trên các sách báo, internet…
KẾT LUẬN
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một vấn đề mang tính khoa học pháp lý
và thực tiễn; nó có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quy phạm pháp

luật dân sự. Tuy nhiên việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tình hình
hiện tại là một vấn đề khá phức tạp và nan giải; đòi hỏi các nhà làm luật phải giải
quyết như thế nào cho hợp tình hợp lý. Trong đó, việc giải quyết tốt vấn đề xác
định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đóng vai trò
không nhỏ. Vì vậy, hi vọng rằng trong thời gian không xa các nhà nghiên cứu luật
pháp sẽ có thêm nhiều kiến nghị mới nhằm giải quyết vấn đề này nhằm đảm bảo
hơn nữa lợi ích của người bị thiệt hại hoặc nhân thân của người bị thiệt hại, cũng
như đảm bảo được tính ổn định, nghiêm minh của pháp luật và sự tin tưởng vào hệ
thống pháp luật của người dân Việt Nam.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Bộ luật dân sự 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004
Luật hôn nhân và gia đình 2000
Nghị quyết số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng.
6.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vè tài sản, sức khỏe và tính mạng,

NXB Hà Nội, TS. Phùng Trung Tập.
7.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra /
Nguyễn Đức Mai / Toà án nhân dân, 1998,
8.
Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật dân sự : Luận án thạc sĩ luật học / Lê Mai Anh , NXB
Trường đại học Luật Hà Nội, 1997
9.
Pháp luật, áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở
Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện / Đinh Thị Mai
Phương /Tạp chí Luật học Số 3/2002.
10. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Khoá luận tốt nghiệp
Chu Nam Sơn , NXB Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997.

22



×