Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Trình bày vấn đề tổ chức và quản lí công ti cổ phần theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.42 KB, 13 trang )

Nguyễn Thị Hằng - 360537
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Công ty Cổ phần là một loại mô hình doanh nghiệp điển hình trong
nền kinh tế thị trường. Với khả năng huy động vốn lớn, nhanh chóng, thuận
tiện, khả năng chuyển nhượng vốn linh hoạt, tạo điều kiện cho một khối
lượng lớn nhà đầu tư thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh mà không cần
phải có kiến thức kinh doanh, cũng không cần trực tiếp tham gia kinh doanh
và thức hợp với mô hình sản xuất kinh doanh lớn đa ngành nghề. Công ty cổ
phần đang là loại công ti rất phát triển. Ở những khía cạnh nhất định, so với
loại hình doanh nghiệp khác như: Doanh nghiệp tư nhân, công ti hợp danh,
công ti trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã thì công ti cổ phần có những nét đặc
trưng riêng trong quản trị. Ở Việt Nam, do những điều kiện nhất định nên
những quy định của pháp luật về công ti cổ phần mới xuất hiện – từ luật
công ti 1990. Mặc dù hiện tại chúng ta chưa thu hút được nhiều sự chú ý của
các nhà đầu tư nhưng công ti cổ phần dự báo một tương lại không xa sẽ rất
phát triển bởi những ưu thế đặc trưng của loại hình doanh nghiệp này. Tuy
nhiên, bên cạnh những lợi thế to lớn đó thì công ti cổ phần cũng có những
hạn chế nhất định. Nhằm khắc phục những hạn chế đó và góp phần vào sự
phát triển của công ti thì một vấn đề quan trọng được pháp luật quan tâm, đó
là vấn đề tổ chức và quản lí công ti cổ phần. Chính vì thế, em chọn đề “Trình
bày vấn đề tổ chức và quản lí công ti cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện
hành” làm đề tài cho bài tập lớn của mình.

1


Nguyễn Thị Hằng - 360537
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I.
I.1.



Khái quát chung về công ti cổ phần:
Khái niệm công ti cổ phần:

Theo Luật Doanh nghiệp 2005 có quy định tại Khoản 1 Điều 77 theo đó
CTCP là một loại hình doanh nghiệp. Khoản 4 Điều 1 Luật này có quy định:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng kí kinh doanh quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
hoạt động kinh doanh”.
Theo Điều 77 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì CTCP là loại hình công ti,
trong đó vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người
chủ sở hữu gọi là cổ đông, họ chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài
sản khác của công ti trong phạm vi số vốn đã góp vào công ti và công ti được
quyền phát hành chứng khoán.
Các quy định về CTCP lần đầu tiên được ghi nhận tại Luật Công ty năm
1990, sau đó tiếp tục được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 và đến
Luật Doanh nghiệp 2005, địa vị pháp lí của CTCP dần được hoàn thiện một cách
căn bản.
I.2.
Đặc điểm của CTCP:
I.2.1. Về cổ đông công ti:

CTCP là loại hình đặc trưng của công ti đối vốn, ở đó các thành viên chỉ
quan tâm tới vấn đề năng lực tài chính mà không quan tâm tới vấn đề nhân thân
như các loại hình doanh nghiệp khác. Khi tham gia hoạt động công ti hoặc kết nạp
cổ đông mới , các cổ đông chỉ quan tâm đối tượng đó có đủ khả năng về tài chính
đề tham gia vào công ti trở thành cổ đông công ti hay không. Thành viên CTCP có
thể là cá nhân hay tổ chức với số lượng cổ đông tối thiểu là 3 cổ đông và không
hạn chế số lượng tối đa. Như vậy, pháp luật chỉ hạn chế số lượng tối thiểu mà
không hạn chế số lượng tối đa cổ đông tham gia CTCP, điều này xuất phát từ tính

chất đối vốn của CTCP.
2


Nguyễn Thị Hằng - 360537
I.2.2. Về vốn điều lệ:

Vốn điều lệ CTCP là tập hợp các phần vốn do các cổ đông góp và được ghi
vào Điều lệ công ti. Vốn điều lệ của CTCP được chia làm nhiều phần bằng nhau
được gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phần và được
phản ánh trong cổ phiếu. Các cổ đông góp vốn vào công ti bằng cách mua cổ phần,
mỗi cổ đông có thể mua ít hoặc nhiều cổ phần và pháp luật không hạn chế số lượng
tối đa cổ phần mà các cổ đông được mua, mà vấn đề này các cổ đông có thể tự thỏa
thuận với nhau và ghi vào trong Điều lệ công ti nhằm chống lại việc tập trung quá
nhiều cổ phần vào tay một người, tránh tình trạng tập trung quyền lực và thâu tóm
công ti trong tay một hoặc một số cổ đông lớn.
Cổ phần của công ti được thể hiện dưới hình thức chứng khoán , đó là cổ
phiếu. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ nhận quyền
sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ti đó.
Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ
thông được quyền chào bán của công ti. Quy định này nhằm gắn bó lợi ích của các
cổ đông sáng lập với lợi ích của công ti . Qua đó đề cao trách nhiệm của các cổ
đông sáng lập đối với hoạt động kinh doanh của công ti.
I.2.3. Về chế độ chịu trách nhiệm:

Chế độ chịu trách nhiệm ở CTCP là chế độ trách nhiệm hữu hạn. CTCP chỉ
chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của công ti, tức là công ti chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ công ti bằng tài sản của công ti, các cổ đông công ti chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của công ti trong phạm vi số vốn đã
góp vào công ti. Trong trường hợp công ti làm ăn thua lỗ thì việc thực hiện các

nghĩa vụ về tài sản chỉ giới hạn trong tài sản còn lại của công ti và các cổ đông chỉ
chịu rủi ro trong phạm vi phần vốn mà các cổ đông đã góp vào công ti. Trong
trường hợp các khoản nợ vượt quá giá trị tài sản còn lại của công ti thì nghĩa vụ trả
nợ của công ty cũng chấm dứt khi công ty đã dùng toàn bộ tài sản còn lại để trả nợ.
3


Nguyễn Thị Hằng - 360537
Các cổ đông công ti không có nghĩa vụ phải sử dụng tài sản riêng của mình để
thanh toán các khoản nợ chưa được công ti thanh toán.
Như vậy, ở CTCP có sự tách bạch rõ ràng về tài sản của công ti và tài sản
dân sự của các thành viên công ty. Đặc điểm này cho thấy, chế độ chịu trách nhiệm
của CTCP khác với chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân
và thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn
của cổ đông CTCP giúp cho các cổ đông của công ty có thể hạn chế được rủi ro
trong kinh doanh, tránh sự khánh kiệt gia sản đối với cổ đông khi công ty bị phá
sản. Điều này giúp cho các nhà đầu tư mạnh dạn hơn khi đầu tư kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn là một lợi thế
đối với cổ đông CTCP thì lại là một bất lợi cho các chủ nợ của công ty về khả năng
thanh toán nợ khi công ty bị phá sản.
I.2.4. Về chuyển nhượng vốn:

Ở CTCP, các cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, trừ cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông của các sáng lập viên
trong ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng. Quy định này xuất phát từ bản chất của cổ phần ưu đãi biểu quyết và đối
tượng được mua cổ phần ưu đãi biểu quyết. Bởi vậy, cổ phần ưu đãi biểu quyết chỉ
có giá trị và gắn liền với các cổ đông sáng lập và tổ chức được Chính phủ ủy quyền
nắm giữ nó mà không thể chuyển nhượng cho người khác.

Luật Doanh nghiệp 2005 không cấm việc chuyển nhượng vốn của các cổ
đông sáng lập trong ba năm đầu nhưng đã đưa ra những quy định nhằm hạn chế
việc chuyển nhượng. Trong thời hạn ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh, các cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông khác, nhưng chỉ được chuyển
nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải cổ đông sáng lập nếu
4


Nguyễn Thị Hằng - 360537
được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Quy định này xuất phát từ vai trò
quan trọng của các cổ đông sáng lập đối với hoạt động kinh doanh của CTCP trong
giai đoạn đầu thành lập và hoạt động.
Ngoài việc cấm chuyển nhượng và hạn chế chuyển nhượng hai loại cổ phần
nêu trên, Luật Doanh nghiệp 2005 cho phép cổ đông được quyền tự do chuyển
nhượng các loại cổ phần còn lại. Điều này đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư ở
CTCP có khă năng nhanh nhạy, linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư, chủ động
hơn trong nguồn vốn đầu tư của mình, giúp họ nhanh chóng nắm bắt được thời cơ
tìm kiếm lợi nhuận thông qua chuyển nhượng cổ phần ở công ty này và mua cổ
phần ở một công ty khác.
I.2.5. Về phát hành chứng khoán:

Trong quá trình hoạt động, CTCP có quyền phát hành chứng khoán như cổ
phiếu, trái phiếu để huy động vốn. Do được phát hành chứng khoán nên CTCP có
khả năng huy động vốn rất lớn và rộng rãi trong công chúng.
Với có chế huy động vốn linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho những cá
nhân có số tiền nhỏ cũng có cơ hội đầu tư có lợi và an toàn. Các cá nhân mua cổ
phiếu được hưởng lợi tức cổ phần, bên cạnh đó họ còn được hưởng lợi nhuận đáng
kể từ sự tăng giá của cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Mặt khác, CTCP là
hình thức đầu tư giúp nhà kinh doanh hạn chế được rủi ro bằng cách cùng lúc đầu

tư vào nhiều công ty khác nhau. Bên cạnh đó, các cổ đông có quyền tham gia quản
lý công ty theo điều lệ của công ty và được pháp luật đảm bảo. Các cổ đông được
hưởng ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi
công ty đem bán rộng rãi ra ngoài công chúng.
Cơ chế huy động vốn linh hoạt còn giúp cho CTCP có khả năng chủ động
được về nguồn huy động vốn mỗi khi cần nguồn vốn lớn tham gia vào các dự án
lớn và từ đó tạo được sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do khả năng huy động vốn rộng rãi và rất lớn trong công chúng nên khả năng gây
5


Nguyễn Thị Hằng - 360537
rủi ro trong công chúng của CTCP cũng rất cao. Bởi vậy, CTCP thường phải chịu
sự điều chỉnh của nhiều quy chế pháp lí khắt khe hơn so với các loại hình doanh
nghiệp khác.
I.2.6. Về tư cách pháp lí:

Là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, tiến hành
các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và có tài sản độc lập,
chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Như vậy, CTCP thỏa mãn đầy đủ các điều kiện
của một pháp nhân nên CTCP được pháp luật thừa nhận là có tư cách pháp nhân kể
từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách chủ thể là pháp nhân thông qua
người đại diện của mình theo pháp luật, công ty có thể trở thành nguyên đơn hoặc
bị đơn trong các quan hệ tố tụng tại tòa án. Khi công ty mua sắm các tài sản mới,
thì tài sản đó thuộc sở hữu công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông, vì lúc
này công ty là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn với các cổ đông.
II.


Tổ chức và quản lí công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện

II.1.

hành:
Đại hội đồng cổ đông:

ĐHĐCĐ là nơi tập trung các cổ đông có quyền biểu quyết, có quyền quyết
định cao nhất trong CTCP. ĐHĐCĐ họp thường niên hoặc họp bất thường ít nhất
mỗi năm một lần. Địa điểm họp ĐHĐCĐ phải ở trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 96 LDN 2005, ĐHĐCĐ có các nhóm quyền và
nghĩa vụ sau:
-

Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động nội bộ công ti:

+ Thông qua định hướng phát triển công ti.
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành viên BKS.

6


Nguyễn Thị Hằng - 360537
+ Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ti, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều
lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán
quy định tại Điều lệ công ti.
+ Thông qua báo cáo tài chính hàng năm.
+ Xem xét và xử lí các vi phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công ti và cổ
đông công ty.
+ Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty.

-

Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động công ti:

+ Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán;
quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần; trừ trường hợp Điều lệ
công ty có quy định khác.
+ Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.
ĐHĐCĐ có thể họp thường niên hoặc bất thường. Dù là thường niên hay
bất thường thì giá trị pháp lí như nhau. ĐHĐCĐ phải họp thường niên trong thời
hạn 4 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Tuy nhiên, theo đề nghị của HĐQT,
cơ quan đăng kí kinh doanh có thể gia hạn, nhưng không quá 6 tháng kể từ ngày
kết thúc năm tài chính. Khi tiến hành họp, ĐHĐCĐ thường niên sẽ thảo luận và
thông qua các vấn đề được quy định tại Khoản 2, Điều 97 LDN 2005.
II.2.

Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị:

HĐQT là cơ quan quản lí của công ti, có toàn quyền nhân danh công ti để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền
của ĐHĐCĐ. HĐQT là cơ quan thực thi các quyết định của ĐHĐCĐ và là cơ quan
quyền lực cao nhất của CTCP giữa hai kì họp ĐHĐCĐ.
Điểm mới của LDN 2005 về cơ chế hình thành HĐQT của CTCP là áp dụng theo
phương thức bầu dồn phiếu. Theo đó việc biểu quyết thành viên HĐQT phải được
thực hiện theo phương thức mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng

7


Nguyễn Thị Hằng - 360537

với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của HĐQT và cổ đông
có quyền dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên.
Theo LDN 2005, HĐQT có quyền giám sát, chỉ đạo GĐ (TGĐ) và người quản lí
khác trong điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. HĐQT có
quyền quyết định đầu tư, phương án đầu tư và các dự án đầu tư; cử người đại diện
theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác;
triệu tập họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến ĐHĐCĐ thông qua quyết định; trình báo cái
tài chính hàng năm lên ĐHĐCĐ; kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu
phá sản công ty. HĐQT cũng có quyền và nhiệm vụ bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách
chức, kí hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với GĐ (TGĐ) và người quản lí khác
trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Ngoài ra, theo quy định tại Điều
120 LDN, HĐQT có quyền chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ
hơn 50% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất
hoặc một tỉ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty.
HĐQT phải thực hiện đúng quy định của pháp luật, Điều lệ của công ty và
quyết định của ĐHĐCĐ.
II.3.

Giám đốc (Tổng giám đốc):

Là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm
trước HĐQT về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
GĐ (TGĐ) do HĐQT bổ nhiệm và có thể là thành viên HĐQT hoặc không phải là
thành viên HĐQT. GĐ (TGĐ) là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu
điều lệ của công ty không quy định chủ tịch HĐQT có tư cách này. Các quyền và
nhiệm vụ cụ thể của GĐ (TGĐ) được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Điều
lệ công ty.
II.4.

Ban kiểm soát:


CTCP có trên 11 cổ đông phải có Ban kiểm soát gồm từ 3 đến 5 thành viên. Các
kiểm soát viên do Đại hội cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số
8


Nguyễn Thị Hằng - 360537
thành viên thường trú tại Việt Nam. Ban kiểm soát thay mặt các cổ đông kiểm soát
các hoạt động của công ty chủ yếu là vấn đề tài chính. Có quyền và nhiệm vụ được
quy định tại Điều 123 LDN 2005 và Điều lệ công ti. Ban kiểm soát phải có ít nhất
một kiểm soát viên có trình độ chuyên môn về kế toán.Ban kiểm soát bầu một
thành viên làm trưởng ban. Quyền và nhiệm vụ của trưởng ban do điều lệ công ti
quyết định. Những người sau đây không được làm thành viên của Ban kiểm soát:
-

Thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc), người có liên quan của thành

-

viên HĐQT, của giám đốc (tổng giám đốc), kế toán trưởng.
Người đang bị truy cứu TNHS hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc
bị tòa tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép...

Nhiệm kì của Ban kiểm soát, chế độ làm việc và thù lao cho thành viên BKS do
Đại hội đồng cổ đông quyết định hoặc được quy định trong Điều lệ công ty.
III.

Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức


và quản lí CTCP:
III.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về ĐHĐCĐ:
Thứ nhất, pháp luật doanh nghiệp cần có các quy định về chế tài đối với
hành vi không tổ chức họp ĐHĐCĐ theo đúng thời hạn luật định, xóa bỏ tình trạng
doanh nghiệp vi phạm LDN mà không có biện pháp xử lí.
Thứ hai, đối với việc gửi giấy triệu tập họp đến cho cổ đông, thời hạn 7 ngày
cần kéo dài hơn để đảm bảo các cổ đông đủ thời gian xử lí các thông tin. Có như
vậy, các cổ đông mới có những lá phiếu đúng đắn trong ĐHĐCĐ.
Thứ ba, đối với trách nhiệm trả lời chất vấn của lãnh đạo công ty trước
ĐHĐCĐ. Vấn đề này cần được quy định cụ thể để đảm bảo cho các chất vấn của
cổ đông được trả lời nhanh chóng, cũng như trường hợp lãnh đạo công ty được
quyền từ chối trả lời chất vấn.

9


Nguyễn Thị Hằng - 360537
Thứ tư, về quyền triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ, LDN 2005 nên đưa vào ngoại
lệ đối với các trường hợp: cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại Khoản 2 Điều
79 LDN triệu tập họp ĐHĐCĐ thì không cần phải được HĐQT thông qua chương
trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp. Chỉ có như vậy mới đảm bảo cho cổ
đông, nhóm cổ đông trên thực hiện quyền này trên thực tế mà không gặp phải trở
ngại từ HĐQT. Đồng thời cần ban hành văn bản xác định mức độ vi phạm của
HĐQT trong trường hợp nào được coi là “vi phạm nghiêm trọng” nghĩa vụ của
người quản lí quy định tại Khoản 3 Điều 79 LDN để áp dụng pháp luật thống nhất
trong mọi trường hợp.
Thứ năm, về quyền dự họp ĐHĐCĐ của cổ đông. Để khắc phục tình trạng
HĐQT hạn chế triệu tập cổ đông dự họp, xin đưa ra ý kiến của TS Nguyễn Đình
Cung, Phó Viện trưởng Viện quản lí kinh tế Trung ương như sau: các cổ đông thiểu
số có thể tập hợp lại thành Câu lạc bộ của nhà đầu tư thiểu số. Thông qua diễn đàn

này, các nhà đầu tư có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng góp tiếng
nói chung, làm nên sức mạnh cũng như sức cạnh tranh của mình.
III.2.

Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về HĐQT:

Thứ nhất, pháp luật doanh nghiệp bổ sung quy định thành viên HĐQT có thể
là tổ chức nhằm đảm bảo công bằng giữa các cổ đông cũng như tạo điều kiện cho
các cổ đông là tổ chức có thế mạnh về tài chính cũng như kinh nghiệm được quyền
tham gia vào HĐQT.
Thứ hai, pháp luật doanh nghiệp cần quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 115
LDN một cơ chế để xác định có hay không sự tham gia hoạt động của thành viên
HĐQT. Tức Luật cần có những quy định màng tính định lượng rõ ràng và khả thi
hơn.
Thứ ba, cần có các quy định nhằm hạn chế sự chi phối của cổ phần nhà nước
trong các CTCP mà nhà nước nắm giữ cổ phần, có như vậy mới phát huy được tính
chủ động, sáng tạo của ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ) trong hoạt động của CTCP.
10


Nguyễn Thị Hằng - 360537
Thứ tư, quy định tại Điều 111 LDN 2005 cần được sửa đổi để duy trì sự nhất
quán giữa các quy định trong LDN. Theo Khoản 2 Điều 96 LDN 2005 ĐHĐCD có
quyền bầu ra HĐQT. Do vậy, có thể sửa lại trao quyền cho các thành viên HĐQT
được bầu ra Chủ tịch HĐQT.
Thứ năm, cần quy định cụ thể “người quản lí khác” được nêu trong các Điều
112 và Điều 118 LDN 2005. Bởi vì quy mô của các CTCP ngày càng lớn, đi đôi
với nó là yêu cầu của công tác quản lí ngày càng cao. Bên cạnh những bộ phận
quản lí lớn như: ĐHĐCD, HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS thì các bộ phận khác cũng rất
quan trọng. Vì vậy, cần bổ sung những quy định cụ thể về vị trí, quyền hạn của

những bộ phận này.
III.3.

Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về GĐ (TGĐ);

Trong thời gian tới, pháp luật doanh nghiệp cần bổ sung thêm những quy
định đối với trường hợp thuê người ngoài công ty làm GĐ (TGĐ), cụ thể bổ sung
các quy định về hợp đồng, các nội dung chủ yếu của hợp đồng thuê GĐ (TGĐ),
điều kiện GĐ được thuê và cần có các quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp
đi thuê GĐ (TGĐ).
III.4.

Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về BKS:

Thứ nhất, cần quy định cụ thể và rõ ràng trong LDN hoặc trong văn bản
hướng dẫn thi hành về khoảng thời gian để CTCP khi kết nạp thêm cổ đông làm
cho số lượng cổ đông của công ty trên 11 người thì phải thành lập BKS.
Thứ hai, việc lựa chọn thành viên BKS phải hết sức khách quan và đáp ứng
các điều kiện chặt chẽ mà LDN quy định. Theo đó, công ty nên khuyến khích
thành viên BKS hoạt động độc lập như thành viên HĐQT. Cơ chế đơn giản và hiệu
quả nhất là các thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) không được quyền đề cử và không
được quyền bỏ phiếu bầu thành viên HĐQT. Điều này là cần thiết bởi lẽ BKS
không tham gia quản lí, điều hành doanh nghiệp mà chỉ đóng vai trò giám sát các
hoạt động quản lí điều hành doanh nghiệp của HĐQT, GĐ (TGĐ).
11


Nguyễn Thị Hằng - 360537
Thứ ba, để nâng cao hơn nữa vai trò của BKS cần trao cho BKS một số quyền
năng khác như cho phép BKS có quyền đình chỉ tạm thời hoạt động của thành viên

HĐQT , thành viên ban giám đốc khi có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến công ty.
Sau khi ra quyết định tạm đình chỉ đối với cá nhân vi phạm, BKS sẽ thông báo
bằng văn bản tới HĐQT để HĐQT có biện pháp xử lí kịp thời.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

Như vậy, cơ cấu tổ chức quản lí công ty cổ phàn có sự phân công chức năng cụ
thể cho từng cơ quan, giám sát lẫn nhau trong mọi công việc. Trong quá trình làm
bài em không thể tránh khỏi những sai sót. Mong thầy cô góp ý kiến để em hoàn
thiện bài luận của mình hơn. Em xin chân thành cảm ơn!.

12


Nguyễn Thị Hằng - 360537

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại/ Trường Đại học Luật Hà Nội/ Nhà xuất bản

Công An Nhân Dân.
2. Luật Doanh Nghiệp 2005.
3. Lê Thị Ánh Phương, “Quản trị nội bộ công ti cổ phần – Những vấn đề lí
luận và thực tiễn”.
4. Vũ Thị Niềm, “Pháp luật về quản trị công ty cổ phần – Những vấn đề lí
luận và thực tiễn”,2012 .
5. Đồng Ngọc Ba, “Một số vấn đề pháp luật và thực tiễn về các loại hình
Doanh nghiệp ở Việt Nam”, tạp chí luật học, số 1/2005.
6. Đồng Ngọc Ba, “Vấn đề tổ chức quản lí công ti cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp”, tạp chí luật học, số 2/2001.

13




×