MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay chúng ta đang
chứng kiến quá trình tự do hoá thương mại mạnh mẽ với việc phá bỏ các rào cản
thương mại, tạo nên một sân chơi chung toàn cầu với luật lệ chung, bình đẳng.
Sở hữu trí tuệ (SHTT) đang trở thành một vấn đề thời sự, thành trung tâm của sự
chú ý, là vấn đề trọng tâm được thảo luận tại các cuộc đàm phán, hội nghị, hội
thảo về quan hệ kinh tế quốc tế, là nội dung không thể thiếu trong các điều ước
quốc tế về hợp tác kinh tế song phương và đa phương. Nhận thức được vai trò
của hệ thống bảo hộ SHTT đối với việc khuyến khích hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo, áp dụng và đổi mới công nghệ, thúc đẩy đầu tư, thương mại... Nhà
nước Việt Nam đã rất coi trọng vấn đề SHTT bằng việc thiết lập được một hệ
thống SHTT có bộ máy tổ chức, quản lý, quy định pháp luật và những bộ phận
hợp thành về cơ bản tương tự như mô hình phổ biến trên thế giới. Hệ thống
SHTT Việt Nam đã thiết lập chế độ bảo hộ đầy đủ các đối tượng SHTT liên
quan đến hoạt động của danh nghiệp trong đó có nhãn hiệu. Nhãn hiệu có vai trò
quan trọng trong cuộc sống hàng ngày liên quan đến sự lựa chọn của người tiêu
dùng. Trong đó, nhãn hiệu nổi tiếng (NHNT) mang theo những thông điệp về
chất lượng, uy tín của hàng hoá, dịch vụ như trên, cần thiết phải có sự bảo hộ
pháp lý để chống lại các hành vi sử dụng nhằm mục đích lợi dụng uy tín, danh
tiếng gắn liền với nhãn hiệu đó. Việc bảo hộ đó không những nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu, người đã đầu tư vào việc nâng
cao chất lượng và giảm giá thành hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu, mà còn bảo
vệ người tiêu dùng khỏi bị nhầm lẫn và lừa dối do mua phải sản phẩm mang
nhãn hiệu giả mạo. Để đáp ứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc
tế đối với hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống bảo hộ quyền SHTT nói
riêng, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Luật SHTT) đã được ban hành nhằm thống
nhất các quy định điều chỉnh chung đối với việc bảo hộ quyền SHTT. Trước vai
trò đặc biệt quan trọng của NHNT đối với sự phát triển kinh tế xã hội thì tìm
hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến bảo hộ NHNT là việc thực sự cần
thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.Với lý do đó, em xin chọn đề tài “Bảo
1
hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005” để
làm rõ vấn đề trên.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ thời cổ đại, được người chăn nuôi gia súc, nhà
buôn, nhà sản xuất khi đó dùng để đánh dấu các đàn gia súc hoặc các đồ vật của
mình. Phát hiện của các nhà khảo cổ hiện đại cho thấy cách đây 3000 năm,
những người thợ thủ công ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các
tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc
đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước
và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử
dụng.
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa kéo theo sự phát triển của hoạt
động thương mại và buôn bán hàng hóa đã khiến cho nhãn hiệu ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế. Việc một hàng hóa có thể được cung
cấp bởi nhiều nhà sản xuất hoặc nhà kinh doanh khác nhau khiến cho người tiêu
dùng bối rối khi lựa chọn, họ cần có một dấu hiệu chỉ dẫn để nhận biết hàng hóa
của từng nhà sản xuất hoặc kinh doanh. Nhãn hiệu chính là dấu hiệu giúp họ
phân biệt được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Khi mới ra đời nhãn hiệu
thường chỉ là một dấu hiệu hoặc ký hiệu mang tính ngẫu nhiên. Dần dần, cùng
với sự phát triển của giao lưu thương mại, nhu cầu cá biệt hóa sản phẩm khiến
cho các nhà sản xuất, kinh doanh ý thức hơn về nhãn hiệu.
Nhãn hiệu theo nghĩa nguyên thủy thì chỉ dùng để đặt tên cho hàng hóa.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển của xã hội, hàng hóa được cung cấp cho
con người không chỉ bó hẹp ở các sản phẩm cụ thể mà còn là các loại hình dịch
vụ được cung cấp đa dạng trên thị trường. Các dịch vụ này cũng cần được đặt
tên để cho phép người tiêu dùng có thể phân biệt giữa các dịch vụ của các công
ty khác nhau cùng cung cấp. Những dấu hiệu này tạo thành nhãn hiệu dịch vụ.
2
Do nhãn hiệu dịch vụ mang bản chất giống hệt nhãn hiệu hàng hóa nên hiện nay
trên thế giới, thuật ngữ “nhãn hiệu” được dùng chung cho cả nhãn hiệu hàng hóa
và nhãn hiệu dịch vụ. Vai trò của nhãn hiệu càng trở nên quan trọng thì khả năng
nhãn hiệu đó bị sao chép, làm giả, thậm chí đánh cắp càng cao. Thực tế này đòi
hỏi phải có một cơ chế hữu hiệu để ghi nhận chính thức và công khai những
người sở hữu nhãn hiệu, từ đó duy trì và củng cố đặc tính phân biệt của nhãn
hiệu, bảo vệ nhà sản xuất, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng.
Hệ thống bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tế đó.
Nhãn hiệu là một trong các đối tượng SHTT đang được các quốc gia bảo
hộ. Nhãn hiệu thuộc về nhánh quyền sở hữu công nghiệp. Khái niệm “sở hữu
công nghiệp” bao gồm các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó, sở
hữu công nghiệp còn bao gồm nhãn hiệu, các chỉ dẫn thương mại và việc bảo hộ
chống cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm nhãn hiệu có thể khác nhau ở từng nước, nhưng nhìn chung,
khái niệm này có sự thống nhất ở nội dung: nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có
thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể với các chủ thể khác trong cùng
lĩnh vực. Nội dung này được thể hiện trong Điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ
một dấu hiệu, hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa dịch vụ của các doanh
nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu”. Điểm khác nhau có chăng giữa khái
niệm nhãn hiệu của các nước chính là ở nội hàm mà khái niệm này đề cập tới.
Dấu hiệu nói chung có thể bao gồm chữ cái, chữ số, từ ngữ, khẩu hiệu, hình ảnh,
màu sắc, mùi vị, âm thanh, hình thức bao bì... nhưng tùy hệ thống pháp luật ở
mỗi quốc gia mà phạm vi của các dấu hiệu này được giới hạn ở những dấu hiệu
nhất định.
Theo định nghĩa của Hiệp hội nhãn hàng thế giới (INTA) thì nhãn hiệu có
thể là từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình ảnh, khẩu hiệu hoặc hình dạng của bao
gói oặc kết hợp của các yếu tố đó phục vụ cho việc xác định và phân biệt một
sản phẩm cụ thể của những chủ thể khác nhau trên thị trường hoặc trong kinh
doanh.
Trong các định nghĩa về nhãn hiệu chúng ta dễ dàng nhận thấy một điểm
chung nổi bật đó là nhãn hiệu có thể là bất kỳ dấu hiệu nào miễn là có khả năng
3
phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Như vậy, về mặt lý
luận, các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng không thể nhìn thấy
được như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu. Việc thừa nhận
dấu hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế, tùy thuộc và điều
kiện thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ cho phép đăng ký các
dấu hiệu được thể hiện dưới dạng đồ họa (nghĩa là có thể nhìn thấy được), một
trong các lý do là bởi chỉ các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được
trong sổ đăng bạ quốc gia và công bố một cách hữu hình trên công báo nhãn
hiệu quốc gia, để công bố công khai với công chúng việc nhãn hiệu đó đã được
xác lập quyền và được Nhà nước bảo hộ. Khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS
quy định “...Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là
các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng
hóa (TLT) cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn thấy được,
không thừa nhận sự bảo hộ đối với nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm
thanh và mùi vị “Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba
chiều (holography) và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn
hiệu mùi”.
1.2. Chức năng của nhãn hiệu
Thông thường, một nhãn hiệu có những chức năng chính là: chức năng
phân biệt, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc, chức năng thông tin về chất lượng và
chức năng quảng cáo. Trên thực tế hai chức năng đầu của nhãn hiệu có tính phụ
thuộc lẫn nhau và cần luôn được xem xét cùng nhau. Hai chức năng sau mang
tính phái sinh, có được khi nhãn hiệu đã có hai chức năng đầu.
Nhãn hiệu ra đời với mục đích để phân biệt hàng hóa của chủ thể này với
hàng hóa của chủ thể khác. Để thực hiện được chức năng này nhãn hiệu cần phải
có khả năng tự phân biệt và khả năng phân biệt với nhãn hiệu của chủ thể khác.
Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu tạo cho nhãn hiệu một ấn tượng tổng thể
tác động vào nhận thức của người tiêu dùng để họ có thể nhận biết, ghi nhớ và
so sánh với các nhãn hiệu khác. Tính chất này có thể thay đổi, tùy thuộc vào
việc sử dụng thực tế nhãn hiệu trên thị trường.
Để người tiêu dùng có thể dùng để phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu
phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Thực ra nhãn hiệu là dấu hiệu để
4
người tiêu dùng tìm được một chủ thể nhất định để tin tưởng, tức là chủ thể sẽ
chịu trách nhiệm về hàng hóa mang nhãn hiệu đó. Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc
liên quan mật thiết với chức năng phân biệt, khi mà nhãn hiệu cho phép người
tiêu dùng phân biệt được sản phẩm mangnhãn hiệu đó với nhãn hàng hóa của
các chủ thể khác đưa ra trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức
năng chỉ dẫn nguồn gốc.
Chức năng thông tin về chất lượng của nhãn hiệu được thể hiện thông qua
việc người tiêu dùng nhận biết chất lượng của sản phẩm qua nhãn hiệu. Chức
năng này có được khi nhãn hiệu đã được sử dụng một thời gian nhất định trên
sản phẩm có chất lượng chiếm được sự tin tưởng của người tiêu dùng.
Chức năng quảng cáo của nhãn hiệu nhằm thúc đẩy việc tiếp thị bán hàng
và tiến hành dịch vụ.
1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Như đã trình bày ở trên, việc sử dụng nhãn hiệu là một nhu cầu khách
quan để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất, kinh doanh cá thể hóa sản phẩm,
dịch vụ nhằm phân biệt với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các chủ thể
khác. Đồng thời nhãn hiệu cũng giúp người tiêu dùng có định hướng khi chọn
lựa sản phẩm, dịch vụ phù hợp.
Đặc tính nổi bật của nhãn hiệu là dùng để phân biệt. Do đó không thể tồn
tại cùng lúc những nhãn hiệu của các chủ thể khác nhau trùng hoặc tương tự
nhau cho cùng sản phẩm, dịch vụ. Để đảm bảo được điều này cần có một cơ chế
nhất định chống lại các hành vi gây nhầm lẫn hoặc có nguy cơ gây nhầm lẫn như
hành vi sao chép, làm giả hàng hóa mang nhãn hiệu. Công cụ để thực hiện
nhiệm vụ này không gì khác hơn chính là hệ thống pháp luật.
Do tính chất đặc biệt của loại tài sản có tên là nhãn hiệu nên quyền đối với
tài sản này cũng không giống quyền đối với các tài sản hữu hình khác, đó là
quyền bị giới hạn về thời gian, không gian, được xác định theo phạm vi bảo hộ,
và có những giới hạn nhất định.
Về thời gian, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có hiệu lực
trong thời hạn ghi trên văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp, thông thường là 10 năm, và có thể gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10
năm.
5
Về không gian, so với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà
trên cơ sở pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp phát sinh. Trong trường
hợp chủ sở hữu nhãn hiệu muốn nhận được sự bảo hộ quyền của mình tại nước
khác, họ cần phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại nước họ mong muốn nhận được sự
bảo hộ hoặc nộp đơn đăng ký quốc tế có chỉ định nước đó (nếu nước định nộp
đơn có tham gia điều ước quốc tế liên quan đến bảo hộ sở hữu công nghiệp nói
chung).
Quyền sở hữu công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt đối, do đó tính lãnh
thổ tuyệt đối của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được thể hiện rõ
trong Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Theo đó, “một đơn đăng
ký nhãn hiệu do công dân của một nước thành viên của Liên minh nộp tại bất cứ
nước nào trong Liên minh cũng không thể bị từ chối–hoặc một đăng ký nhãn
hiệu cũng không thể bị hủy bỏ-với lý do rằng việc nộp đơn, đăng ký, hoặc gia
hạn tại nước xuất xứ không có hiệu lực”.
Với tài sản là nhãn hiệu, quyền này được thể hiện thông qua quyền sử
dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người khác sử dụng và định đoạt
nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Quyền độc
quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ giới hạn đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu
tương tự gây nhầm lẫn cho hàng hóa, dịch vụ cùng loại của người khác vì mục
đích thương mại hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ
được cung cấp bởi chủ sở hữu NHNT. Quyền này không áp dụng đối với hành vi
sử dụng vì mục đích phi thương mại và một số trường hợp hạn chế quyền khác.
Xét về tính lãnh thổ thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là
quyền độc quyền tuyệt đối. Nhưng trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia thì
quyền này lại chỉ mang tính chất tương đối. Vì trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu
công nghiệp nói riêng và SHTT nói chung luôn tồn tại các quyền độc quyền
khác nhau của các chủ sở hữu khác nhau, do đó, quyền độc quyền của chủ sở
hữu nhãn hiệu này phải tôn trọng và đảm bảo quyền độc quyền của chủ thể khác
và của xã hội.
6
1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một tài sản vô hình rất có giá trị trong giao lưu thương mại,
là một đối tượng SHTT dễ bị xâm hại. Nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ những nhà sản xuất, kinh doanh trung thực, bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng, góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể,
từ đó tạo sự ổn định cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Do tầm quan trọng như vậy
của nhãn hiệu nên các nước đều có những cơ chế, chính sách để bảo hộ nhãn
hiệu từ phía Nhà nước.
Với các tài sản hữu hình, chủ sở hữu có thể thực hiện quyền sở hữu của
mình đối với tài sản thông qua việc nắm giữ tài sản, và nhờ đó thậm chí không
cần đến sự công nhận quyền sở hữu của Nhà nước thì tài sản vẫn thuộc quyền sở
hữu của chủ sở hữu. Với tài sản hữu hình, quyền đối với tài sản này rất khác.
Nội dung của quyền này được thể hiện thông qua việc Nhà nước ghi nhận các
loại tài sản vô hình được Nhà nước bảo hộ, cách thức xác lập quyền, nội dung
quyền, các hạn chế quyền và cơ chế bảo vệ quyền.
Xuất phát từ những tính chất đặc thù, riêng có của từng loại đối tượng sở
hữu công nghiệp, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận hai
nguyên tắc xác lập quyền cơ bản, đó là (i) xác lập quyền theo nguyên tắc đăng
ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền và (ii) xác lập quyền theo nguyên tắc tự
động khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Đối với đối tượng sở hữu công nghiệp
cụ thể là nhãn hiệu thì cả hai nguyên tắc này đều được áp dụng. Với nhãn hiệu
không phải là nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên
cơ sở đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nhãn hiệu nổi tiếng,
quyền sở hữu công nghiệp được xác định khi nhãn hiệu thỏa mãn các tiêu chí
đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng được quy định trong luật, không cần thực hiện thủ
tục đăng ký.
Để một dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước bảo
hộ là một nhãn hiệu, dấu hiệu đó cần phải thỏa mãn những tiêu chí nhất định gọi
chung là tiêu chuẩn bảo hộ. Quy định về tiêu chuẩn bảo hộ nhằm đảm bảo một
nhãn hiệu có khả năng tự phân biệt, phân biệt với dấu hiệu khác, không xâm
phạm đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Tùy theo tình hình phát triển kinh
tế, xã hội cũng như quan niệm truyền thống của mỗi quốc gia mà tiêu chuẩn bảo
7
hộ này sẽ khác nhau ở từng nước. Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thể hiện
thông qua quyền độc quyền được Nhà nước ghi nhận, đó là độc quyền sử dụng,
định đoạt, ngăn cấm người khác sử dụng và định đoạt khi không được phép. Một
nguyên tắc đặc thù trong hệ thống pháp luật SHTT nói chung là luôn phải đảm
bảo sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các đối tượng có liên quan trong xã hội. Bảo
hộ nhãn hiệu không chỉ bao gồm các quy định pháp luật để chủ sở hữu thực hiện
các quyền được xác định trong nội dung quyền của chủ sở hữu, mà quan trọng
hơn cả là quy định xử lý các hành vi xâm phạm.
Qua các phân tích ở trên có thể hiểu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu là việc Nhà nước bằng công cụ pháp luật của mình ghi nhận
quyền của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu đồng thời quy định cơ chế xác lập
quyền, nội dung quyền và cơ chế thực thi quyền đối với nhãn hiệu.
Chương 2
BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005
2.1. Khái niệm bảo hộ NHNT
Theo Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 thì “Nhãn hiệu là dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Khái
niệm nhãn hiệu trong Luật SHTT 2005 đã được định nghĩa một cách rất khái
quát, theo đó, nhãn hiệu được định nghĩa theo chức năng-dùng để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Định nghĩa mới về nhãn hiệu
có ba sự thay đổi rõ rệt so với định nghĩa được đưa ra trong BLDS năm 1995.
Tại Điều 785 BLDS năm 1995 nhãn hiệu được định nghĩa: “Nhãn hiệu hàng
hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các
cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ,
hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc”. So với định nghĩa nhãn hiệu trong Bộ luật Dân sự 1995 thì định nghĩa
trong Luật SHTT 2005 đã thay thế từ “nhãn hiệu” cho từ “nhãn hiệu hàng
hóa”, không đưa vào định nghĩa các dấu hiệu cụ thể được bảo hộ dưới danh
nghĩa nhãn hiệu và mở rộng hơn chức năng của nhãn hiệu. Thuật ngữ “nhãn
8
hiệu hàng hóa” sử dụng trong BLDS năm 1995 trong thực tiễn tỏ ra khó tiếp cận
đối với công chúng và dễ gây hiểu lầm là đối tượng này chỉ sử dụng cho hàng
hóa mà không sử dụng cho dịch vụ. Hơn nữa, trong hệ thống pháp luật Việt Nam
còn tồn tại khái niệm “nhãn hàng hóa”–là các tập hợp các thông tin về chức
năng, công dụng, địa điểm sản xuất, chất lượng, hạn sử dụng... của hàng hóa.
Theo Khoản 20 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 thì “Nhãn hiệu nổi tiếng là
nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.
Qua định nghĩa trên, NHNT có các đặc điểm sau:
- NHTN là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi; NHNT là
nhãn hiệu có căn cứ xác lập quyền, có các tiêu chí đánh giá, có cơ chế bảo hộ
riêng, khác so với các nhãn hiệu thông thường.
- NHNT là kết tinh của nhiều yếu tố trong quá trình lâu dài. Ví dụ như: uy
tin, chất lượng sản phẩm, cách phục vụ dịch vụ,…; NHNT là ưu thế kinh doanh
của chủ sở hữu nhãn hiệu.
- NHNT là tài sản vô hình có giá trị rất lớn đối với doanh nghiệp.
Trước hết, bảo hộ là khái niệm dùng đề chỉ hoạt động của Nhà nước trong
việc xác lập và bảo vệ các quan hệ xã hội pháp sinh. Theo quy định tại Hiệp
định TRIPs thì “thuật ngữ bảo hộ bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng
đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ
cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến quyền sở hữu trí tuệ…”. Như vậy, là một
đối tượng của quyền SHTT, bảo hộ NHNT là một bộ phận của bảo hộ quyền
SHTT nói chung. Bảo hộ NHNT không chỉ giới hạn ở việc xác lập mà còn bao
gồm cả việc thực thi quyền đó trên thực tế, cụ thể là việc áp dụng các biện pháp
theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu của chủ nhãn hiệu đồng
thời, ngăn chặn, xử lý các hành vi sử dụng, khai thác trái phép NHNT đó.
2.2. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Đối chiếu với chức năng của nhãn hiệu thì bất kỳ dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau đều có
thể được coi là nhãn hiệu. Điều 15 Hiệp định TRIPS quy định “Bất kỳ một dấu
hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch
vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp
khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ,
9
kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và các tổ hợp các màu
sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký
là nhãn hiệu.... Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký
là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Điều 72 của Luật SHTT năm
2005 quy định nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc.
- Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Điều kiện đầu tiên để một dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu là phải
“nhìn thấy được”. Bằng quy định này luật đã loại bỏ khả năng bảo hộ cho các
dấu hiệu đặc biệt như dấu hiệu mùi, dấu hiệu âm thanh gọi chung là “dấu hiệu
không nhìn thấy được”. Nhãn hiệu để được bảo hộ nhất định phải có khả năng
phân biệt. Khả năng phân biệt chính là yếu tố quan trọng nhất để một dấu hiệu
được coi là nhãn hiệu. Trên thực tế, việc đánh giá tính phân biệt của một nhãn
hiệu là một vấn đề rất phức tạp.
Trước khi Luật SHTT được ban hành, trong Điểm a Khoản 1 Khoản 6
Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 có quy định một yêu cầu đối với nhãn hiệu là
phải “được tạo thành từ một số yếu tố độc đáo...” hoặc “từ nhiều yếu tố kết hợp
thành một tổng thể độc đáo”. Quy định này bộc lộ điểm bất hợp lý là thực tế
nhãn hiệu có chức năng dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể
kinh doanh khác nhau nên bất kỳ dấu hiệu nào miễn là có khả năng phân biệt thì
có thể làm nhãn hiệu không cần quan tâm đến dấu hiệu đó có độc đáo hay
không.
So với các quy định trước đây về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu thì luật
SHTT 2005 đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa khả năng phân biệt của nhãn
hiệu với các dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu. Khả
năng phân biệt của nhãn hiệu làm cho nhãn hiệu thực hiện được chức năng phân
biệt.
10
2.3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu được quy định
tại Điều 73 Luật SHTT năm 2005:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,
quốc huy của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ,
huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ
chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt
hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam,
của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng
nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu
không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức ngày đăng ký các dấu hiệu đó
làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc cố tình lừa dối người tiêu
dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các
đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
2.4. Tiêu chí đánh giá NHNT
Trong các văn bản quốc tế như Công ước Pari, hiệp định TRIPs không
quy định cụ thể về tiêu chí đánh giá NHNT. Việt Nam là một thành viên của hai
công ước trên nên có nghĩa vụ thiệt lập một hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể
các quy định của công ước, hiệp định về mặt lý luận cũng như áp dụng vào thực
tiễn. Với quy định “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết
đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” đã giới hạn phạm vi nổi tiếng của
nhãn hiệu, dẫn tới những hệ quả pháp lý nhất định, nếu một nhãn hiệu nổi tiếng
trên thế giới mà người tiêu dùng Việt Nam không biết đến, thì nhãn hiệu đó sẽ
không được coi là NHNT theo quy định của pháp luật Việt Nam.
11
Như vậy một NHNT muốn được coi nổi tiếng ở Việt Nam thì phải đáp
ứng đầy đủ theo Điều 75 Luật SHTT năm 2005:
“1) Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua
việc mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua
quảng cáo; 2) Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được
lưu hành;
3) Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc
số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp; 4) Thời
gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; 5) Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu; 6) Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu; 7) Số lượng quốc gia công
nhận nhãn hiệu là nổi tiếng; 8) Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử
dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu”.
Đây là tám tiêu chí khi đánh giá một nhãn hiệu có phải là NHNT hay
không, có thể khẳng định đây là bước tiến quan trọng trong việc quy định pháp
luật về NHNT. Tuy nhiên, xem xét các tiêu chí trên, chúng ta có thể thấy nhiều
quy định mang tính định lượng, ví dụ như số lượng các quốc gia, số lượng người
tiêu dùng,… Vấn đề đặt ra ở đây là khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem
xét một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng hay không thì các tổ chức, cá nhân phải
cung cấp số lượng như thế nào để nhãn hiệu được đăng ký, vấn đề này cũng đặt
ra với số lượng người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, còn có sự mâu thuẫn giữa các điều luật với nhau. Cụ thể là
Điểm 6 Điều 75 về số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu so với quy định tại Điểm
20 Điều 4 Luật SHTT năm 2005. Định nghĩa tại Điều 4 chỉ yêu cầu NHNT chỉ
cần người tiêu dùng biết đến rộng rãi trong phạm vi toàn lãnh thổ, trong khi đó
tiêu chí lại bắt buộc nêu số lượng quốc gia công nhận NHNT. Đây là một điểm
còn hạn chế của Luật SHTT năm 2005, vì vậy cần có những sửa đổi, bổ sung
nhất định về vấn đề trên.
Có thể nhận thấy nhãn hiệu nói tiếng khác với nhãn hiệu thông thường ở
danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận công chúng có liên quan thông qua
các hoạt động quảng cáo của nhãn hiệu, thông qua số lượng và doanh số hàng
hoá được bản ra hay dịch vụ cung cấp… Nhãn hiệu nổi tiếng được áp dụng cho
cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Quy định về các trường hợp cụ thể
12
để bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong việc cấp giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu
hay trong việc sử dụng các dấu hiệu có ảnh hưởng đến nhãn hiệu nổi tiếng, cụ
thể:
- Chủ nhân hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực các giấy
chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hoặc đăng kí quốc tế đối với các nhãn hiệu trùng
hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của mình trong 2 trường hợp: Sử
dụng nhãn hiệu đó cho cho các hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự; sử dụng
cho các hàng hoá, dịch vụ không tương tự nhưng gây ra các hậu quả như: có khả
năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ; có khả
năng làm giảm danh tiếng, uy tín, khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng.
- Chủ nhãn hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp chống lại hành vi như: sử dụng dấu hiệu trùng
hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng; sử dụng dấu hiện dưới dạng dịch nghĩa,
phiên âm từ nhãn hiệu đó cho hàng hoá, dịch vụ không cùng loại, không tương
tự vói và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nếu
việc sử dụng đó có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ hoặc
gây ấn tượng sai lệnh về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu với chủ thể
có nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng.
2.4. Căn cứ xác lập quyền và cơ chế bảo hộ NHNT
2.4.1. Căn cứ xác lập quyền
Cũng giống như các quan hệ sở hữu khác, quyền sở hữu công nghiệp đối
với NHNT chỉ phát sinh khi có những căn cứ pháp lý nhất định.
Theo Điểm 1.5 Khoản 1 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành
Nghị định số 103/2006/NĐ-CP thì “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi khiến cho
nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký tại
Cục Sở hữu trí tuệ. Khi sử dụng quyền và giải quyết tranh chấp quyền đối với
nhãn hiệu nổi tiếng, chủ sở hữu nhãn hiệu đó phải chứng minh quyền của mình
bằng các chứng cứ phù hợp quy định tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
Như vậy, xuất phát từ các đặc điểm riêng của NHNT là uy tín, chất lượng,
danh tiếng trên phạm vi thể giới sau một thời gian đăng kí bảo hộ nhất định.
Việc quy định về xác lập quyền theo quy định trên là phù hợp với thực tiễn quốc
13
tế về NHNT. Tiêu chí thực tiễn sử dụng là một tiêu chí quan trọng nhất để đánh
giá một nhãn hiệu có phải là một NHNT. Chính nhờ quá trình sử dụng liên tục
và rộng rãi mà nhãn hiệu mới được nhiều người biết đến. Nếu luật các quốc gia
có quy định việc đăng ký cũng như công nhận của một số cơ quan SHTTlà một
điều kiện để xác lập quyền đối với một NHNT là chưa chính xác. Bởi vì việc
công nhận hoặc đăng ký sẽ tạo ra một nhãn hiệu bất biến, trái với nguyên tắc sử
dụng liên tục tại Khoản 4 Điều 75 Luật SHTT năm 2005 của NHNT.
2.4.2. Cơ chế bảo hộ NHNT
Không giống như các nhãn hiệu thông thường khác, cơ chế bảo hộ NHNT
là cơ chế tự động, không phụ thuộc vào việc đăng ký với các cơ quan Nhà nước
hay không mà dực trên thực tiễn sử dụng. Quy định này của Việt Nam phù hợp
với Hiệp định TRIPs. Tuy nhiên, trong thực tế chủ NHNT vẫn đăng ký bảo hộ
để đảm bảo chắc chắn quyền lợi của mình, đồng thời có căn cứ khi xảy ra tranh
chấp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ có hai cơ quan xem xét tiến
hành công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng, đó là Tòa án và Cục SHTT. Cục
SHTT và Tòa án sẽ xem xét và công nhận một NHNT khi có yêu cầu của tổ
chức, cá nhân theo từng vụ việc cụ thể. Cục SHTT sẽ không nhận đơn đăng kí
cũng như đơn đề nghị công nhận NHNT. Vì vậy, sẽ không tồn tại một đăng bạ
quốc gia nào về NHNT. Khi yêu cầu xem xét một NHNT sẽ diễn ra các trường
hợp sau:
Thứ nhất, khi tổ chức, cá nhân tiến hành nộp đơn đăng kí nhưng bị từ chối
vì nhãn hiệu rơi vào các yếu tố loại trừ hoặc bị từ chối do có dấu hiệu trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác; tổ chức, cá nhân
phải có nghĩa vụ chứng minh thông qua quá trình chứng minh NHNT (Theo quy
định tại Điểm I Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT năm 2005).
Thứ hai, khi các tổ chức, cá nhân yêu cầu hủy bỏ hiệu lực một văn bản
bằng bảo hộ hoặc phản đối việc cấp giấy chứng nhận đăng kí cho một nhãn hiệu
dựa trên cơ sở nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn với NHNT (Theo quy định tại
Điều 96 Luật SHTT năm 2005).
14
Thứ ba, khi các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý vi phạm quyền sở hữu
công nghiệp liên quan đến NHNT (Theo Điểm d Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT
năm 2005).
Thứ tư, khi có các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng (Theo Khoản 1 Điều 130
Luật SHTT năm 2005).
Trên đây là những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ chế
bảo hộ NHNT. Các quy định của Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành
đã phù hợp với quy phạm quốc tế, cụ thể là 6bis của Công ước Pái và phù hợp
với thực tiễn pháp luật quốc tế.
2.5. Thời gian bảo hộ
Về nguyên tắc, thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa là thời hạn của
Giấy chứng nhận đăng ký; theo quy định của pháp luật hiện hành, đó là 10 năm
kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp không hạn chế, mỗi lần gia
hạn là 10 năm (Khoản 6 Điều 93 Luật SHTT năm 2005). Pháp luật Việt Nam
cũng dành cho những nhãn hiệu loại này một ưu đãi đặc biệt: quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn
hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận nhãn hiệu nổi
tiếng. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không
được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu không còn nổi tiêng nữa, hay nói cách
khác là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực
tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ
nhất định (trường hợp này còn gọi là sự lu mờ nhãn hiệu).
2.6 Các quy định về hành vi xâm phạm bảo hộ NHNT
Ngoài việc quy định khái niệm, các tiêu chí đánh giá, thời gian bảo hộ
NHNT, hệ thống pháp luật Việt Nam còn có các quy định khác bảo hộ NHNT ở
nhiều phương diện khác nhau.
Theo Khoản 11 Điều 39 Thông tư 02/2007 hướng dẫn, thi hành Nghị định
103/NĐ-CP quy định: “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đối chứng
là nhãn hiệu nổi tiếng và hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu tuy không trùng,
không tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đó, nhưng việc sử dụng
dấu hiệu làm nhãn hiệu có thể làm cho người tiêu dùng lầm tưởng rằng có tồn
15
tại mối quan hệ giữa hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn
hiệu nổi tiếng, có khả năng thực tế làm suy giảm khả năng phân biệt của nhãn
hiệu nổi tiếng hoặc tổn hại đến uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng”.
Quy định chống lại việc sử dụng trái phép NHNT tại Điểm d Khoản 1
Điều 129 Luật SHTT năm 2005: “Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với
nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu
nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng,
không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng
hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm
lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa
người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng”.
Bên cạnh đó, còn có các phương thức bảo vệ NHNT như quyền tự bảo vệ
của chủ sở hữu NHNT như: biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp
hình sự được quy định chi tiết tại Luật SHTT năm 2005, Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khi có hành vi vi phạm, chủ sở hữu NHNT
có quyền:
- Yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm quyền
sở hữu công nghiệp đối với NHNT.
- Buộc chủ thể chấm dứt hành vi vi phạm; xin lỗi, cải chính công khai;
tiêu hủy hoặc khắc phục hậu quả.
- Khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo đúng quy định của pháp
luật.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
3.1. Thực trạng hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để nâng cao hoạt động
bảo hộ quyền SHTT về NHNT. Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy việc bảo hộ
NHNT còn nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phục. Có thể thấy được thực trạng
bảo hộ NHNT qua hai vụ kiện sau:
16
Vụ án thứ nhất: “vụ xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng, bị thua kiện”
Nội dung vụ án: TAND TP.HCM vừa chấp nhận toàn bộ yêu cầu của phía
nguyên đơn là Interbrand Group (địa chỉ ở Anh) với nội dung như trên. Theo
tòa, phán quyết trên nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho Interbrand Group và
ngăn chặn hành vi xâm phạm trong tương lai. Trước đó, trình bày với tòa,
nguyên đơn cho biết Interbrand Group ra đời vào năm 1974 ở London, nổi tiếng
trong lĩnh vực định giá, sáng tạo và quản trị tài sản thương hiệu. Nguyên đơn
định giá thương hiệu cho hơn 4.000 thương hiệu hàng đầu tại Mỹ, Anh, Úc,
Hong Kong, Nhật Bản... Hằng năm, nguyên đơn còn phối hợp với tạp chí
Business Week phát hành Bảng xếp hạng 100 thương hiệu mạnh nhất thế giới
(The best Global Brand’s).
Năm 2006, nhãn hiệu Interbrand được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng
tại Việt Nam. Công ty bị đơn đã sử dụng nhãn Interbrand trong nhiều sự kiện dù
nguyên đơn nhiều lần yêu cầu chấm dứt việc vi phạm. Vì bị đơn không hợp tác
nên nguyên đơn đành phải kiện ra tòa nhờ phân xử…
Thụ lý vụ án, tòa không hòa giải được vì phía bị đơn vắng mặt không lý
do, cũng không có văn bản giải trình hay có yêu cầu gì gửi tòa. Vì vậy, tòa cho
biết sẽ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị đơn phải chịu trách nhiệm
về việc tự khước từ tham gia tố tụng và không cung cấp chứng cứ cho tòa.
Tại phiên tòa vừa qua, HĐXX nhận định Interbrand Group đã được cấp
giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Interbrand. Đây là nhãn hiệu nổi tiếng trong
lĩnh vực định giá và tư vấn xây dựng thương hiệu. Công ty Cổ phần Thương mại
Quốc tế có nhiều ngành nghề cùng lĩnh vực với nguyên đơn, trong đó có hoạt
động quảng bá, định giá và xây dựng thương hiệu. Việc bị đơn sử dụng tên viết
tắt là Interbrand JSC sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh
doanh, hoạt động kinh doanh, vi phạm nhãn hiệu đã đăng ký của Interbrand
Group…
Vụ án thứ hai: P là Giám đốc Công ty May và xuất nhập khẩu Hoàng
Huỳnh tại quận Tân Bình. Tháng 12/2007, một người buôn bán quần áo tại
Ukraine đến liên hệ với P đặt may gia công 1.500 chiếc áo thun lưới gắn nhãn
hiệu Adidas và Nike. Sau đó, P đã mua vải, các phụ liệu tại chợ Tân Bình, đưa
về cơ sở tự cắt và đưa cho các thợ bên ngoài may gia công. Đến tháng 2/2008,
17
Đội Quản lý thị trường quận Tân Bình phát hiện P sản xuất gần 1.500 cái áo
thun không cổ, hàng Việt Nam giả hai nhãn hiệu nổi tiếng Adidas và Nike có giá
trị gần 150 triệu đồng. Những sản phẩm này đều không đảm bảo chất lượng,
nhãn hiệu của hai hãng Adidas và Nike đã được bảo hộ tại Việt Nam.
(Nguồn: Công an TP HCM ngày 8.6.2010, Pháp luật TP HCM ngày 3.6.2010)
Hàng năm, Công ty Interbrand và Tạp chí BusinessWeek đưa ra danh sách
các NHNT trên thế giới trên cơ sở sử dụng, tổng hợp, phân tích từ dữ liệu, tiêu
chí để xếp hạng NHNT và giá trị các NHNT của các hãng nghiên cứu thị trường
uy tín nhất. Trong danh sách 100 NHNT do Interbrand và Business Week đưa ra
hàng năm có nhãn hiệu Adidas, Nike.
Thực tế tại Việt Nam, Adidas, Nike là hai trong số các nhãn hiệu được
người tiêu dùng sử dụng hàng thể thao và lớp trẻ biết đến thông qua việc mua
bán, sử dụng hàng hóa mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo. Như vậy,
trong trường hợp Hoàng Huỳnh sản xuất các hàng hóa thuộc nhóm hàng hóa
mang nhãn hiệu Adidas và Nike thì sẽ bị xử lý vì hành vi xâm phạm NHNT.
Ngay cả trong trường hợp Hoàng Huỳnh sản xuất hàng hóa không thuộc
nhóm hàng hóa của Adidas và Nike cũng có thể bị xử lý. Việc xử lý đó căn cứ
vào Điểm b Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định trong
trường hợp “Hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự, không liên quan
tới hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai
lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng”.
Một số lý do căn bản dẫn đến thực trạng nêu trên có thể kể đến:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam mới chỉ đầy đủ về
phần khung pháp lý nhưng còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết.
Thứ hai, quy định về NHNT ở Việt Nam còn nhiều chồng chéo, mâu
thuẫn, gây khó khăn cho việc áp dụng, thực hiện.
Ví dụ: Khoản 20 Điều 4 và Điều 75 Luật SHTT năm 2005.
Thứ ba, chưa có một cơ chế đảm bảo tính độc lập, khách quan và nhanh
chóng trong việc giải quyết khiếu nại, yêu cầu hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ.
18
Thứ tư, việc xử lý xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo con đường dân
sự tại tòa chưa được sử dụng hiệu quả khiến cho việc xử lý bằng các biện pháp
hành chính bị lạm dụng. Năng lực của các cán bộ làm công tác thực thi quyền
SHTT còn chưa tương xứng với đòi hỏi của các vấn đề thực tiễn cần xử lý.
Thứ năm, ý thức tự bảo vệ quyền của chính các chủ thể quyền chưa cao
dẫn đến việc chưa chủ động trong hoạt động xác lập quyền, nhiều trường hợp
chỉ đến khi bị vi phạm hoặc có tranh chấp xảy ra mới tính đến việc đăng ký bảo
hộ.
Thứ sáu, năng lực của cơ quan xác lập quyền chưa đủ để đảm bảo giải
quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật các đơn yêu cầu xác lập quyền cũng
như các công việc khác hỗ trợ cho hoạt động xác lập và bảo vệ quyền.
Thứ bảy, hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật
về SHTT được thực hiện chưa tốt khiến cho nhận thức của toàn xã hội về vấn đề
bảo hộ quyền SHTT còn hạn chế, chưa hình thành tập quán tôn trọng quyền
SHTT.
Thứ tám, việc giáo dục, đào tạo pháp luật về sở trí tuệ vẫn chưa được coi
trọng đúng mức, việc xâm phạm quyền đối với NHNT còn diễn ra rất phổ biến.
Tóm lại, sự ra đời của Luật SHTT 2005 đã đánh dấu một bước phát triển
quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền SHTT nói chung, tạo cơ sở pháp lý
cho việc bảo hộ nhãn hiệu nói riếng, Tuy nhiên, các quy định của luật dù hay
đến mấy nhưng nếu không được hướng dẫn cụ thể, không có sự phối hợp nhịp
nhàng, hiệu quả của các chủ thể có liên quan thì luật vẫn chỉ là văn bản mà
không thể đi vào cuộc sống. Thực tiễn áp dụng luật SHTT một thời gian đã bộc
lộ những điểm chưa hợp lý cần thiết phải có những điều chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn khách quan đồng thời phải có những hướng dẫn chi tiết cho việc áp
dụng nhằm đảm bảo tính thống nhất và đúng pháp luật.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ NHNT
Để hoàn thiện pháp luật thực thi quyền SHTTvà đặc biệt là quyền đối với
NHNT, theo tôi thời gian tới cần tập trung:
Một là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT, quyền đối với
nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật dân sự như: hoàn thiện các quy định về việc
19
xác định các hành vi xâm phạm; nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải
quyết các tranh chấp về nhãn hiệu, xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi
quyền SHTT một cách kịp thời và có hiệu quả, xác định rõ thẩm quyền vụ việc
của Tòa án trong việc xét xử các tranh chấp về SHTT, bổ sung những quy định
chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm phạm quyền SHTT,
nhãn hiệu nổi tiếng, sớm ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết về vấn đề
bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần gây ra do các hành vi xâm phạm. Đối
với trường hợp xâm phạm NHNT, cần sử đổi hành vi xâm phạm là hành vi gây
tổn hại đến tính phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, các tiêu chí để đánh
giá nhãn hiệu nổi tiếng cần dành phần chủ động cho các doanh nghiệp bằng cách
quy định thêm rằng doanh nghiệp có thể đệ trình bất kỳ yếu tố nào của doanh
nghiệp mình để chứng minh cho nhãn hiệu là nổi tiếng, Cục SHTT sẽ xem xét
các yếu tố đó và quyết định cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu nổi tiếng hay không.
Hai là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT và quyền đối với
NHNT trong pháp luật hành chính.
Ba là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT trong pháp luật
hình sự, cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật
Hình sự liên quan việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền SHTT cũng
như là NHNT. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, về lâu dài Việt Nam
cũng cần phải thay đổi cách nhìn và nên đi theo xu hướng chung, đó là việc đưa
các vụ tranh chấp, xâm phạm về Toà án để giải quyết theo đúng bản chất dân sự
của nó. Có thế Việt Nam mới thật sự hội nhập trong cộng đồng quốc tế.
Bốn là, nâng cao ý thức tự bảo vệ chủ sở hữu nhãn hiệu cũng như người
tiêu dùng là giải pháp cần thực hiện để NHNT được bảo hộ đúng tầm quan trọng
của nó.
KẾT LUẬN
NHNT là một trong những đối tượng quan trọng của quyền sở hữu công
nghiệp và giá trị cũng như tầm quan trọng của việc bảo hộ NHNT ngày càng
20
được quan tâm trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sở hữu
được một NHNT mạnh đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường. Để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh,
các quốc gia trong đó có Việt Nam buộc phải có chính sách bảo hộ NHNT thỏa
đáng nhằm tạo điều kiện thúc đẩy quá trình hợp tác, giao lưu kinh tế. Việc đầu tư
nâng cao uy tín cho nhãn hiệu, dịch vụ không phải là công việc có thể thực hiện
trong thời gian ngắn mà phải có chiến lược lâu dài và đầu tư bài bản. Trong cuộc
cạnh tranh giảm bớt chi phí, tăng lợi nhuận không ít các chủ thể kinh doanh đã
sử dụng biện pháp sao chép, mô phỏng thành quả đầu tư của chủ thể khác. Quá
trình đó thể hiện thông qua những hành vi kinh doanh không lành mạnh như sản
xuất, lưu thông hàng giả mạo nhãn hiệu, hàng xâm phạm quyền. Thực trạng này
rất phổ biến ở nước đang phát triển khi ý thức pháp luật của doanh nghiệp cũng
như người tiêu dùng chưa cao. Những hành vi đó gây thiệt hại cho doanh nghiệp
đầu tư chính đáng vào uy tín nhãn hiệu, làm môi trường cạnh tranh trở nên
không đáng tin cậy, gây thiệt hại đến quyền chính đáng của người tiêu dùng là
được sử dụng hàng hóa, dịch vụ đúng nguồn gốc, làm suy giảm sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư. Đứng trước đỏi hỏi phải có một cơ chế để bảo hộ nhãn hiệu
đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế về “tính đầy đủ” và “tính hiệu
quả”, Luật SHTT đã được ban hành nhằm thống nhất các quy định điều chỉnh
chung đối với việc bảo hộ quyền SHTT. Thông qua các phân tích trên cần sửa
đổi, bổ sung các quy định về nhãn hiệu ngày càng chặt chẽ và thống nhất hơn
cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước như hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Lao động.
21
3. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
4. Nghị định Số 63/CP Quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
5. Nghị định Số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
6. Thông tư 01/2007/TT-BKHCN Hướng dẫn thi hành nghị định số
103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu
công nghiệp
7. Cục Sở hữu trí tuệ (2005), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, Nxb Bộ Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
8. Các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập (2002),
Chương trình hợp tác đặc biệt Việt Nam –Thụy Sỹ về sở hữu trí tuệ, Hà
Nội.
9. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa 1994 (2002), Nxb Bản đồ, Hà Nội.
10. />s
22
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU......................................................................2
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu....................................................................2
1.2. Chức năng của nhãn hiệu...........................................................................4
1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu............................................5
1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu................................6
Chương 2 BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ
TUỆ 2005..............................................................................................................8
2.1. Khái niệm bảo hộ NHNT...........................................................................8
2.2. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ........................................9
2.3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu..........................10
2.4. Tiêu chí đánh giá NHNT..........................................................................11
2.4.1. Căn cứ xác lập quyền........................................................................13
2.4.2. Cơ chế bảo hộ NHNT........................................................................13
2.5. Thời gian bảo hộ.......................................................................................14
2.6 Các quy định về hành vi xâm phạm bảo hộ NHNT..................................15
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG............................................16
3.1. Thực trạng hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam................................16
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ NHNT...............19
KẾT LUẬN........................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................21
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
SHTT
Sở hữu trí tuệ
SHTT năm 2005
Sở hữu trí tuệ năm 2005
NHNT
Nhãn hiệu nổi tiếng