Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài nhóm 9đ giải quyết những hậu quả pháp lí của những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.66 KB, 15 trang )

I. MỞ ĐẦU.
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn ông
và một người phụ nữ được pháp luật thừa nhận. Sự liên kết đó được phát sinh và
hình thành thông qua việc kết hôn. Do đó, kết hôn đã trở thành một chế định được
quy định độc lập trong hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình, và tại đó quy
định cụ thể về những điều kiện kết hôn hợp pháp.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những mối quan hệ cũng như
những vấn đề về tâm sinh lý của con người ngày càng trở nên phức tạp. Điều đó
ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hôn nhân, gia đình, trong đó có việc kết hôn.
Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn, gây ra những
ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến lối sống và đạo đức xã hội.
Vì vậy đã đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu và tìm ra hướng giải quyết cho vấn đề này.
Đây cũng chính là đề tài bài tập nhóm lần này của nhóm 1: “Giải quyết
những hậu quả pháp lí của những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”. Do còn nhiều hạn chế nên bài nhóm
của chúng em không tránh khỏi những thiếu xót. Chúng em rất mong nhận được
những ý kiến đánh giá, đóng góp của thầy, cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.

II. NỘI DUNG.
A.Điều kiện kết hôn và phân loại những TH vi phạm điều kiện kết hôn:
Kết hôn là việc hai bên nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng, là mốc khởi đầu
của quan hệ hôn nhân. Nhà nước quy định điều kiện kết hôn nhằm hướng đến xây
dựng gia đình ấm no hạnh phúc, hôn nhân tự nguyện tiến bộ. Trong quá trình tìm


hiểu nhóm đã dựa trên cơ sở là những chế định pháp lý về hôn nhân để đưa ra 1 số
điều kiện sau:
1.Điều kiện về độ tuổi kết hôn
Khoản 1, Điều 9, luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định : “nam từ 20 tuổi
trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.


Luật hôn nhân và gia đình quy định tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm
sinh lí của con người, căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta. Nam nữ
kết hôn là xác lập quan hệ hôn nhân – cơ sở của gia đình. Gia đình phải thực hiện
các chức năng xã hội của nó. Một trong những chức năng đó là chức năng sinh đẻ
nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhưng để đảm bảo cho con sinh ra được khỏe
mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo đảm sức khỏe cho người phụ nữ khki
mang thai, sinh đẻ thì nam phải từ khoảng 18 tuổi trở lên, nữ từ khoảng 17 tuổi trở
lên.
Căn cứ vào sự phát triển tâm lí của con người, khi nam nữ đạt tuổi trưởng thành
sẽ có những suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình. Đó
cũng là mộ trong những yếu tố bảo đảm cho quan hệ hôn nhân có thể tồn tại bền
vững. Đồng thời khi đạt tuổi trưởng thành nam nữ có thể tự mình lựa chọn và
quyết định việc kết hôn, khi đó họ có thể tham gia vào quá trình lao động và có thu
nhập. Điều đó có nghĩa là sẽ bảo đảm cho họ có thể có cuộc sống ổn định về kinh
tế sau khi kết hôn.
2.

Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn.

Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định : “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn”.


Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là hai bên nam nữ tự mình quyết định
việc kết hôn và thể hiện ý chí mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên
nam nữ không bị tác động bởi bên kia hay bất kì người nào khác khiến họ phải kết
hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự thê hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Hai
bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giũa họ
và nhằm mục đích cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ
trong việc kết hôn phải chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa

hai người. Sự tự nguyện của cấc bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm
bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững.
Để đảm bảo cho việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, những người muốn kết hôn
phải cùng có mặt tại cơ quan đăng kí kết hôn nộp tờ khai đăng kí kết hôn.
Để đảm bảo cho việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, pháp luật không cho phép cử
người đại diện trong đăng kí kết hôn, đồng thời pháp luật cũng không cho phép
những người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng kí kết hôn.
Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai bên nam nữ là
nhằm bảo đảm cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hôn.Để đảm
bảo việc kết hôn được hoàn toàn tự nguyện, pháp luật quy định việc kết hôn phải
không có hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự nguyện, tiến bộ.
3.

Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn

Theo quy định tại Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc kết hôn bị
cấm trong các trường hợp sau :
- Cấm kết hôn với những người đang có vợ hoặc chồng
Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định :


“ Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn hân theo nguyên tắc tự nguyện, tiế
bộ. một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”
Như vậy, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta quy định khi kết hôn nam nữ phải
tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Theo nguyên tắc đó thì chỉ
những người chưa kết hôn hoặc những người tuyd dã két hôn nhưng vợ hoặc chồng
họ đã chết hoặc vợ chồng đã ly hôn thì mới có quyền kết hôn. Từ đó cũng có thể
hiểu rằng, những người đang có vợ, có chồng bị cấm kết hôn với những người
chưa có chồng,có vợ.
Ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại một số trường hợp một chồng hai vợ hoặc một vợ

hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền
Nam tập kết ra Bắc (1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Các trường hợp vi phạm
trên không phải do ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình mà là do hoàn cảnh
đất nước có chiến tranh. Những trường hợp này cần phải được quan tâm nhằm bảo
vệ những quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự, đặc biệt là đối với phụ nữ
và con.
- Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn
Người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
các bệnh khác mà không thể nhận thức được hành vi của mình nên tòa án ra quyết
định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm
quyền theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005.
Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Giao dịch dân sự của
người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập,
thực hiện” .Vì vậy người mất năng lực hành vi không thể kết hôn.


- Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong
phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau.
Theo quy định tại khoản 3 và 4 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm vi 3 đời
hoặc những người đã từng có quan hệ thích thuộc bị cấm kết hôn với nhau. Cụ thể
là cấm kết hôn giữa cha, mẹ với các con; giữa ông, bà với cháu nội, ngoại; giữa
những người có họ trong phạm vi 3 đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con
rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
-

Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.


Khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn giữa
những người có cùng giới tính.
Sở dĩ quy định như vậy là vì chỉ những người khác giới tính với nhau thì mới có
thể cùng nhau thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là sinh đẻ nhằm duy trì phát
triển nòi giống. Do vậy luật hôn nhân và gia đình đã quy định cấm những người
cùng giới tính kết hôn với nhau.
Ngoài những điều kiện kết hôn đã nêu ở trên thì mọi trường hợp kết hôn, vi phạm
điều kiện kết hôn ở trên đều được coi là kết hôn trái pháp luật.
B. Hậu quả pháp lý và hướng giải quyết hậu quả pháp lý các TH vi phạm điều
kiện kết hôn
Hậu quả pháp lý của các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn là hủy kết
hôn trái pháp luật đó hoặc không hủy việc kết trái pháp luật tùy vào từng hoàn
cảnh, đối tượng cụ thể. Việc Tòa án không hủy việc kết hôn dẫn đến hậu quả pháp
lý phát sinh như trong trường hợp kết hôn hợp pháp được quy định trong Luật hôn


nhân và gia đình Việt Nam. Đối với trường hợp hủy việc kết hôn thì sẽ có những
hậu quả pháp lý được quy định tại Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình như sau:
1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ
như vợ, chồng.
2. Quyền lợi của các con được hưởng giải quyết như trường hợp cha mẹ li hôn.
3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì của người đó; tài
sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì
yêu cầu tòa giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ
quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Từ việc phát sinh những hậu quả pháp lý sau khi Tòa án quyết định hủy việc kết
hôn trái pháp luật dẫn đến những vấn đề cần giải quyết là: Quan hệ nhân thân, quan
hệ giữa cha mẹ và con và việc phân chia tài sản.
Đối với quan hệ nhân thân, về nguyên tắc Nhà nước không thừa nhận hai
người kết hôn trái pháp luật đó là vợ chồng ,do đó giữa họ chưa từng phát sinh

quan hệ vợ chồng. Việc họ chung sống như vợ chồng là trái pháp luật. Vì vậy theo
khoản 1 Điều 17 thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ ngày
quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật đó có hiệu lực. Như vậy, nếu trước khi
tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, hai bên đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ
nhân thân như quan hệ vợ chồng với nhau thì khi có quyết định hủy của tòa án
buộc các bên phải chấm dứt quyền và nghĩa vụ nhân thân đó.
Trên thực tế , việc chấm dứt quan hệ nhân thân sau khi hủy việc kết hôn là rất khó
thực hiện. Có nhiều trường hợp quan hệ như vợ chồng vẫn được tiếp tục, duy trì
giữ một người có năng lực hành vi dân sự với một người mất năng lực hành vi dân
sự, giữa những người cùng giới tính hay giữa những người đã từng là cha mẹ


nuôi…. Những trường hợp này các bên vẫn duy trì quan hệ tình cảm với nhau, vẫn
yêu thương chăm sóc nhau. Bởi lẽ quan hệ nhân thân là quan hệ tình cảm, là lợi ích
về tinh thần, việc tòa án buộc họ chấm dứt cuộc sống chung nhưng không thể chấm
dứt được quan hệ tình cảm giữa hai người (trừ trường hợp bị lừa dối, cưỡng ép mà
tự nguyện từ bỏ hôn nhân trái pháp luật).
Đối với quan hệ giữa cha mẹ và con, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con
được pháp luật quy định không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ có
hợp pháp hay không hợp pháp, còn tồn tại hay chấm dứt. Vì vậy, hai người kết hôn
trái pháp luật tuy không phải là vợ, chồng nhưng vẫn là cha mẹ của con chung. Khi
Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 “ quyền lợi của con được giải quyết như trường
hợp cha mẹ ly hôn”. Theo đó, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc giáo
dục nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi mình. Và
người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Như vậy việc tòa
án hủy hôn nhân trái pháp luật không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của cha mẹ
đối với con cái. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con trong trường hợp này không phụ
thuộc vào khả năng kinh tế của người trực tiếp nuôi con. Dù người trực tiếp nuôi

con có khả năng kinh tế để nuôi dạy con thì người không trực tiếp nuôi vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu người trực tiếp nuôi con không yêu
cầu người không trực tiếp nuôi con mà họ hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ khả
năng điều kiện để nuôi dưỡng con thì tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng.
Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con
cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; Nếu con từ đủ
chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba


tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Người
không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm con, nhưng nếu họ lạm dụng quyền
thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc
giáo dục nuôi dưỡng thì người trực tiếp nuôi con có yêu cầu tòa án hạn chế quyền
thăm nom con của họ. Nhưng trong thực tiễn xét xử cho thấy việc xác định người
trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự sau khi hủy việc kết hôn nhân pháp luật rất phức tạp và nhiều khi
dẫn tới mâu thuẫn sâu sắc. Có trường hợp chỉ có một con chung, khi hủy việc kết
hôn trái pháp luật cả hai cùng thiết tha muốn được nuôi con nên họ cùng viện dẫn
lý do để chứng tỏ bên kia không có điều kiện kinh tế, hoàn cảnh công tác hay tư
cách đạo đức… Lại có nhiều trường hợp hai bên không ai chịu nuôi con, trong
trường hợp này vai trò của tòa án là cân nhắc đến quyền lợi về mọi mặt của con mà
quyết định giao cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi để đảm bảo tương lai sau này cho
con. Việc xác định mức cấp dưỡng cũng gặp nhiều vướng mắc nhất định.
Đối với quan hệ tài sản, Khoản 3 điều 17 thì tài sản được chia theo nguyên
tắc: Tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc sở hữu của người đó, tài sản chung chia theo
thỏa thuận của mỗi bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết,
có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
và con. Đối với tài sản riêng, về nguyên tắc, dù người có tài sản có tồn tại hôn nhân
hợp pháp hay bất hợp pháp, tài sản đó vẫn thuộc về chủ sở hữu, khi tòa án hủy hôn

nhân trái pháp luật không làm ảnh hưởng tới quyền sở hữu của họ đối với tài sản
riêng. Vì vậy, nếu những người trong hôn nhân trái pháp luật có tài sản riêng thì
khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật của họ, tài sản riêng ấy vẫn thuộc về
người ấy. Đối với tài sản chung thì do hai người trong hôn nhân trái pháp luật
không phải là vợ chồng nên trong thời gian chung sống nếu họ cùng tạo ra tài sản
thì tài sản đó không phải là tài sản sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khi Tòa


án hủy việc kết hôn trái pháp luật, tài sản chung nếu có được chia theo thỏa thuận
của các bên, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định chia trên cơ sở công
sức đóng góp của mỗi bên trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, tài
sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Tuy nhiên, người có tài
sản riêng phải có nghĩa vụ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Nếu họ
không chứng minh được thì tài sản đó được xác định là tài sản chung. Khi chia tài
sản quyền lợi của người phụ nữ và con đã được đảm bảo và ưu tiên bảo vệ quyền
lợi chính đáng vì họ thường phải làm những công việc nội trợ, chăm sóc con, nuôi
con…. Như vậy luật hôn nhân và gia đình 2000 đã bảo vệ được quyền lợi của
người phụ nữ khi chia tài sản. Đây chính là điểm mới trong luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986.
Trên đây là các hậu quả pháp lý và phương hướng giải quyết hậu quả pháp
lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn. Vấn đề này là một vấn đề phức tạp
trong thực tiễn xét xử cụ thể như ở trên đã nêu nên khi giải quyết vấn đề này cần
linh hoạt, không được quá cứng nhắc trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật
C. Hiện trạng thực tế hiện này và 1 số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này:
1. Thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn theo pháp luật hôn nhân gia đình của Việt
Nam

1.1. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn

Ngày nay, xã hội đã có những bước phát triển lớn, cách nhìn nhận của con người
về hôn nhân, gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều, hiện tượng vi phạm điều kiện kết
hôn về độ tuổi chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền núi, thiểu số.Đường lối xử lý
cũng hết sức mềm dẻo, căn cứ vào tình trạng thực tế của cuộc hôn nhân mà có
trường hợp xử hủy kết hôn trái pháp luật, có trường hợp không hủy kết hôn.


1.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện
Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai chủ thể
nam nữ được pháp luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận và quy định những điều
kiện riêng. Một trong số những điều kiện đó là sự tự nguyện của các bên nam nữ
khi kết hôn "Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được
ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở".Mặt trái của sự tự
nguyện đó chính là những hành vi ép buộc, lừa dối hoặc "cưỡng ép, cản trở" các
bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân là những hành vi vi phạm pháp luật về Hôn
nhân và gia đình. Kết hôn vi phạm sự tự nguyện là một hiện tượng diễn ra khá phổ
biến trong xã hội phong kiến, nhất là đối với những gia đình có địa vị thấp kém
trong xã hội. Ngày nay, hiện tượng này chủ yếu tồn tại ở một số dân tộc miền núi
điển hình như tục "cướp vợ" của người H’mông.
1.3. Kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng
Theo pháp luật Việt Nam thì một người đã có vợ hoặc có chồng nhưng vợ hoặc
chồng đã chết thì được kết hôn với người khác. Sự kiện một người chết có thể hiểu
theo hai ý: đó là chết sinh học và chết pháp lý. Điều cần lưu ý ở đây chính là
trường hợp chết pháp lý, tức là một người bị Tòa án tuyên bố chết nhưng sau đó lại
trở về. Một trường hợp nữa vẫn tồn tại ở Việt Nam đến tận bây giờ đó là những
quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày 25 tháng 3 năm 1977
của Quốc hội về việc "Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam Bắc" và công nhận
một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền nam tập kết ra bắc
mà lấy lại vợ hoặc chồng khác trong những trường hợp này, pháp luật cần được
vận dụng một cách linh hoạt.

1.4. Kết hôn với những người mất năng lực hành vi dân sự 10
Tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định về những
trường hợp cấm kết hôn đã nêu rõ: Cấm những người mất năng lực hành vi dân sự
kết hôn.Như vậy, có thể nói quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết
hôn là một quy định hết sức cần thiết, phù hợp với quy luật tự nhiên của quan hệ
hôn nhân, đảm bảo hạnh phúc thực sự của gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000 ra đời đã bỏ quy định về cấm người mắc bệnh hoa liễu kết hôn.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng một lần nữa thống


nhất với các văn bản khác và đưa ra quy định không đưa người mắc bệnh HIV vào
những trường hợp cấm kết hôn.
1.5. Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những ngƣời có họ
trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc
Xét về mặt khoa học, việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống
để nhằm đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái, sự phát triển bền vững
và hạnh phúc của gia đình. Xét về yếu tố phong tục, tập quán và những quy định về
chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa theo xã hội Việt Nam, thì việc cấm những
người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau còn có tác dụng làm lành mạnh các
mối quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức và truyền thống từ xưa đến nay
của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, hiện tượng kết hôn cận huyết vẫn tồn tại ở một số
dân tộc miền núi và vẫn là một vấn đề vô cùng nhức nhối.
1.6. Kết hôn giữa những người cùng giới tính
Trên thế giới, các cặp đồng tính đã phản ứng rất mạnh mẽ đòi quyền tự do kết hôn,
một số nước như Thụy Điển, Đan Mạch hay Mĩ đã thừa nhận và cho phép kết hôn
giữa những cặp đồng tính. Pháp luật Việt Nam cho phép cá nhân khi có sự nhầm
lẫn về giới tính thì có quyền xác định lại giới tính của mình nhưng không chấp
nhận việc chuyển đổi giới tính. Hiện nay trong dự thảo luật hôn nhân gia đình vấn
đề hôn nhân đồng giới đang đã được đưa vào và được sự quản tâm của nhiều người
dân.Tuy vậy nhiên trong dự thảo vẫn chưa cho phép kết hôn đồng tính mà chỉ bãi

bỏ điều cấm kết hôn đồng giới.
1.7. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn
Điểm mới nổi bật của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đó là: các quy định về
việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn.Đăng ký kết
hôn là một nghi thức bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký
việc kết hôn cho họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Về thẩm quyền
đăng ký kết hôn cũng được quy định rõ theo Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ CP của Chính phủ: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ
thực hiện việc đăng ký kết hôn. Như vậy có thể nhận xét về tình trạng kết hôn vi
phạm điều kiện đăng ký hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Và những vi phạm
đó thường là chỉ được phát hiện khi hai bên có yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa


án. Điều đó chứng tỏ, những vi phạm này là những vi phạm rất khó nhận biết, tuy
không ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi ích của các bên nhưng lại gây khó khăn
cho các cơ quan quản lý hộ tịch trong việc xác định quan hệ hôn nhân, tình trạng
hôn nhân của các công dân
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này:
2.1. Các giải pháp lập pháp
- Về độ tuổi kết hôn, cần xem xét có hạ tuổi kết hôn của nam và nữ xuống
hay không. Do sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội nên tâm sinh lý của giới trẻ
bây giờ đã có sự khác xa với những năm ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình.
Vấn đề này đã được đưa ra tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
hôn nhân và gia đình, cụ thể là khoản 1 Điều 9 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật hôn nhân và gia đình thì vấn đề độ tuổi kết hôn được quy định
nam, nữ “Đủ mười tám tuổi trở lên”. Nếu bản Dự thảo này được Quốc Hội thông
quá sẽ tạo ra sự thay đổi lớn về độ tuổi kết hôn trên cơ sở về điều kiện kinh tế - xã
hội cũng như sự thay đổi tâm sinh lý của giới trẻ hiện nay.
- Cần bổ sung thêm những quy định về kết hôn giữa con riêng của chồng và
con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong
một gia đình

- Cần sửa đổi bổ sung quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 theo hướng quy định việc pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng của
những cặp vợ chồng kết hôn bất hợp pháp kể từ khi họ có quan hệ bất hợp pháp đó,
chứ không phải kể từ khi có quyết định của Tòa án.
- Trong những quy định về xử phạt hành chính khi có những vi phạm về kết
hôn trái pháp luật. Theo Tại nghị định số 87/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001


Về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình cần phải tăng mức xử lý
lên cho phù hợp với những thay đổi chung của toàn xã hội.
- Đối với những trường hợp nhầm lẫn về giới tính, cần khuyến khích họ đi
phẫu thuật để trở về giới tính đúng của mình về mặt y học, sau đó sẽ công nhận họ
về mặt pháp lý. Trong trường hợp mà họ không thế thay đổi về mặt sinh học thì
căn cứ pháp lý cũng nên thừa nhận họ.
- Kết hôn đồng giới; Về việc cấm kết hôn trong phạm vi huyết thống bao
nhiêu đời thì phù hợp…Cần có một sự giải thích cụ thể để có một cách hiểu thống
nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.
2.2. Giải pháp trong việc áp dụng pháp luật
- Thay đổi phương thức quản lý từ hộ gia đình sang quản lý cá nhân theo
chứng minh thư nhân dân nhằm quản lý tốt hơn về tình trạng hôn nhân của mỗi chủ
thể trong xã hội.
- Pháp luật cần đặt ra chế tài cụ thể, nghiêm khắc hơn nữa nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiến hành đăng ký kết
hôn tại cơ sở, tránh thủ tục đăng ký rườm rà.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật tới các tỉnh miền núi kết
hợp với việc đẩy mạnh công tác kế hoạch hóa gia đình.

III. KẾT LUẬN:
Những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn không chỉ xâm phạm tới
những quyền, lợi ích hợp pháp của những chủ thể trong xã hội như những trường

hợp vi phạm sự tự nguyện, vi phạm độ tuổi… mà còn đi ngược lại với những
truyền thống, bản sắc dân tộc. Qua bài viết này, chúng ta có thể đánh giá được


những vấn đề lý luận về vi phạm điều kiện kết hôn trên các góc độ khác nhau, qua
đó nhận thấy đây là một vấn đề vô cũng quan trọng trong đời sống xã hội, cần
được quan tâm đúng mực.
Nghiên cứu về các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn trong đời sống xã
hội hiện nay là vô cùng cần thiết không chỉ nhằm dự liệu thêm các trường hợp phát
sinh, mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa cách khắc phục, giải quyết các
trường hợp vi phạm đó. Có như vậy ý nghĩa của chế định này mới được phát huy,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.

/>
de-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-linh-vuc-hon-nhan-va-gia-dinh--403
2.
/>nts.aspx?NewsID=1-0-36333
3.
/>4.
5.
6.

UAT/View_Detail.aspx?ItemID=632&LanID=828&TabIndex=1
Giáo trình Luật Hôn Nhân và Gia Đình trường Đại Học Luật Hà Nội
Nghị định số 87/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001

Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000, năm 1959, năm 1986



×