Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài tập lớn học kỳ tìm hiểu về quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm con người phân tích một tình huống thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.28 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Con người trong xã hội ln có những rủi rõ, những biến cố không thể lường
trước được, cho nên, bảo hiểm sẽ là một việc đảm bảo cho quá trình sản xuất cũng
như đời sống xã hội của con người diễn ra bình thường.
Biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng
đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong
cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù
đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó
gây ra.
Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ
rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về
tài chính, nhân mạng,...
Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một
cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thơng qua phí bảo hiểm.
Trong thực tế cuộc sống, những người làm cha mẹ rất nhiều trách nhiệm và lo
lắng. Lo về sức khoẻ, học hành, tính khí, tương lai con cái. Và đặc biệt là nỗi lo
khơng biết mình có đủ khả năng mang đến cho con những điều tốt đẹp nhất hay
khơng. Khi có nhiều lo lắng, người ta thường nghĩ đến bảo hiểm, như một khả
năng dự phòng khi rủi ro, với hy vọng bảo toàn cuộc sống ổn định cho con cái
trong trường hợp cha mẹ gặp phải chuyện bất trắc.
Do đó, để hiểu rõ về bảo hiểm con người cũng như quyền lợi có thể được bảo
hiểm khi phát sinh rủi ro của người được bảo hiểm sẽ gây tổn thất về tài chính
hoặc tinh thần cho bên mua bảo hiểm như thế nào và đưa ra một tình huống trong
thực tiễn về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm con người của công ty bảo hiểm với
người mua bảo hiểm, em xin đi tìm hiểu đề tài: “ Tìm hiểu về quyền lợi có thể
được bảo hiểm trong bảo hiểm con người. Phân tích một tình huống thực tế
về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm con người”.
1


NỘI DUNG


I. Khái niệm chung về bảo hiểm con người.
1. Khái niệm
Bảo hiểm con người là sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm chết
bồi thường cho bên được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng khi phát sinh sự kiện
bảo hiểm liên quan đến đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai
nạn con người, với điều kiện bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đúng thỏa
thuận.
2.

Đặc điểm

Bảo hiểm con người được phân biệt với các loại hình bảo hiểm thương mại khác ở
những đặc điểm sau :
Thứ nhất, Đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con
người, nên không thể xác định được giá trị của đối tượng bảo hiểm. Vì đặc điểm
này mà trong bảo hiểm con người pháp luật quy định:


Số tiền bảo hiểm hoặc phương thức xác định số tiền bảo hiểm được

các bên thoả thuận trước trong hợp đồng.


Hai là, trong chế độ bảo hiểm con người, nếu một người mà tham gia

nhiều loại hợp đồng bảo hiểm con người, trong trường hợp này mặc dù có cùng đối
tượng bảo hiểm, với cùng điều kiện bảo hiểm và sự kiện bảo hiểm thì các hợp đồng
bảo hiểm đó vẫn độc lập với nhau, người được bảo hiểm được hưởng tất cả quyền
lợi bảo hiểm ở các hợp đồng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.


2




Trong chế độ bảo hiểm con người không áp dụng ngun tắc “chuyển

quyền u cầu địi bồi hồn” có nghĩa là “Trong trường hợp người được bảo hiểm
chết, bị thương tật hoặc đau ốm do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ
ba gây ra, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm mà
khơng có quyền u cầu người thứ ba bồi hồn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo
hiểm đã trả cho người thụ hưởng. Người thứ ba phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho người được bảo hiểm theo quy định của pháp luật.”1
Thứ hai, Xuất phát từ lợi ích thiết thân của người tham gia bảo hiểm mà chế độ
bảo hiểm con người được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện.
Thứ ba,Trong chế độ bảo hiểm con người quyền lợi có thể được bảo hiểm là
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng cấp dưỡng. Bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo
hiểm cho bản thân mình; Vợ, chồng, bố, mẹ, con của họ; anh, chị, em ruột, người
có quan hệ ni dưỡng, cấp dưỡng; và người khác, nếu bên mua bảo hiểm có
quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Thứ tư, bảo hiểm con người là một chế độ bảo hiểm được Nhà nước khuyến
khích, bảo vệ và giành cho người được bảo hiểm nhiều ưu đãi. Điều này được thể
hiện ở những điểm sau :
- Pháp luật hiện hành có quy định 2 : Đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo
hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người, doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân
thủ quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm được Bộ Tài chính phê duyệt .
- Để các doanh nghiệp bảo hiểm hạ thấp mức phí bảo hiểm, tạo điều kiện thuận
lợi cho nhiều người tham gia bảo hiểm con người pháp luật thuế quy định : Dịch
vụ bảo hiểm con người không phải chịu thuế giá trị gia tăng Tiền bồi thường bảo
hiểm là một khoản thu nhập không phải chịu thuế thu nhập đối với người có thu


1

Điều 37 Luật kinh doanh bảo hiểm
Điều 18 khoản 2 Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001 quy định chi thi hành một số điều của luật kinh
doanh bảo hiểm .
2

3


nhập cao 3. Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “ Trong bảo hiểm con người, nếu
bên mua bảo hiểm khơng đóng phí hoặc đóng khơng đủ phí bảo hiểm thì doanh
nghiệp bảo hiểm khơng được khởi kiện địi bên mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm”4.
-Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người
không phải là người mua bảo hiểm thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản,
trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng bảo hiểm. Mọi trường hợp
thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm.
Pháp luật bảo hiểm con người cịn quy định khơng được ký hợp đồng bảo hiểm
con người cho trường hợp chết của những người sau đây : Người dưới 18 tuổi trừ
trường hợp là cha mẹ hoặc ngươi giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý bằng
văn bản ; Người đang mắc bệnh tâm thần.
3. Phân loại bảo hiểm con người.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức
khỏe và tai nạn con người. Trong đó hợp đồng có đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ,
tính mạng con người được gọi là bảo hiểm nhân thọ, các hợp đồng có đối tượng
bảo hiểm khác như sức khỏe, tai nạn con người thuộc hợp đồng bảo hiểm phi nhân
thọ. Nếu bảo hiểm về tính mạng con người, thì khi người được bảo hiểm chết, bên
bảo hiểm phải chi trả một khoản tiền được xác định trước tương ứng với mức phí

bảo hiểm thành một khoản tiền cụ thể. Nếu bảo hiểm về tai nạn con người thì bên
bảo hiểm phải chi trả một khoản tiền trong phạm vi số tiền bảo hiểm trên cơ sở
căn cứ vào thương tật thực tế của người được bảo hiểm. Nếu bảo hiểm về sức
khỏe con người, thì bên bảo hiểm phải chi trả tiền bảo hiểm tiền bảo hiểm trong
phạm vi số tiền bảo hiểm trên cơ sở căn cứ chi phí thực tế và hợp lý trong việc
khám, chữa bệnh, phục hồi sức khỏe được bảo hiểm do bệnh tật hoặc tai nạ gây ra.
3
4

Xem Mục 4.2.4phần I Thông tư số 05/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành NĐ78/2001/NĐ-CP
Điều 36 Luật Kinh doanh bảo hiểm

4


a. Bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm cho tuổi thọ con người. Bảo hiểm nhân thọ
là loại nghiệp vụ bảo hiểm mà sự kiện bảo hiểm có liên quan đến việc sống hoặc
chết của người được bảo hiểm.
Có thể phân chia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ để thấy được quyền lợi có thể
được bảo hiểm đối với phần bảo hiểm cho chính mình:
Theo tính chất của sự kiện bảo hiểm có HĐBH tử kỳ, hợp đồng bảo hiểm
sinh kỳ, hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp;
Theo thời hạn của hợp đồng có hợp đồng có thời hạn và hợp đồng không xác
định thời hạn.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ là chế độ bảo hiểm tai nạn và sức khoẻ con
người khác mà không phải là bảo hiểm nhân thọ. Loại bảo hiểm này được triển
khai rất đa dạng tùy theo tình hình cụ thể của từng nước và ngay trong phạm vi
một nước. Ở nước ta có các hình thức bảo hiểm phi nhân thọ như: Bảo hiểm học

sinh ; bảo hiểm tai nạn thuỷ thủ, thuyền viên; bảo hiểm tai nạn con người (bảo
hiểm tai nạn, sinh mạng kết hợp nằm viện) bảo hiểm tai nạn hành khách; bảo hiểm
khách du lịch; bảo hiểm tai nạn lái xe, phụ xe và người ngồi trên xe…)
II.

Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm con người

1. Khái niệm
Quyền lợi có thể được bảo hiểm là những lợi ích của bên mua bảo hiểm về
vật chất hoặc tinh thần đối với đối tượng được bảo hiểm. Nếu đối tượng bảo hiểm
bị thiệt hại thì đó được coi như tổn thất thật sự của bên mua bảo hiểm.
Luật KDBH quy định: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm (Điều 3)

5


Quyền lợi có thể được bảo hiểm tồn tại đối với những người có quan hệ
vợ/chồng, cha-mẹ/con của người được bảo hiểm.
Quyền lợi có thể được bảo hiểm cũng có thể tồn tại trong quan hệ vay nợ.
Khi đó, bên cho vay có quyền lợi có thể bảo hiểm đối với cuộc sống của bên đi
vay.
Trong các quan hệ khác như quan hệ chủ cơng ty - người lao động...
thì Quyền lợi có thể được bảo hiểm cũng có thể tồn tại hay không là tuỳ thuộc vào
quy định cụ thể của luật pháp và của từng loại bảo hiểm.
Pháp luật Việt Nam chỉ rõ những người mà bên mua bảo hiểm có quyền lợi
có thể được bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 31 Luật KDBH, bên mua bảo hiểm
chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm

- Vợ, chồng, cha mẹ hợp pháp của bên mua bảo hiểm
- Anh, chị, em ruột; người có quan hệ ni dưỡng và cấp dưỡng
- Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Tóm lại, hiểu một cách đơn giản, Quyền lợi có thể được bảo hiểm quy định
quyền một người tham gia bảo hiểm có thể được phép tham gia bảo hiểm cho bản
thân mình hoặc người khác, đặc biệt là khi mua bảo hiểm cho người khác thì giữa
hai người phải có mối quan hệ nhất định quy định. Quyền lợi có thể được bảo
hiểm cũng quy định về quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm, nghĩa là, để được
hưởng quyền lợi bảo hiểm, người thụ hưởng phải có một mối quan hệ nhất định
với người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm.
2. Những vấn đề về quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm
con người.
Trong các hợp đồng bảo hiểm con người, mối liên hệ giữa người tham gia
bảo hiểm với đối tượng được bảo hiểm là mối liên hệ trực tiếp giữa người tham
gia bảo hiểm với thiệt hại xảy ra, theo đó họ là những người gánh chịu tổn thất. Vì
6


vậy, người tham gia bảo hiểm được coi là người có quyền lợi có thể được bảo
hiểm nếu đối tượng bảo hiểm là chính bản thân họ hoặc đối tượng được bảo hiểm
là những người mà họ có quan hệ nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng.
Người tham gia bảo hiểm bao giờ cũng hướng tới mục đích là được bên bảo
hiểm khắc phục tổn thất tài chính khi xảy ra rủi ro đối với tài sản hoặc đối với sinh
mạng, sức khỏe con người. Rủi ro xảy ra có thể đem đến tổi thất cho chính người
tham gia bảo hiểm, có thể là cho chính người thứ ba. Vì vậy, trong các hợp đồng
bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm tham gia để bảo hiểm cho chính họ, đối tượng
bảo hiểm là sinh mạng, sức khỏe hoặc tài sản của chính người đó. Trong các hợp
đồng mà bên mua bảo hiểm tham gia để bảo hiểm cho người thứ ba thì đối tượng
bảo hiểm là sinh mạng, sức khỏe của người thứ ba.
Trong quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, thì các doanh nghiệp bảo

hiểm nhân thọ hoạt động trên lãnh thổ của nước Việt Nam được tiến hành bảo
hiểm nhân thọ theo các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh
kỳ, bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm hỗn hợp. Như vậy, về nguyên tắc các công ty bảo
hiểm chỉ được tiến hành hoạt động bảo hiểm con người theo một trong bốn loại
bảo hiểm nói trên, nhưng sản phẩm của mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm trên thực tế
hết sức đa dạng, phong phú với các tên gọi khác nhau và do từng doang nghiệp
lựa chọn. Chẳng hạn theo nghiệp vụ bảo hiểm sinh kỳ thì cơng ty bảo hiển pruden
tial có sản phẩm bảo hiểm với tên gọi là “phú- tích lũy an khang”, nhưng các
công ty bảo hiểm thuộc hệ thống Bảo Việt có sản phẩm bảo hiểm với tên gọi là
“An khanh thịnh vượng”.
Trong LKDBH, đối với bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ
nói riêng, cũng đã có quy định cụ thể về việc bên mua bảo hiểm có thể mua bảo
hiểm cho những người nào. Nhà làm luật có dự liệu mở khi quy định bên mua bảo
hiểm có thể mua bảo hiểm cho “người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi

7


có thể được bảo hiểm”, nhưng nếu căn cứ vào khái niệm quyền lợi có thể được
bảo hiểm trong LKDBH, thì những đối tượng này bị bó hẹp rất nhiều.
Trường hợp “người khác, nếu bên mua bảo hiểm có thể có quyền lợi được
bảo hiểm” được hiểu là những người mà bên mua bảo hiểm có tổn thất thật sự khi
rủi ro xảy ra. Ví dụ : như cháu trực hệ của bên mua bảo hiểm ; người được giám
hộ mà bên mua bảo hiểm là người giám hộ; người lao động khi bên mua bảo hiểm
là người sử dụng lao động….. Pháp luật một số quốc gia còn quy định , bên mua
bảo hiểm cũng có quyền lợi có thể được bảo hiểm nếu là cha, mẹ đỡ đầu hoặc
cuộc sống của người phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn vào bên mua bảo hiểm.
Bên cạnh các quy định chung về quyền lợi có thể được bảo hiểm, tùy theo
điều khoản bảo hiểm mà quyền lợi có thể được bảo hiểm đó có thể bị hạn chế hơn
(Điều 38 Luật KDBH quy định khi mua bảo hiểm cho trường hợp chết của người

khác thì bên mua bảo hiểm đã gắn cái chết đó với những người thụ hưởng được
nhận tiền bảo hiểm. Như vậy, hình thành nguy cơ người được thụ hưởng hoặc
những người liên quan cố ý gây ra cái chết của người được bảo hiểm hòng trục lợi
bất chính. Do đó, pháp luật quy định việc bảo hiểm cho trường hợp chết của một
người thì cần phải được người đó chấp nhận. Quy định trên tạo điều kiện cho
người được bảo hiểm về cái chết của mình biết để xem xét lựa chọn người thụ
hưởng.
Hơn nữa Điều 38 Luật KDBH quy định: “khi giao kết HĐBH cho trường
hợp chết của người dưới 18 tuổi phải được cha mẹ, người giám hộ của người đó
đồng ý bằng văn bản, Doanh nghiệp bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo
hiểm cho trường hợp chết của người đang mắc bệnh tâm thần”. Như vậy, quy
định về quyền lợi có thể được bảo hiểm có tác dụng bảo vệ bên mua bảo hiểm.
Chỉ khi có quyền lợi có thể được bảo hiểm bên mua bảo hiểm mới có đủ khả năng
thực hiện các nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu bên mua
bảo hiểm không thực hiện được đủ nghĩa vụ cung cấp thông tin, doanh nghiệp bảo
8


hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến
thời điểm đình chỉ.
Tuy nhiên, khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm không thật sự hợp lý
với bản chất của bảo hiểm nhân thọ. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là một điều
kiện bắt buộc đối với bên mua bảo hiểm. Thực chất, quyền lợi có thể được bảo
hiểm quy định như trên chỉ là những quyền lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo
hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Trên thực tế, bảo hiểm nhân thọ không mang
yếu tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù đắp tổn thất tính mạng của người được
bảo hiểm và có yếu tố tiết kiệm dành cho chính người thân của họ. Chính vì vậy,
những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá đúng mức nhằm xác định quyền lợi
có thể được bảo hiểm. Trên thực tế, sẽ rất khó thuyết phục nếu cho rằng ơng bà
khơng có quyền lợi bảo hiểm đối với cháu, vợ chồng khơng có quyền lợi bảo hiểm

đối với nhau vì rõ ràng trong hồn cảnh bình thường, mối quan hệ của những
người này khơng phải là quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhưng những lợi ích tinh
thần rất sâu sắc và khơng thể quy đổi ra giá trị tiền bạc đơn thuần. Một số trường
hợp khác đã xuất hiện trên thị trường bảo hiểm nhân thọ như: người cho vay có
thể mua bảo hiểm nhân thọ cho người vay, chủ sử dụng lao động có thể mua bảo
hiểm cho người lao động, mặc dù là hợp lý nhưng không phù hợp với khái niệm
quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Trong bảo hiểm nhân thọ, điều kiện bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể
được bảo hiểm là đặc điểm quan trọng. Mục đích của bảo hiểm chỉ đạt được nếu
như bên mua bảo hiểm có lợi ích bảo hiểm, tránh tình trạng trục lợi. Điều này trở
thành một nguyên tắc trong hoạt động bảo hiểm trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.
Thứ nhất: Quyền lợi có thể được bảo hiểm phải thực sự tồn tại tại thời điểm
giao kết hợp đồng. Những quyền lợi đã chấm dứt không được coi là quyền lợi có
thể được bảo hiểm vì khi đó bên mua bảo hiểm khơng ó thiệt hại gì. Ví dụ: Chồng
9


cũ không thể mua bảo hiểm nhân thọ ho vợ cũ khi đã ly hôn. Những quyền lợi
chưa phát sinh cũng khơng thể là quyền lợi có thể được bảo hiểm do nó chưa chắc
chắn sảy ra trong tương lai
Thứ hai: Quyền lợi có thể được bảo hiểm phải hợp pháp. Quyền lợi không
hợp pháp được hiểu là những lợi ích hình thành từ quan hệ hoặc hành vi khơng
được pháp luật thừa nhận. Những quyền lợi không hợp pháp khơng thể được bảo
hiểm do vi phạm pháp luật có nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ quyền lợi có thể được bảo hiểm là những
lợi ích kinh tế hoặc lợi ích tinh thần của bên mua bảo hiểm. Chính vì vậy mối
quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm có tính chất quyết định
đến việc xác định xem bên mua bảo hiểm có quyền lợi được bảo hiểm hay không.
Nếu giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm là quan hệ thân thuộc gần

gũi thì mặc nhiên được pháp luật thừa nhận là có lợi ích bảo hiểm. Nếu khơng chỉ
được coi là có lợi ích bảo hiểm nếu như bên mua bảo hiểm phải chịu tổn thất tài
chính thật sự nếu rủi ro xảy ra.
Khác với bảo hiểm nhân thọ, trong hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ quyền
lợi có thể được bảo hiểm được hiểu là lợi ích kinh tế của bên mua bảo hiểm. Bảo
hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tính mạng,
sức khoẻ và khả năng lao động của con người.
Về phương diện kỹ thuật, bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm
có mục đích thanh tốn những khoản trợ cấp hoặc số tiền nhất định cho người được
bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm, trong trường hợp xảy ra những sự kiện
tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm.
Về phương diện pháp lý, bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm
theo đó để đổi lấy phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cam
kết sẽ trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền
nhất định theo thỏa thuận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
10


Như vậy, Bảo hiểm con người phi nhân thọ đảm bảo cho rủi ro tác động trực
tiếp đến người được bảo hiểm như tai nạn, ốm đau, bệnh tật,... Chỉ những tổn hại
thân thể con người mới là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm. Một vụ hỏa hoạn có
thể vừa gây ra tổn hại về người, vừa làm thiệt hại về tài sản,…, những tổn hại về
người thuộc đối tượng của bảo hiểm này, còn thiệt hại về tài sản thuộc đối tượng
của loại bảo hiểm khác.
III. Phân tích một tình huống thực tế về tranh chấp hợp đồng Bảo hiểm
con người.
1. Tình huống
Ơng Lâm sinh năm 1964 ở Huyện Ninh Giang Tỉnh Hải Dương không khai
báo đầy đủ tình trạng bệnh tật nên mới đây, khi ơng qua đời người nhà của ông đã
bị TAND Tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm đã bác yêu cầu đòi một công ty bảo

hiểm phải trả hơn 400 triệu đồng bao gồm tiền bảo hiểm và lãi suất... Tòa cho
rằng luật quy định bên mua bảo hiểm phải kê khai bệnh tật nhưng người này đã
không khai nên giao dịch vô hiệu. Đây là một trong vô số tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm liên quan đến việc xác định lỗi trong sự kiện giao kết hợp đồng bảo
hiểm và trả tiền bồi thường bảo hiểm trong thực tế.
2. Nội dung sự việc như sau:
Ơng Trần Lâm làm nghề xe ơm ở Huyện Ninh Giang Tỉnh Hải Dương từ
năm 1991 đến nay. Do thấy việc chạy xe ôm nguy hiểm nên giữa năm 2006 (cụ thể
là ngày 03 tháng 6 năm 2006), ông Trần Lâm đã mua bảo hiểm trọn đời trị giá 300
triệu đồng của một công ty bảo hiểm X ở Hải Dương. Thế rồi hai năm sau, ông
Trần Lâm đột ngột qua đời vì bệnh khi đã đóng được 11 triệu đồng tiền bảo hiểm.
Nhận thấy gia đình được thụ hưởng tiền bảo hiểm, một người em của ông
Trần Lâm yêu cầu công ty bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm cho ông Lâm khi ông
qua đời.

11


Tuy nhiên, phía cơng ty bảo hiểm X cho rằng ơng Lâm đã lừa dối khơng nói
cho họ biết mình bị bệnh xơ gan, viêm phổi trước khi ký hợp đồng nên chỉ đồng ý
thanh toán trên 11 triệu đồng mà ơng đã đóng.
Thỏa thuận khơng được, vợ con ơng Lâm đưa đơn kiện đến TAND Tỉnh Hải
Dương đòi 300 triệu đồng bảo hiểm và 106 triệu đồng lãi suất...
Qua điều tra sự việc ta thấy:
Về phía ơng Lâm: ơng đã mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm X với tổng
số tiền bảo hiểm lên tới 300 triệu đồng và đã đóng được 11 triệu đồng tiền bảo
hiểm. Nên theo quy định của pháp luật, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra( ơng Lâm
chết) thì sẽ được cơng ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm và mức lãi xuất theo quy định.
Về phía gia đình ơng Lâm cho rằng: cơng ty bảo hiểm phải có trách nhiệm
với khách hàng. Bởi trước khi ký kết, ông Lâm đã báo bệnh cho người tư vấn. Thế

nhưng vì hám lợi nên phía cơng ty (mà cụ thể là người tư vấn được chia hoa hồng
55%) không cho ông Lâm đi khám sức khỏe. Việc làm này của phía bị đơn nhằm
dễ đổ lỗi cho khách hàng để không phải trả tiền bảo hiểm. Mặt khác, mọi thông tin
trong hồ sơ đều do người tư vấn của công ty bảo hiểm kê khai giúp vì ơng Lâm
mới học lớp 2, hiểu biết hạn chế. Gia đình cũng đã nhắc người tư vấn là ông Lâm
chỉ hút được một điếu thuốc, uống được một ly rượu mỗi ngày và từng nằm viện
nhưng người này xua tay: “Ai mà chả nằm viện. Cứ làm đi rồi đưa về công ty
khám sức khỏe”... Cuối cùng, người nhà ơng Lâm khẳng định lỗi hồn tồn về phía
cơng ty nên khơng thể phủi tay với người mua bảo hiểm.
Về phía cơng ty bảo hiểm: u cầu chi trả bảo hiểm của gia đình ơng Lâm
đã bị cơng ty bảo hiểm X từ chối vì lý do ơng Lâm đã khơng khai báo trung thực
tình trạng sức khỏe của mình để được mua bảo hiểm. Cơng ty bảo hiểm cho biết
cơng ty khơng có quy định cho thẩm tra sức khỏe mà hoàn toàn tùy thuộc vào lời
khai của khách hàng. Tức khách hàng phải có nghĩa vụ chứng minh tình trạng sức
khỏe của mình. Ơng Lâm khơng trung thực cung cấp thông tin bệnh tật ngay từ ban
12


đầu, sau đó lại qua đời vì những căn bệnh trên nên khơng thể thỏa thuận bồi
thường...
Ngay sau đó bà Hương (vợ ông Lâm) đã khởi kiện công ty bảo hiểm X ra
Tòa án nhân dân Tỉnh Hải Dương.
Sau khi xem xét, TAND Tỉnh Hải Dương nhận định tiền sử bệnh của ông
Lâm là ho ra máu, lao phổi...Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, bên
mua phải có trách nhiệm cung cấp thông tin nhưng ở đây, ông Lâm không khai báo
đầy đủ vào hợp đồng. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm giữa hai bên vơ hiệu vì ơng
Lâm vi phạm nghĩa vụ của mình. Tịa chỉ buộc công ty phải trả cho vợ con ông
Lâm hơn 11 triệu đồng (vì ơng Lâm mất đi khơng để lại di chúc nên tòa chia theo
thừa kế hàng thứ nhất) mà ơng đã đóng trước đó.
3. Nhận xét

Trong vụ tranh chấp về địi tiền bảo hiểm như trên có thể thấy rõ được
những vấn đề sau:
+ Công ty bảo hiểm X ở Hải Dương là bên bảo hiểm
+ Ông Lâm là bên mua bảo hiểm cho chính mình (bảo hiểm trọn đời với só
tiền lên đến 300 triệu đồng).
Ta thấy, ông Lâm đã giao kết hợp đồng bảo hiểm với cơng ty bảo hiểm và
đóng phí bảo hiểm được 11 triệu thì qua đời. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm do chính
ơng Lâm kí kết với các cơng ty bảo hiểm có hiệu lực pháp luật ngay khi giao kết
hợp đồng. Pháp Luật kinh doanh bảo hiểm quy định, khi xảy ra rủi ro thuộc phạm
vi bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. Do vậy, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra
đối với bên mua bảo hiểm là ơng Lâm thì cơng ty bảo hiểm X phải trả tiền bảo
hiểm cho ông Lâm
Tuy nhiên, sự việc này không diễn ra như theo hợp đồng bảo hiểm mà có sự
tranh chấp về khoản tiền bảo hiểm giữa hai bên. Cụ thể là ông Lâm sau khi qua đời
13


thì vợ ơng đã đã địi cơng ty bảo hiểm X trả tiền bảo hiểm nhưng về phía cơng ty
bảo hiểm lại khơng đồng ý vì cho rằng ơng Lâm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm
không khai báo trung thực tình trạng bệnh tật của mình nên giao dịch giữa ông
Lâm và công ty bảo hiểm X vô hiệu. Cơng ty X nói rõ và đưa ra các chứng cứ
chứng minh ơng Lâm biết mình bị bệnh lao phổi nhưng đã cố tình khơng khai
trong hồ sơ u cầu bảo hiểm, và công ty bảo hiểm dựa trên những lời khai của
ông Lâm cũng đã không nêu yêu cầu thẩm định chun sâu về yếu tố này, do đó
khơng phát hiện ông bị bệnh và đã chấp nhận bảo hiểm. Sau đó, khi hợp đồng đã
có hiệu lực, nếu ông Lâm bị tử vong do chính bệnh này gây ra, cơng ty sẽ từ chối
thanh tốn quyền lợi bảo hiểm. Do vậy, Ơng Lâm và gia đình ơng chỉ được nhận lại
11 triệu đồng mà gia đình đã đóng trước đó.
Theo tình tiết của vụ việc đưa ra thì nhận thấy quyết định của Tòa án sơ

thẩm đã tuyên là đúng bởi những lý do sau đây:
Theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm, bên
mua bảo hiểm phải kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp
đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp này,
hợp đồng bảo hiểm có điều khoản yêu cầu cung cấp thông tin sức khỏe mà ông
Lâm không điền đầy đủ (hoặc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật) thì ơng vi phạm.
Điều này dẫn đến hợp đồng vơ hiệu như nhận định của tịa.
Việc cơng ty có cho hay khơng cho khách hàng đi khám sức khỏe không
phải là bắt buộc mà chỉ nhằm hạn chế rủi ro khi ký hợp đồng với công ty. Chẳng
hạn trường hợp khách hàng có bệnh nhưng chưa biểu hiện, khách hàng không biết
và khách hàng cũng chưa từng đi khám. Nếu hợp đồng được ký và trong thời hạn
hợp đồng, khách hàng rơi vào trường hợp bảo hiểm thì cơng ty sẽ bị thiệt hại.
Mặt khác, khi nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm giữa hai bên thì thấy Điều
1.3.1 và 1.3.2 của hợp đồng bảo hiểm có ghi: "Người tham gia bảo hiểm có nghĩa
vụ điền đầy đủ trung thực vào hồ sơ... Nếu người tham gia bảo hiểm vi phạm nghĩa
14


vụ quy định trên đây, hợp đồng bảo hiểm được xem là vơ hiệu và cơng ty sẽ hồn
lại phí bảo hiểm sau khi đã trừ chi phí khám nghiệm y khoa, nếu có". Như vậy
trong trường hợp hợp đồng vơ hiệu thì người mua bảo hiểm sẽ được trả lại chi phí
theo đúng điều khoản trong hợp đồng mà khơng được nhận thêm bất kì một khoản
nào khác.
Như vậy, việc TAND Tỉnh Hải Dương xét xử như trên là đúng theo quy định
của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

KẾT LUẬN
Tóm lại, với bảo hiểm – một biện pháp rất hữu hiệu và khá chắc chắn trong
việc khắc phục các tổn thất tài chính do rủi ro mang đến, bình ổn cuộc sống vật
chất, cũng như mang lại tâm lý yên tâm cho mỗi cá nhân trong xã hội

Bảo hiểm con người là một trong những loại bảo hiểm được mọi người chú
ý nhiều nhất vì thực chất đối tượng của hộp đồng bảo hiểm con người hướng tới là
tuổi thọ, sinh mạng, tai nạn thân thể và sức khỏe vốn là những vấn đề vô giá,
không thể cân đo đong đếm về giá trị. Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm
của nước ta thì trong các hợp đồng bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là con người,
bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho chính bản thân mình, vợ chồng
con cha mẹ anh chị em ruột, người có quan hệ ni dưỡng và cấp dưỡng,, hoặc là
những người khác nếu mình có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Như vậy, có thể
thấy khi bán bảo hiểm các công ty bảo hiểm nhất thiết phải căn cứ trên quyền lợi
có thể được bảo hiểm tức là chỉ bảo hiểm cho chính người mua bảo hiểm hoặc nếu
người được bảo hiểm là người thứ ba, thì giữa người mua bảo hiểm với người thứ
15


ba được bảo hiểm phải có quan hệ giuột thịt, quan hệ hơn nhân hoặc bảo hộ hợp
pháp.
Đây là tồn bộ bài tiểu luận của em về đề tài nêu trên, mặc dù đã có sự đầu
tư, tìm tỏi, nghiên cứu, song do còn nhiều hạn chế, nên bài làm có thể cịn nhiều sai
sót, em mong được sự góp ý từ phía thầy cơ để em có thể hồn thiện bài luận này,
em xin chân thành cảm ơn thầy (cô) giáo.

16


MỤC LỤC

17




×