Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài tập lớn học kỳ hình sự module 1 (9đ) s và v đều là đối tượng nghiện ma túy vì cần tiền mua ma túy nên s bàn với v rủ cháu t (13 tuổi, cháu họ s

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.93 KB, 9 trang )

ĐỀ BÀI
S và V đều là đối tượng nghiện ma túy. Vì cần tiền mua ma túy nên S bàn
với V rủ cháu T (13 tuổi, cháu họ S) đi Lạng Sơn chơi, rồi lừa bán T sang Trung
Quốc. Hành vi của S và V cấu thành tội mua bán trẻ em theo khoản 2 Điều 120
BLHS.
Hỏi:
1. Tội mua bán trẻ em điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức?
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này.
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải là đồng phạm không? Tại sao?
4. Giả sử V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản
Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm?.

BÀI LÀM
1. Tội mua bán trẻ em điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay CTTP
hình thức?.
1


Tội mua bán trẻ em- điều 120 BLHS là tội phạm có CTTP hình thức.
CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định
thì CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
Điều 120 BLHS- tội mua bán trẻ em: “ 1. Người nào mua bán trẻ em,…
dưới bất kì hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Căn cứ vào
định nghĩa CTTP hình thức, thấy rằng, tại điều 120 tội mua bán trẻ em chỉ có
hành vi khách quan là “ mua bán trẻ em” ( đây là hành vi coi trẻ em như một
món hàng để trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác ) và không có bất kì quy


định nào là hậu quả nguy hiểm xảy ra khi thực hiện hành vi phạm tội “mua bán
trẻ em” trên.
Mặt khác, tội mua bán trẻ em quy định tại khoản 1 điều 120 là tội phạm
rất nghiêm trọng và chỉ quy định 1 hành vi khách quan là dấu hiệu phạm tội, nếu
bất kì người nào có đủ năng lực TNHS và từ đủ 14 tuổi trở lên mà thực hiện
hành vi này với lỗi cố ý thì đều phạm vào tội mua bán trẻ em tại khoản 1 điều
120 rồi, tức là chưa cần biết dấu hiệu hậu quả nguy hiểm có xảy ra hay xảy ra
như thế nào? thì đã phạm tội mua bán trẻ em điều 120 rồi.
Để làm rõ hơn, Giả sử ở khoản 1- Điều 120 BLHS không chỉ quy định
một dấu hiệu hành vi nữa mà quy định thêm dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã
hội xảy ra như “ gây nguy hiểm đến thân thể, sức khoẻ của trẻ em”, hay “ làm
tổn thương tinh thần của trẻ em,…” thì việc quy định trong luật các hậu quả có
thể xảy ra là không thể, dù việc quy định thêm hậu quả đương nhiên làm cho quy
định rõ ràng và cụ thể để mọi người đều hiểu rõ hơn, nhưng xét về góc độ thực tế
thì không cần thiết phải cho thêm vào. Và ở đây việc nhà làm luật không đưa dấu
2


hiệu là hậu quả nguy hiểm vào do những vấn đề sau: Thứ nhất, trong thực tế, một
khi thực hiện hành vi mua bán trẻ em sẽ có rất nhiều hậu quả nguy hiểm có khả
năng xảy ra, thậm chí có những hậu quả rất khó để xác định cụ thể và điều này
không thể ghi hết vào trong điều luật được. Thứ hai: chỉ riêng hành vi nguy hiểm
đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm vì tội phạm quy định tại
khoản 1 điều 120 là tội phạm rất nghiêm trọng gây nguy hiểm rất lớn cho xã hội,
do đó riêng hành vi thôi khi thực hiện cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe,
thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị hại_ trẻ em dưới 16 tuổi.
Do đó, việc không quy định thêm hậu quả là điều tất yếu, một mặt làm cho quy
định không rắc rối về mặt từ ngữ, mặt khác để phòng ngừa hành vi mua bán trẻ
em.
Vì vậy, khẳng định tội mua bán trẻ em theo điều 120 là tội có CTTP

hình thức.
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này.
Lỗi của S và V là lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại khoản 1 điều 9 BLHS “ Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra”.
Trong trường hợp này, S và V đã biết rõ việc mua bán trẻ em là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật ngăn cấm nhưng vẫn thực hiện, vẫn mong
muốn cho hành vi đó xảy ra.
Về lí trí: S và V nhận thức rõ việc lừa bán T sang Trung Quốc là hành vi
mua bán trẻ em_ hành vi nguy hiểm cho xã hội. Việc S và V nhận thức rõ ràng
hành vi của mình như vậy, có thể căn cứ vào các dấu hiệu sau:
Thứ nhất: S và V đều biết T là trẻ em ( 13 tuổi) và lại là cháu họ của S nên
rất dễ tin người, đương nhiên sẽ không thể biết hay không thể đề phòng được
3


những nguy hiểm sẽ xảy ra với mình. Chính vì lợi dụng điểm này mà S và T dễ
dàng rủ T đi chơi xa và bán sang Trung Quốc.
Thứ hai: mục đích của T là cần tiền để mua ma túy nên đã có kế hoạch từ
trước, thông qua việc chúng bàn nhau bắt cóc T 13 tuổi là cháu họ của S để dễ
dàng lợi dụng lòng tin của 1 đứa trẻ nhằm thực hiện được mục đích chính của
chúng.
Do đó ta có thể khẳng định S và V nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện vì nếu không chúng sẽ không bàn
mưu từ trước mà có thể ý định đó chỉ xảy ra ngẫu nhiên, không có dự tính từ
trước, mặt khác chúng cũng có thể lừa đứa trẻ khác không phải là người thân của
chúng để thực hiện hành vi này. Điều này chứng tỏ rằng chúng không muốn hành
vi của mình thất bại, nhằm đạt được mục đính chính là mua ma túy.
Một vấn đề khác được đặt ra: Thông thường, để xác định lối cố ý trực

tiếp thì cần phải đề cập đến ý chí của tội phạm là mong muốn hậu quả phát sinh,
nhưng ở trong trường hợp này, theo phân tích ở câu 1 thì đây là tội phạm có
CTTP hình thức, do đó hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc, do đó không nhất thiết
phải xác định hậu quả mà S và V mong muốn phát sinh, mặc dù chúng xác định
được hậu quả có thể xảy ra cho T.
Vì thế, Lỗi của S và V trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp.

3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải là đồng phạm không? Vì sao?
Nếu S mới 15 tuổi thì S và V vẫn là đồng phạm.
Trong tình huống trên, hành vi của S và V cấu thành tội phạm mua bán trẻ
em theo khoản 2 điều 120 BLHS: “ phạm tội thuộc một trong các trường hợp
4


sau đây thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a, có
tổ chức; b, có tính chất chuyên nghiệp; c,….” mà khung hình phạt cao nhất áp
dụng cho tội phạm trong khoản này là tù chung thân. Căn cứ theo khoản 3 điều 8
BLHS: “…..tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình đối với tội ấy là trên mười lăm
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”, thì tội mua bán trẻ em theo khoản 2 điều
120 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo khoản 1 điều 20 bộ luật hình sự: “ đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Vậy nên, đồng phạm đòi hỏi
phải có những dấu hiệu sau:
Dấu hiệu về mặt khách quan: Có từ hai người trở lên và những người này
có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm; những người này phải cùng thực hiện
tội phạm (cố ý).
Dấu hiệu về mặt chủ quan: Những người cùng thực hiện tội phạm đều có
lỗi cố ý;…

Theo luật hình sự thì: Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS,
đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Như vậy, trong tình huống trên điều kiện về mặt chủ quan đã phù hợp_
Lỗi cố ý trực tiếp. Nhưng về mặt khách quan thì cần phải tìm hiểu rõ về điều
kiện chủ thể của tội phạm.
Thứ nhất: S và V thực hiện hành vi phạm tội đã bị CTTP theo khoản 2
điều 120 BLHS. Như vậy là đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Thứ hai: đạt độ tuổi theo luật định: Căn cứ vào điều 12 BLHS- tuổi chịu
trách nhiệm hình sự: “ 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi phải

5


chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Trong trường hợp này, S 15 tuổi, tội phạm mà S thực hiện là tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng với lỗi cố ý và S không thuộc trường hợp quy địnhh tại điều
13 BLHS-tình trạng không có NLTNHS, thì S thuộc trường hợp tại khoản 2.
“người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Còn trong các
trường hợp còn lại, ví dụ: S chưa đủ 14 tuổi mà thực hiện hành vi trên hoặc 15
tuổi nhưng thực hiện tội phạm nghiêm trọng, thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng với lỗi vô ý,… thì S sẽ không phải chịu TNHS. Như vậy, S phải chịu
TNHS về tội phạm mà mình đã thực hiện.
Do đó, nếu S mới 15 tuổi thì S và V vẫn là đồng phạm.
4. Giả sử V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài
sản Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V là
tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?.
V bị kết án 3 năm về tội cướp giật tài sản điều 136 BLHS và vừa mới

chấp hành xong bản án V lại phạm tội mua bán trẻ em tại khoản 2 điều 120, nên
theo quy định tại điểm b, khoản 2, điều 64 BLHS- đương nhiên được xóa án tích:
“ người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV
của bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết hạn sau đây:
…b, Ba năm trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;….”. thì V không
được xóa án tích vì thời hạn 3 năm chưa hết mà V đã thực hiện tội mới ngay.
Cho nên, tội cướp giật tài sản của V vẫn được tính vào cùng với việc thực hiện
tội mới để xác định T thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.
Tội cướp giật tài sản tại điều 136 BLHS là loại tội được thực hiện với lỗi
cố ý, lần này, V lại phạm tội mới là tội mua bán trẻ em quy định tại khoản 2 điều
6


120 BLHS, có khung hình phạt cao nhất là tù chung thân, mà căn cứ vào khoản 3
điều 8 BLHS: “...,tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc
biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình đối với tội ấy là trên mười
lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” thì đây là tội đặc biệt nghiêm trọng và
do cố ý.
Trong khi đó, V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp
giật tài sản tại điều 136
(Điều 136:“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù
từ một năm đến năm năm;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm: a, có tổ chức; b, có tính chất chuyên nghiệp; c…….
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm: a, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%,…”).
nhưng lại không quy định rõ thuộc trường hợp ở khoản nào vì thời gian 3 năm tù
đều thuộc các khoản 1,2 ,3, do đó cần xét các trường hợp sau:
TH1: Nếu trước đây, B bị xử phạt 3 năm tù theo khoản 1 điều 136 BLHS

thì tội cướp giật mà V thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng ( khung hình phạt
cao nhất tại khoản 1 đến 5 năm tù, và căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS). Do đó,
căn cứ vào khoản 1 điều 49: “ tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng do vô ý”, thì lần phạm tội mua bán trẻ em này V thuộc trường hợp
tái phạm.
TH2: Nếu trước đây, V bị xử phạt 3 năm theo quy định tại khoản 2 hoặc
khoản 3 điều 136 thì tội cướp giật mà V thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng
( khung hình phạt cao nhất của khoản 2 là 10 năm tù, khoản 3 là 15 năm và căn
7


cứ vào khoản 3 điều 8). Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 2 điều 49: “ những
trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a, đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. b, đã tái phạm,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý”, thì lần phạm tội mua bán trẻ em
này V thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, trường hợp phạm tội của V là tái phạm nếu V chấp hành
xong bản án của tội cướp giật tài sản quy định tại khoản 1 điều 136 BLHS. Là
tái phạm nguy hiểm nếu quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều 136 BLHS.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: “ luật hình sự Việt Nam_tập 1” NXB_CAND_Hà Nội_2007

8


2. “Bộ luật hình sự và 79 câu hỏi- bài tập”. Ths luật học Hoàng Anh Tuyên, NXB
lao động xã hội.

3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (phần các tội phạm_tập 1)_Th.s Đinh Văn Quế.
4. Tội phạm và cấu thành tội phạm_PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa_NXB CAND_Hà
Nội_2005.
5. -
6. -hocvientuphap.edu.vn/desktops/news/download.aspx?id=247

9



×