Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài tập nhóm thương mại đề tình huống trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.57 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU................................................................................2
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG..........................................2
1.Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực....................................2
2.Hãy nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và
bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài...5
3.Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?.....................................10
4.Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường thiệt hại
và phạt vi phạm của công ty A và xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà
công ty B phải chịu?...............................................................................................................11

II. KẾT LUẬN.......................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................16


I.
MỞ ĐẦU.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hợp tác và giao lưu thương mại ngày
càng phát triển. Song cùng với đó là các quan hệ thương mại ngày càng trở nên
đa dạng và phức tạp hơn. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể
tránh khỏi.Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề vô cùng phức
tạp do đó việc lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý là một vấn
đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo thúc đẩy các hoạt động thương mại
phát triển thuận lợi. Trên thực tế, tòa án là cơ quan có đủ chức năng để thực hiện
những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp nói chung. Song các đặc
tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt động thương mại thì bên cạnh
tòa án còn có những biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Một trong những biện
pháp đó là “Trọng tài thương mại”. Để phân tích rõ về vấn về này, nhóm chũng
em xin lựa chọn đề bài số 02.
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.


Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của hợp đồng. Tuy nhiên,thỏa thuận đó chỉ có hiệu
lực khi tuân theo những quy định của pháp luật. Luật thương mại 2005 (LTM)
không có quy định cụ thể các điều kiện để hợp đồng mua bán có hiệu lực. Vì
vậy, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa, cần dựa trên những
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định trong Bộ luật dân sự 2005
(BLDS). Căn cứ vào quy định của Điều 122 BLDS và các quy định có liên quan,
có thể xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi có đầy đủ các
điều kiện sau đây:
Thứ nhất, năng lực chủ thể để thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng mua
bán hàng hóa là: có điều kiện thành lập hợp pháp; có nội dung đăng ký kinh


doanh của thương nhân. Đối với việc mua bán những dịch vụ, ngành nghề kinh
doanh có điều kiện thì các chủ thể phải có giấy phép hành nghề kinh doanh. Như
vậy,các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán phải có năng lực chủ thể để thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn hợp đồng mua bán, chủ thể tham
gia hợp đồng mua bán chủ yếu là các thương nhân. Khi tham gia hợp đồng mua
bán nhằm mục đích lợi nhuận, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng
ký kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán. Trường hợp mua bán
sản phẩm, hàng hóa có điều kiện kinh doanh, thương nhân còn phải đáp ứng các
điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định của BLDS 2005 đại diện hợp pháp bao gồm đại diện
theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 140
BLDS). Khái niệm đại diện theo ủy quyền được quy định tại Khoản 1 Điều 142
BLDS như sau: “Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ
quyền giữa người đại diện và người được đại diện”. Đại diện hợp pháp của chủ
thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc là đại diện theo ủy quyền.
Đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền. Khi xác

định thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán, theo quy định tại Điều 145 BLDS,
khi người không có quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán, sẽ
không phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được hợp đồng đại diện, trừ trường
hợp được người đại diện hợp pháp của bên được đại diện chấp thuận. Bên đã
giao kết hợp đồng với người không có quyền đại diện phải thông báo cho bên kia
để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu hết thời hạn này mà không có trả lời thì hợp
đồng đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với bên được đại diện nhưng
người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên đã giao
kết hợp đồng với mình, trừ trường hợp bên đã giao dịch biết hoặc phải biết về
việc không có quyền đại diện.


Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng mua bán không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của hợp đồng là những lợi
ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng. Nội dung
của hợp đồng bao gồm các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất. Để
hợp đồng có hiệu lực và có khả năng thực hiện, pháp luật quy định mục đích, nội
dung của hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hàng hóa là đối
tượng của hợp đồng không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Tùy
thuộc vào từng giai đoạn của nền kinh tế, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước
mà những hàng hóa bị cấm kinh doanh được pháp luật quy định một cách phù
hợp. Vì vậy, đối tượng của hợp đồng phải là những hàng hóa được pháp luật cho
phép trao đổi, mua bán… vào thời điểm giao kết.
Thứ tư, hợp đồng mua bán được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng
theo quy định của pháp luật. Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng đảm
bảo nguyên tắc tự nguyện xuất phát từ quyền tự do ký kết hợp đồng và sự thỏa
thuận của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng tới những lợi ích chính
đáng của các bên đồng thời không xâm hại đến các lợi ích mà pháp luật cần bảo
vệ. Theo Điều 389 BLDS quy định, việc giao kết hợp phải tuân theo những
nguyên tắc: tự do giao kết không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện,

bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những hành vi cưỡng ép,
đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng… là lí do dẫn đến hợp đồng mua bán vô
hiệu.
Thứ năm, hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Để hợp đồng
mua bán có hiệu lực, nội dung hợp đồng phải được xác lập theo những hình thức
được pháp luật thừa nhận. Theo Điều 24 LTM, hợp đồng mua bán hàng hóa được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối
với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được thành
lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Như vậy, hình thức của hợp


đồng chỉ là điều kiện có hiệu lực khi pháp luật có quy định. Bên cạnh pháp luật
quy định với một số hợp đồng lập thành văn bản phải công chứng như: một số
hợp đồng cho thuê, mua bán, …có đối tượng là quyền sử dụng đất, bất động sản,

Ngoài ra, LTM còn có một quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài như chủ thể bên Việt Nam phải là
thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người nước ngoài;
hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật nước
bên mua và nước bên bán; hoạt động mua bán phải lập thành văn bản.
Như vậy, một hợp đồng mua bán hàng hóa được có hiệu lực pháp luật khi tuân
thủ các quy định có hiệu lực của pháp luật. Tuy nhiên, việc LTM không quy định
cụ thể về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã tỏ ra những bất cập nhất định.
Khi xem xét tính có hiệu lực của hợp đồng này phải xem xét trên cơ sở BLDS.
Nhưng điều kiện chủ thể của giao dịch dân sự lại không phản ánh được đặc trưng
quan hệ thương mại.
2. Hãy nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua
bán gạo nói trên và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
• Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng

mua bán gạo.
Theo các quy định tại chương II của LTTM năm 2010 quy định về thỏa thuận
trọng tài thì thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nêu trên là có hiệu
lực.
Điều 18 LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài quy định tại Điều 2 của Luật này.


2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Theo quy định này thì có thể thấy thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán
gạo trên không thuộc các trường hợp vô hiệu. Cụ thể:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài thương mại trên được thực hiện giữa công ty A và
công ty B để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán gạo giữa
hai công ty. Đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại vì vậy mà
tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán gạo giữa hai công ty A và công ty
B thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại (Khoản 1 điều 2
LTTTM).
Thứ hai, Điều 16 Luật TTTM quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài: “Thỏa
thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong
hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Thỏa thuận trọng tài phải được
xác lập dưới dạng văn bản hoặc các hình thức có giá trị tương đương văn bản.

Theo quy định này thì thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo đã thỏa
mãn điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài, cụ thể là thỏa thuận này đã
được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo.
Thứ ba, hai người ký kết hợp đồng mua bán gạo trên đều là giám đốc của hai
công ty. Mà theo quy định tại Điều 95 của Luật doanh nghiệp 2005 thì giám đốc
có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và theo Điều 116


Luật doanh nghiệp quy định về điều kiện của giám đốc công ty và quyền, nghĩa
vụ giám đốc công ty thì có căn cứ cho rằng họ có thẩm quyền và có năng lực
hành vi dân sự để ký kết hợp đồng mua bán gạo trên. Và thỏa thuận trọng tài trên
về việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán gạo giữa công ty
A và công ty B nên không vi phạm điều cấm của pháp luật.
• Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài.
So với các quy định về hiệu lực của thỏa thuận trong tài trong pháp lệnh trọng tài
thương mại ( PL TTTM) thì các quy định về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài trong LTTTM đã có những điểm mới, khắc phục được những hạn chế
của các quy định cuả PL TTTM.
Khoản 6 Điều 18 LTTTM đã đưa ra quy định mới về điều kiện có hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài. Theo đó, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm điều cấm
của pháp luật. Pháp lệnh đã không quy định vấn đề này. Với bản chất là thỏa
thuận trọng tài được xem như hợp đồng. BLDS 2005 đã quy định vi phạm điều
cấm của pháp luật là một trong những trường hợp làm hợp đồng vô hiệu. Vì vậy,
mà việc bổ sung này là cần thiết.
PLTTTM ghi nhận trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “thỏa thuận trọng
tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng
tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa
thuận bổ sung”. Theo quy định này thì pháp luật yêu cầu trong thỏa thuận trọng
tài phải có sự rõ ràng về đối tượng là đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài.

Bởi trên thực tế áp dụng quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc, quy định
này đã hạn chế việc sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp. Đây chỉ là sự thiếu
sót của các bên trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên vẫn
mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết trọng tài. Pháp luật đã lấy thiếu sót của
các bên trong việc trong việc không chỉ đích tên tổ chức trọng tài hoặc ghi tên tổ


chức trọng tài không chính xác, không đầy đủ và vô hiệu hóa ý chí sử dụng trọng
tài. Như vậy, sự không rõ ràng thỏa thuận trọng tài đã loại trừ quyền giải quyết
của trọng tài, mặc dù đây chỉ là sơ suất của các bên trong quá trình xác lập. Vô
hình chung đã phá vỡ sự thỏa thuận tự nguyện đã có giữa các bên. Khắc phục
hạn chế này, quy định này đã không được tiếp tục ghi nhận trong LTTTM. Mà
LTTTM cho phép các bên thỏa thuận lại trong trường hợp không thỏa thuận rõ
tên tổ chức trọng tài. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì bên khởi kiện
có quyền tự do lựa chọn tổ chức trọng tài mag mình cho là phù hợp để khởi kiện
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Khoản 5 Điều 43 LTTTM).
Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng không có cơ quan nào giải
quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, các quy định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong LTTTM vẫn
chưa khắc phục hoàn toàn các hạn chế của các quy định trong PL TTTM cụ thể:
LTTTM vẫn giữ căn cứ làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu như PL TTTM .
Khoản 2 Điều 18 LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “Người xác
lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, giống như pháp lệnh, Luật không hề đề cập đến hậu quả pháp lý của việc
không có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài cũng như không hề ghi nhận
nguyên tắc “mặc nhiên ủy quyền”. Vì vậy, vấn đề này sẽ áp dụng quy định tại
Điều 145 và Điều 146 BLDS 2005 về hậu quả của giao dịch dân sự do người
không có thẩm quyền xác lập, thực hiện và hậu quả của giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Trên thực tế đã việc
tòa án hủy quyết định trọng tài do người ký kết thỏa thuận không có thẩm quyền

riễn ra rất nhiều. Đã có nhiều trường hợp một bên vì muốn trốn tránh trách
nhiệm mà cố tình viện lý do này để yêu cầu hủy quyết định trọng tài giải quyết
không có lợi cho mình, mặc dù trước đó đã công nhận hiệu lực của thỏa thuận


trọng tài. Do đó cần quy định cụ thể, rõ ràng hậu quả của việc ký kết thỏa thuận
trọng tài không đúng thẩm quyền trong pháp luật về trọng tài.
Chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài là một vấn đề quan trọng bởi không phải
bất kỳ ai cũng có thể ký kết thỏa thuận trọng tài. Theo quy định của BLDS 2005
thì đối với cá nhân năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự là hai
khái niệm khác nhau, phát sinh ở những thời điểm khác nhau. Mọi cá nhân đều
có năng lực pháp luật dân sự nhưng không phải ai cũng có năng lực hành vi dân
sự. Đối với pháp nhân, pháp nhân tham gia vào quan hệ pháp luật như một chủ
thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Nhưng khác với năng lực chủ thể của cá nhân,
năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn
tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Như vậy, khi
không có năng lực pháp luật dân sự thì đương nhiên pháp nhân sẽ không có năng
lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi xem xét năng lực chủ thể như một điều kiện có
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài nên xem xét năng lực của cá nhân trực tiếp ký
kết thỏa thuận trọng tài lẫn năng lực chủ thể của pháp nhân. Thay vì “một bên ký
kết thỏa thuận trọng tài” trong pháp lệnh, Luật đã thay bằng cụm từ “người xác
lập thỏa thuận trọng tài”. Tuy nhiên, quy định như luật vẫn không đề cập đến
năng lực dân sự của pháp nhân, trong khi trên thực tế cũng có xảy ra trường hợp
này. Còn vấn đề nữa là cụm từ “theo quy định của Bộ luật dân sự” quy định trên
được hiểu là đối với người nước ngoài là một bên trong vụ tranh chấp trọng tài
giải quyết, năng lực của người đó sẽ được giải quyết theo pháp luật Việt Nam.
Trong khi đó năng lực hành vi của một người thường được xác định theo pháp
luật của nước đó mang quốc tịch. Theo nhóm, nên quy định là “một bên xác lập
thỏa thuận trọng tài không có năng lực dân sự”. Với cách quy định như vậy sẽ

bao quát hơn vì nó bao gồm cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.


3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?
Trả lời: Tòa án không thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A.
Giải thích:
Theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Trong trường
hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa
án thì Tòa án phải từ chối thụ lí, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Như vậy, có hai trường
hợp Tòa án được thụ lý đơn khởi kiện của công ty A. Tuy nhiên, thỏa thuận trọng
tài giữa công ty A và công ty B không thuộc hai trường hợp trên.
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài vô hiệu (Điều 18 LTTTM). Tuy nhiên, như đã
phân tích ở trên, thì thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B có hiệu lực.
Vì vậy trong tình huống nêu trên thì Tòa án không có thẩm quyền giải quyết đơn
khởi kiện của công ty A.
Thứ hai, “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Hiện nay, chưa có 1
văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, nhưng theo quy định tại
Điều 43 LTTTM năm 2010 thì xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thỏa thuận
không thể thực hiện được như sau:.
“3. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung
tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà
không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung
tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án
để giải quyết.
4. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên
trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải
quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để



thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải
quyết.
5. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức
trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh
chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài
cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn
hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu
cầu của nguyên đơn”.
Vì vậy, có thể thấy thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B không thuộc
các trường hợp tại Khoản 3, 4 Điều 43 LTTTM. Hơn nữa theo quy định tại
Khoản 5 Điều này thì khi các bên không thỏa thuận về trung tâm trọng tài cụ thể
thì pháp luật cho phép các bên thỏa thuận lại hoặc bên nguyên đơn (công ty A)
được lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài. Nên đối với trường hợp trên Tóa án
cũng không có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện của công ty A.
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A và xác định giá trị bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu?
a. Các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là các chế tài trong thương mại
được quy định cụ thể tại Điều 292 LTM năm 2005.
• Bồi thường thiệt hại:
Bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 302, Điều 303 Luật Thương mại
năm 2005.


+ Thứ nhất: Điều 302 Luật thương mại năm 2005 quy định: “1.Bồi thường thiệt
hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm.

2.Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm những tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên
bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
+ Thứ hai: thoe Điều 303 LTM 2005 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt
hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Theo như tình huống đề bài đưa ra, để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của
bên A có hợp pháp hay không chúng ta căn cứ vào hai quy định trên. Trước hết ta
phân tích các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ các trường
hợp quy định tại Điều 294 LTM. Một là: Có hành vi vi phạm hợp đồng: không
giao được hàng theo đúng thời hạn, cụ thể là giám đốc công ty cổ phần B ký hợp
đồng mua 1000 tấn gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần A.
Đến thời hạn giao hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Hai là:
có thiệt hại thực tế: công ty A không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị
đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng. Ba là: hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại: hành vi không giao hàng đúng theo thời hạn của
công ty A là nguyên nhân gây ra hậu quả là công ty B không nhận được hàng và
bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng.
=> Như vậy yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty A là đúng pháp luật.
- Phạt vi phạm :
Chế tài phạt vi phạm được quy định tại Điều 300 và 301 LTM năm 2005 :
+ Thứ nhất: Điều 300 LTM 2005 quy định : “Phạt vi phạm là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên bị vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu


trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại
Điều 294 của Luật này”.
+Thứ hai: Điều 301 LTM 2005 quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng nhưng không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm,

trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
Như vậy, nếu trong hợp đồng giữa bên A và bên B có thỏa thuận một bên vi
phạm thì sẽ bị phạt vi phạm thì khi có hành vi vi phạm xảy ra, bên A yêu cầu
mức phạt là 8% giá trị hợp đồng là phù hợp với quy định tại Điều 300 và Điều
301 trừ hai trường hợp ngoại lệ không phát sinh trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm là Điều 266 và Điều 294 của LTM. Còn trong trường hợp hợp đồng giữa
hai bên không thỏa thuận về mức phạt khi xảy ra vi phạm thì trong trường hợp
này yêu cầu phạt vi phạm của bên A là không phù hợp.
b. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải
chịu?
- Giá trị bồi thường thiệt hại:
Khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây
ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm”.
Theo tình huống đề bài đưa ra thì do bên B không giao hàng đúng thời hạn cho
bên A khiến bên A không thực hiện hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi
phạm hợp đồng là 200 triệu đồng. Như vậy, có thể coi đây là giá trị tổn thất thực
tế, trực tiếp mà bên A phải chịu do bên B gây ra. Tiếp theo, chúng ta phải xác
định khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm. Để xác định được khoản lợi trực tiếp mà bên A đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm do bên B gây ra, chúng ta phải xác định


được giá trị của hợp đồng giữa A và đối tác để từ đó xác định được khoản lợi
trực tiếp mà bên A đáng lẽ được hưởng theo công thức:
Khoản lợi trực tiếp (bên A đáng lẽ được hưởng) = Giá trị hợp đồng giữa A và B –
giá trị hợp đồng giữa A và đối tác. Theo như tình huống đề bài đưa ra, ta có thể
thấy giá trị hợp đồng giữa A và B là 10.000.000.000 đồng (10 tỷ đồng) tương
đương với 1000 tấn gạo (10.000/kg).

Căn cứ và mức tiền phạt vi phạm ( 200 triệu đồng) mà đối tác của A đã phạt bên
A, giả thiết trong hợp đồng giữa A và đối tác không có thỏa thuận về mức phạt vi
phạm và lựa chọn áp dụng mức phạt vi phạm cao nhất theo LTM 2005 (không
quá 8 %) thì giá trị hợp đồng giữa A và đối tác là: 2.500.000.000 đồng
(200.000.000 là 8% của 2.500.000.000 đồng ).
Khoản lợi trực tiếp ( đáng lẽ A được hưởng) = 10.000.000.000 – 2.500.000.000 =
7.500.000.000 đồng.
Như vậy, giá trị bồi thường thiệt hại mà bên B phải chịu là 200.000.000 +
7.500.000.000 = 7.700.000.000 đồng.
- Giá trị phạt vi phạm:
Đối với trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng thì giá trị
phạt vi phạm sẽ được tính theo quy định tại Điều 301 LTM. Trước hết, chúng ta
cần phải xác định giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (trừ trường hợp quy
định tại Điều 266 LTM 2005) trong tình huống đề bài đưa ra là bao nhiêu? Theo
quan điểm của nhóm, giá trị phần nghĩa vụ của hợp đồng trong trường hợp này
có giá trị là 10.000.000.000 đồng (10 tỷ đồng) tương đương 1000 tấn gạo
(10.000 đồng/kg). Do trong hợp đồng giữa bên A và bên B không có thỏa thuận
mức phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng nên chúng ta áp dụng mức phạt cao nhất
(8%) theo quy định tại Điều 301 của LTM.
Như vậy, mức phạt vi phạm hợp đồng của bên A đối với bên B là 8% của 10 tỷ
đồng tương đương với 800 triệu đồng.


II.
KẾT LUẬN.
Các phương thức giải quyết tranh chấp vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
sự ổn định và thúc đấy sự phát triển của các hoạt động thương mại. Do vậy, Việt
Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng mà vững
chắc thì chúng ta cần phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình
nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp với xu thế của thế giới.

Trên đây chúng em đã đi giải quyết từng yêu cầu của đề bài. Tuy nhiên do kiến
thức còn hạn chế nên bài làm không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, nhóm
rất mong nhận được sự góp ý của thầy (cô) và các bạn để bài làm được hoàn
thiện hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại, tập II – Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội năm 2011.
2. Về thẩm quyền của Trọng tài thương mại và những lưu ý trong hoạt động
thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài - ThS. Nguyễn Thị Hằng
Nga, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 7/2006.
3. Một số vấn đề pháp lý về thoả thuận trọng tài ở Việt Nam: Khoá luận tốt
nghiệp - Sin Tha Vông Phim chăn Tha Phone; Người hướng dẫn: ThS.
Đoàn Trung Kiên, Hà Nội 2006 .
4. Thoả thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế và quy định của
pháp luật về thoả thuận trọng tài ở Việt Nam: Khóa luận tốt nghiệp - Trần
Thị Ngọc Anh; Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn TrungTín, Hà Nội
2011.
5. Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thoả thuận trọng tài theo Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010: Khóa luận tốt nghiệp - Trần Thanh Huyền ; Người
hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, Hà Nội 2012.
6. Hiệu lực của thoả thuận trọng tài : Khoá luận tốt nghiệp - Mỵ Thị Phương
; Người hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Viết Tý, Hà Nội 2012.
7. Luật thương mại năm 2005.
8. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
9. Bộ luật Dân sự năm 2005.
10. Luật doanh nghiệp 2005.
11. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.



ĐỀ BÀI:
Tháng 1/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua 1000 tấn gạo
(giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn giao
hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A
không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200
triệu đồng. Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt
hại 500 triệu đồng và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B
không chấp thuận. Công ty A quyết định khởi kiện ra Tòa án.
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương
mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và
bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A.
Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp
pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty
B phải chịu?



×