Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển việt nam – những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.61 KB, 10 trang )

Mục lục
A . ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................. 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................................2
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM.....................................................................................2
1. Chủ quyền quốc gia.........................................................................................2
2. Chủ quyền trên biển của quốc gia.....................................................................2
3. Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia.....................................................2
II. THỰC TIỄN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG BIỂN CỦA VIỆT
NAM..................................................................................................................3
1. Các Cơ sở pháp lí để bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam............3
1.1. Các VBPL về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền trên biển.....4
1.2. Các VBPL đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của
Việt Nam.............................................................................................................4
2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam.............5
2.1 Quy chế pháp lí đối với tàu thuyền nước ngoài..................................................5
2.2 Tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam................5
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN.............................6
1. Trong lĩnh vực pháp luật..................................................................................6
a) Trong lĩnh vực lập pháp....................................................................................6
b) Trong lĩnh vực hành pháp.................................................................................6
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển...................7
IV. HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN...............8
1. Trong lĩnh vực pháp luật:.................................................................................8
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển....................9
C. KẾT LUẬN....................................................................................................9
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

1


A . ĐẶT VẤN ĐỀ


Nước ta có bờ biển dài 3.260km và diện tích các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền rộng trên 1 triệu km 2 . Vùng biển nước ta có vị trí quan trọng về an ninh - quốc
phòng và nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Trong năm nay, biển đảo và
đặc biệt là vấn đề bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo đã trở thành chủ đề được quan
tâm ở trong nước, nhất là khi tình hình Biển Đông đang "nóng lên" trước các hoạt động
ngày càng mạnh bạo của hải quân Trung Quốc. Vậy vấn đề bảo vệ chủ quyền trên các vùng
biển của Việt Nam hiện nay như thế nào? Còn tồn tại vấn đề gì? Và hướng khắc phục ra
sao? Phạm vi nghiên cứu của bài viết sẽ đề cập đến những yếu tố quan trọng này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lí của quốc gia bao gồm hai nội dung
là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc
gia khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Lãnh thổ quốc gia được giới hạn bởi đường biên giới
quốc gia.
2. Chủ quyền trên biển của quốc gia
Chủ quyền trên biển là quyền tối cao của quốc gia đối với vùng biển nằm bên trong
đường biên giới quốc gia trên biển bao gồm vùng nội thủy và vùng lãnh hải;
Đường biên giới quốc gia trên biển được xác định là đường gianh giới phía ngoài của
lãnh hải mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng
cách bằng chiều rộng lãnh hải.
Đường biên giới quốc gia trên biển của nước CHXHCN Việt Nam được xác định là
đường gianh giới phía ngoài của lãnh hải mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất
của đường cơ sở một khoảng cách bằng 12 hải lí.
3. Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia
Theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 ( gọi tắt
là công ước 1982), tính từ bờ biển ra bên ngoài, biển và đại dương được chia thành ba bộ
phận có chế độ pháp lí khác nhau đó là:
- Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia ( lãnh thổ quốc gia trên biển) gồm các
vùng nôi thủy và lãnh hải;

- Các vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền ( không phải là lãnh thổ quốc gia
nhưng quốc gia có các quyền chủ quyền về kinh tế và các quyền tài phán về các
lĩnh vực như nghiên cứu khoá học về biển, lắp đặt, sử dụng các công trình thiết bị
nhân tạo, bảo vệ môi trường biển…), gồm các vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa;
Các vùng biển nằm ngoài phạm vi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ( các
vùng biển chung của cộng đồng quốc tế), gồm các vùng biển quốc tế và đáy đại dương.
Ta tìm hiểu một số khái niệm của các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia:
Nội thủy là vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, là
một vùng biển gắn với đất liền, là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, tại đó quốc gia ven
biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Chính vì vậy trong vùng nội thủy quốc gia ven
biển sẽ được thực hiện đầy đủ quyền lập pháp ,hành pháp, tư pháp giống như trên đất
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

2


liền. Mọi luật lệ do quốc gia ban hành đều được áp dụng cho vùng nội thủy mà không có
bất kì một ngoại lệ nào. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các
vùng nội thủy( trừ quy định tại khoản 2 điều 8 của Công ước 1982).
Trong khái niệm nêu trên chúng ta thấy có thuật ngữ đường cơ sở, có xác định được
đường cơ sở mới có thể xác định các bộ phận khác. Đường cơ sở chính là ranh giới phía
trong của lãnh hải, ranh giới phía ngoài của nội thủy. Theo quy định tại điều 5 và điều 7
công ước 1982 có hai phương pháp để xác đinh đường cơ sở đó là phương pháp đường
cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng.
Lãnh hải là vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều rộng không vượt quá 12 hải lý.
Tại đây quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng và sử dụng
mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền “qua lại không gây hại” mà
không cần xin phép nước chủ. Việc “đi lại gây hại” đối với quốc gia ven biển được quy
định tại khoản 2 điều 19 Công ước 1982. Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc “qua

lại không gây hại” này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
II. THỰC TIỄN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG BIỂN CỦA VIỆT
NAM
1. Các Cơ sở pháp lí để bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam
Là một quốc gia trải dài dọc theo bờ biển nên trong lịch sử Việt Nam thường bị các
nước tấn công xâm lược từ biển. Vì vậy cơ sở pháp lí để khẳng định chủ quyền và bảo vệ
biên giới quốc gia của Việt Nam trên biển đã được hình thành ngay từ rất sớm. Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan về biển: Ngày 12/5/1977, Chính phủ ta ra
Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam và ngày 12/11/1982, Chính phủ ta ra Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải; ngày 23/6/1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ V đã ra
Nghị quyết phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982; Luật Biên giới quốc gia ngày
17/6/2003 và Nghị định 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 về Quy chế Khu vực biên giới
biển... Ngoài ra, nước ta đã đàm phán phân định vùng biển với một số nước có vùng biển
tiếp giáp (với Trung Quốc ở vịnh Bắc Bộ; với Thái Lan ở vùng biển Tây Nam; phân định
Thềm lục địa (TLĐ) với Inđônêxia). Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức công
tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và giữ gìn an ninh
trật tự trên các vùng biển của nước ta; đồng thời là cơ sở để tiếp tục tiến hành đàm phán
phân định ranh giới vùng biển với các nước liên quan.
Khi nước nhà thống nhất, chủ quyền trên biển của Việt Nam lại được tái khẳng định
trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất là Hiến pháp. Điều 1 các bản Hiến pháp
năm 1980 và năm 1992 (đã sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nước CHXHCN Việt Nam là
một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải
đảo, vùng biển và vùng trời”.
1.1. Các VBPL về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền trên biển
Để cụ thể hóa Hiến pháp và từng bước chuyển hóa các quy định của công ước Luật
biển năm 1982 vào trong các quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam, pháp luật về bảo
vệ chủ quyền, an ninh trên biển của Việt Nam, nhà nước đã ban hành một hệ thống VBPL
quan trọng về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền biển cụ thể như sau:
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế


3


- Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về quy chế pháp lí cho tàu thuyền nước ngoài
hoạt động trên các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, việc kiểm soát trên
các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam được giao cho các lực lượng sau: Hải quân
nhân dân Việt Nam và các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam; Cảnh sát nhân dân Việt Nam
làm nhiệm vụ tuần tra trên biển; Bộ đội biên phòng Việt Nam, các lực lượng nửa vũ trang
trên các tàu thuyền vận tải và tàu thuyền đánh cá của Việt Nam; Các lực lượng kiểm soát
chuyên môn của các ngành Hải quan, y tế, kiểm dịch của Việt Nam...
- Luật an ninh quốc gia năm 2004 quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam trên biển
- Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 1996 quy định về tổ chức và hoạt động của lực lượng
dân quân tự vệ
- Pháp lệnh bộ đội biên phòng năm 1997 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức của Bộ đội biên phòng;
- Pháp lệnh cảnh sát biển năm 1998 quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn,
phạm vi hoạt động và cơ cấu tổ chức của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam
- Nghị định 41/2001/NĐ-CP ngày 24/07/2001 của Chính phủ ban hành quy chế phối
hợp thực hiện quản lí nhà nước về hoạt động của lực lượng cảnh sát biển và phối hợp hoạt
động giữa các lực lượng trên các vùng biển và thềm lục địa; việc phân định vùng hoạt động
của các lực lượng tham gia phối hợp trên các vùng biển và thềm lục địa.
1.2. Các VBPL đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của
Việt Nam
- Các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như: Pháp lệnh xử phạt về phạm
hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2008); Nghị định số 92/1999/NĐ-CP ngày
04/9/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; Nghị định số
137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và
thềm lục địa nước CHXHCN Việt Nam; Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 của

Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản…
- Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 đã đưa ra một số loại tội phạm có hành vi
phạm pháp luật về biển, hàng hải cần được xử lý bằng pháp luật hình sự như: Tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ (Điều 212); Tội cản trở giao
thông đường thủy (Điều 213); Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường thủy
không đảm bảo an toàn (Điều 214);...
- Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 1990 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) ; Luật Giao
thông đường thuỷ nội địa năm 2004; Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 29/01/2003 về
vận tải đa phương thức quốc tế, …
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực về khai thác thuỷ sản, dầu
khí biển; nghiên cứu khoa học biển; về du lịch biển đảo; môi trường biển…
2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam
2.1 Quy chế pháp lí đối với tàu thuyền nước ngoài
Các tàu thuyền của Việt Nam hoặc nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt
Nam thì phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Quy chế hoạt động của tàu thuyền theo pháp luật
Việt Nam hiện hành cũng đề cập tới các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật Việt Nam
trong trường hợp tàu thuyền có vi phạm, như Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 04/09/1999 quy
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

4


định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính như cảnh cáo, phạt tiền; tước quyền sử dụng
bằng, giấy phép, giấy chứng nhận, tịch thu tang vật....
Tàu thuyền nước ngoài ra vào phải xin phép và phải đáp ứng các điều kiện về neo
đậu, đi qua theo pháp luật Việt Nam. Những vi phạm của tàu dân sự nước ngoài được áp
dụng các biện pháp mang tính chất chế tài như: Buộc tàu thuyền nước ngoài thể hiện rõ tư
cách pháp lí của tàu; can thiệp cần thiết vào lịch trình của tàu để kiểm tra khám xét nếu có
dấu hiệu khả nghi xâm phạm đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam; lập biên bản
bắt giữ tàu thuyền và người vi phạm; khi cần thiết có thể sử dụng biện pháp quân sự đối với

tàu vi phạm; thực hiện quyền truy đuổi đối với tàu vi phạm bỏ trốn; áp dụng các hình phạt
như cảnh cáo, thu hồi giấy phép, trục xuất…
Lực lượng cảnh sát biển là lực lượng có thẩm quyền xử phạt tại các vùng nội thủy,
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và cả thềm lục địa của Việt Nam. Quyền xử phạt hành
chính của cảnh sát biển Việt Nam được đặt ra trong các lĩnh vực an linh trật tự, an toàn, bảo
vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản hay tài nguyên khoáng sản hoặc đối với việc
chống các hành vi buôn lậu.
2.2 Tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam
Lực lượng bảo vệ chủ quyền trên biển của Việt Nam hiện nay bao gồm: hải quân,
cảnh sát biển, dân quân tự vệ. Ngoài ra, khu vực ven biển từ đường cơ sở trở vào còn có
biên phòng và kiểm ngư... Quy chế phối hợp các lực lượng sẽ giao cho Bộ Quốc phòng xây
dựng.
Dân quân tự vệ biển tổ chức và trang bị tương tự như đất liền, nhưng có đặc thù khác
là phải gắn hoạt động kinh tế với việc bảo vệ biển.Ví dụ, mỗi đội tàu có một tổ vừa lo đánh
cá, vừa lo bảo vệ trong khu vực tọa độ nhất định. Khi bị tấn công, tổ đó vừa liên hệ với bờ,
vừa phối hợp với tổ khác để bảo vệ tài sản.
Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của
Việt Nam trên biển, đảo. Nhiệm vụ của Hải quân là quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng
biển, đảo thuộc chủ quyền quốc gia của Việt Nam, giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi
phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên
biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển, đảo theo quy định
của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm
kiếm, cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; sẵn
sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công trên
hướng biển. Các tàu hải quân, tàu cảnh sát biển tuần tra trên vùng biển thuộc chủ quyền của
mình để cảnh giác sự xâm nhập của các tàu lạ, tàu nước ngoài, kịp thời ngăn chặn và xua
đuổi. Hải quân Việt Nam tổ chức các buổi tuyên truyền cho các cấp lãnh đạo địa phương
ven biển cùng ngư dân về vị trí, tầm quan trọng biển, đảo của nước ta, cũng như hoạt động
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Ngày 29/8/2009, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thành lập thêm Vùng 2 hải quân để

bảo vệ chủ quyền TLĐ phía Nam, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế giáp Trường Sa. Nhiệm
vụ chính của hải quân Vùng 2 là quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển từ Bình Thuận đến
Bạc Liêu, trong đó có khu vực trọng điểm là vùng biển có các cụm kinh tế - khoa học - dịch
vụ thuộc TLĐ phía Nam .
Đài Tiếng nói Việt Nam đã phủ sóng toàn bộ khu vực Biển Đông. Tầm phủ sóng là
3.500 km tính từ bờ biển, bao gồm toàn bộ khu vực lãnh hải Việt Nam và hầu hết những
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

5


vùng đánh bắt cá xa bờ của ngư dân. Ngoài việc giúp phòng tránh thiên tai, cứu hộ cứu nạn
cho ngư dân, đây còn là hành động khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam.
Ngoài ra, Quốc hội và Chính phủ cũng đang xem xét việc tăng cường đầu tư kinh phí
cho bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển và thành lập các đội dân quân tự vệ biển, xây dựng
và ban hành luật dân quân tự vệ.
Đối với tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển đặc biệt là tranh chấp trên biển
Đông, Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và các vùng biển liên quan; Việt Nam đã đưa ra các chứng cứ lịch sử và dẫn
chiếu các quy định pháp luật của công ước luật Biển quốc tế năm 1982 để chứng minh chủ
quyền quốc gia đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm của Việt Nam là phải kiên quyết
bảo vệ chủ quyền quốc gia, khi xảy ra tranh chấp với các nước trong khu vực, phải giải
quyết qua ngoại giao, thương lượng hòa bình, tránh sử dụng sức mạnh quân sự .
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
1. Trong lĩnh vực pháp luật
a) Trong lĩnh vực lập pháp
Tuy đã có rất nhiều văn bản pháp quy quy định các vấn đề thuộc lĩnh vực chủ quyền
và bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam nhưng hầu hết các văn bản này là các
văn bản luật riêng rẽ, điều chỉnh từng ngành, từng lĩnh vực. Việc phân tán các nội dung này
trong quá nhiều các văn bản luật mà không có một văn bản điều chỉnh chung sẽ dẫn đến việc

giải quyết các vấn đề phát sinh trong bảo vệ chủ quyền biển không theo kịp với tình hình và
không chính xác.Cùng với sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, dự án Luật Biển
đã được đề ra từ cách đây hơn mười năm, từ nhiệm kì Quốc hội khóa X. Tuy nhiên cho đến
giờ, vì nhiều lí do khách quan và chủ quan, dự án luật này vẫn chưa thể trở thành hiện thực.
Trong khi với tư cách là một luật riêng về biển, Luật Biển sẽ tạo cơ sở pháp lí vững chắc để
góp phần khẳng định chủ quyền vùng biển của Việt Nam một cách đầy đủ và rõ ràng.
b) Trong lĩnh vực hành pháp
Các chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm của tàu thuyền nước ngoài còn chưa đủ
mạnh.Trong thực tiễn áp dụng chế tài hành chính cho thấy bất cập giữa các quy định của các
văn bản về xử phạt VPHC và việc áp dụng các quy định đó vào trong quá trình thực thi pháp
luật trên các vùng biển về hiệu lực của văn bản, về thẩm quyền xử lý vi phạm, mức phạt tiền
cao thấp khác nhau đối với các hành vi vi phạm hành chính trong cùng lĩnh vực, dẫn đến các
cơ quan có thẩm quyền thường áp dụng các hình thức phạt theo các nghị định ban hành cuối
cùng xét về thời gian ban hành văn bản, trong khi các văn bản pháp luật trước đang còn hiệu
lực. Ví dụ: Điều 24 Nghị định 30/CP về quy chế cho tàu nước ngoài hoạt động trên các vùng
biển, quy định phạt một số tiền lên đến 10.000 đồng, điều này không trái với pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính với mức phạt tiền thấp nhất là 5000 đồng, nhưng không phù hợp vì
không đủ sức răn đe với các hành vi vi phạm trên các vùng biển và thềm lục địa.
Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây, qua tài liệu báo cáo sơ kết hàng năm của
TANDTC, chế tài hình sự chưa được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm các cùng đánh
bắt hải sản hoặc thực hiện quyền tài phán hình sự đối với một ngoài nước ngoài trên một
con tàu đang đi qua vô hại trong lãnh hải Việt Nam bởi vì hiện nay, Việt Nam chưa có quy
định hướng dẫn việc xét xử các hành vi vi phạm trên từng vùng biển và các loại tội phạm
trên biển như các loại tội phạm về điều khiển phương tiện hàng hải, tội vi phạm các quy
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

6


định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên, các tội gây ô nhiễm môi

trường biển…
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển
Thứ nhất: Thời gian qua, chúng ta đang tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế,
nên chưa đầu tư nhiều cho quốc phòng - an ninh. Đối với các lực lượng vũ trang, bảo vệ chủ
quyền trên biển thì tinh thần xả thân chiến đấu có thừa, nhưng trang thiết bị thì chưa đồng
bộ, có nơi thiếu thốn, công tác đào tạo nhân sự trong quản lí biển cũng chưa thật sự đạt được
hiệu quả cần thiết. Đội ngũ cán bộ tham gia đào tạo nguồn nhân lực biển hiện còn thiếu về
số lượng và trong một số trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Do vậy, nguồn
nhân lực phục vụ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển còn thiếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu của chiến lược vươn ra biển mà Đảng và Nhà nước ta đề ra.
Thứ hai: Hiện nay công tác quản lí vùng biển của chúng ta chưa thống nhất, còn
chung chung. Chúng ta chưa xây dựng được một kế hoạch quản lý vùng ven biển tổng quát,
xác định quyền sử dụng tài nguyên đất và nước thống nhất trong cả nước, do vậy trong
phạm vi vùng ven biển của mỗi tỉnh thành phố, mỗi địa phương tự điều chỉnh chương trình
quản lý vùng ven biển phù hợp với bối cảnh và nhu cầu của địa phương mình.
Thứ ba: Thông tin về biển, đảo và các vùng chủ quyền trên biển còn thiếu cập nhật ,
công tác tuyên truyền về lĩnh vực này còn những hạn chế, chưa được tiến hành một cách
đồng bộ, thường xuyên, liên tục. Nội dung, hình thức tuyên truyền chưa hấp dẫn, chưa
hướng mạnh về cơ sở, đến tận người dân, nhất là khu dân cư vùng biển, đảo và ven biển. Sự
hiểu biết pháp luật về biển và ý thức giữ gìn tài nguyên, môi trường biển của người dân còn
hạn chế đã hạn chế ít nhiều đến hoạt động bảo vệ chủ quyền biển của nước ta, đặc biệt là
trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay là một khiếm khuyết rất lớn. Các thông tin
đối ngoại liên quan đến biển và đảo còn thiếu và bất cập, có giành được sự đồng tình ủng hộ
của thế giới hay không là nhờ thông tin. Nhưng hiện nay chúng ta rất thiếu các ấn phẩm
chứa đựng thông tin bằng các thứ tiếng để chuyển tải ra thế giới. Điều này đã khiến nhiều
kênh thông tin và người dân nước ngoài nhầm lẫn hoặc chưa hiểu được chủ quyền của Việt
Nam. Đơn cử như Google Earth đã có thời gian công bố thông tin quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là thuộc Trung Quốc.
Thứ tư: Tình hình liên quan đến chủ quyền trên biển Đông, nhất là ở khu vực vùng
biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn

định.
Hiện tượng tàu thuyền của ngư dân ta đánh bắt xa bờ trên các vùng biển thuộc các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị nước ngoài bắt, cướp đoạt tài sản và đòi tiền nộp phạt
ngày càng tăng. Theo thống kê của ngành an ninh, trong 5 năm trở lại đây, chỉ riêng tỉnh
Quảng Ngãi có 195 tàu/1.906 ngư dân bị nước ngoài bắt, hiện còn 16 tàu, 90 ngư dân chưa
được trả về địa phương. Đó là chưa kể có 2 ngư dân bị tàu nước ngoài bắn chết, 7 ngư dân
bị bắn bị thương. Từ đó đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là ngư dân lo sợ cho tính mạng và tài
sản nên không còn đánh bắt tại các địa điểm còn tranh chấp, hơn nữa là chuyển đổi sang các
ngành nghề trên đất liền. Bởi chưa có các chính sách hỗ trợ ngư dân, chúng ta đã và đang
mất dần những quyền lợi trên biển mà đáng lẽ ra chúng ta phải được hưởng.
Tranh chấp các khu vực khai thác tài nguyên thiên nhiên trên vùng biển chung đang
diễn biến phức tạp và chưa đi đến một thỏa thuận chung. Điều này đã làm ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động khai thác cũng như vảo vệ chủ quyền của nước ta. Đơn cử như khu vực
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

7


tranh chấp biển Đông mà Trung Quốc hiện nay đã tuyên bố về “đường lưỡi bò”, đưa phương
tiện thăm dò dầu khí vào khu vực biển Đông trên vùng biển thềm lục địa của Việt Nam.
Tuyên bố và động thái này đã dẫn đến việc tài nguyên dầu khí tại thềm lục địa của nước ta
chịu sự đe dọa từ phía Trung Quốc. Chúng ta không những không có quyền khai thác tài
nguyên mà hoạt độnh bảo vệ quyền chủ quyền còn bị ảnh hưởng. Do vậy, giải quyết tranh
chấp về quyền lợi của các bên liên quan tại các khu vực biển là một vấn đề cấp bách hiện
nay.
IV. HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
Từ những phân tích về các hạn chế của công tác bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển
của Việt Nam, nhóm chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế
đó:
1. Trong lĩnh vực pháp luật:

Thứ nhất: Về mặt pháp lý, cần phải sớm có Luật biển Việt Nam mang tầm quốc gia,
xây dựng trên cơ sở Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, để tuyên bố với thế giới về các
vùng biển của nước ta. Khi đã có luật, cần tiến tới ký hiệp định với các quốc gia chung vùng
biển với Việt Nam, nhất là Trung Quốc, Philippines..., xây dựng bộ nguyên tắc ứng xử trên
biển Đông.
Phải tổ chức rà soát, hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật về biển để nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã quá đỗi lỗi thời; ban hành các văn bản pháp luật mới
về biển mang tầm quốc gia nhằm từng bước tiến hành xây dựng cho được một hệ thống
đồng bộ các luật, văn bản quy phạm pháp luật về biển mang tính chất pháp lý cao nhằm điều
chỉnh các hoạt động bảo vệ chủ quyền trên biển, trên cơ sở phù hợp với pháp luật và thực
tiễn quốc tế. Đồng thời thể hiện được quan điểm, lập trường và đáp ứng yêu cầu của nhà
nước ta trong tăng cường quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền của nước ta trên biển, đảo.
Thứ hai: Mở rộng phạm vi, vai trò và chức năng của các cơ quan lập pháp như Tòa
án, Viện kiểm sát các cấp trong việc tố tụng, xét xử các vụ việc vi phạm về chủ quyền các
vùng biển của Việt Nam.
Việt Nam cần liên kết với các tổ chức quốc tế để thành lập Toà án quốc tế để giải
quyết, xét xử các tranh chấp trên biển. Đồng thời Việt Nam cũng cần phối hợp với các quốc
gia trong khu vực và thế giới trong việc xét xử các tội phạm quốc tế khi vi phạm chủ quyền
vùng biển Của Việt Nam.
Xây dựng những quy định pháp luật cụ thể về hướng dẫn xét xử các tội phạm có hành
vi xâm phạm các cùng đánh bắt hải sản hoặc thực hiện quyền tài phán hình sự đối với một
ngoài nước ngoài trên một con tàu đang đi qua vô hại trong lãnh hải Việt Nam
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển
* Cần nâng cao năng lực quản lý biển của các cơ quan chức năng, cán bộ quản lý:
Tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng lực lượng vũ trang chuyên trách, nòng cốt để
quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia thực sự vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng cao, có quân số và tổ chức hợp lí.
Đào tạo trong và ngoài nước đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý biển nhiều về số
lượng, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được nhu cầu phát triển biển có đủ nghị lực và
trí tuệ tham gia giải quyết tranh chấp trên biển bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp trên

trường quốc tế.
Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

8


* Thành lập dân quân bảo vệ chủ quyền biển, tình hình biển Đông đang có diễn biến
phức tạp, cần phải tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam, nhất là
lợi ích của ngư dân.
Bảo vệ biên giới quốc gia phải dựa vào dân, trực tiếp là đồng bào các dân tộc ở biên
giới. Xây dựng nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh để quản
lí, bảo vệ biên giới quôc gia đặc biệt là biên giới quốc gia trên biển. Vận động quần chúng
nhân dân ở khu vực biên giới tham gia tự quản đường biên, mốc quốc giới; bảo vệ an ninh
trật tự khu vực biên giới, biển, đảo của tổ quốc;
Cần thường xuyên cập nhật các thông tin về các vùng biển đảo của Việt Nam; tiến
hành xây dựng kế hoạch tuyên truyền một cách đồng bộ, thường xuyên, liên tục, đổi mới về
Nội dung và hình thức tuyên truyền sao cho hấp dẫn, hướng về cơ sở, đến tận người dân,
nhất là khu dân cư vùng biển, đảo và ven biển.
* Thực tế hiện nay nước ta có một số tranh chấp về chủ quyền ở vùng đảo Hoàng sa,
Trường sa. Nhưng vụ việc tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Xuất phát từ lịch sử,
kinh tế, chính trị của nước ta mà nước ta cần có những chiến lược khôn khéo, tránh giải
quyết tranh chấp bằng những xung đột mà nước ta lên giải quyết tranh chấp bằng con đường
hoà bình, và cần đưa vụ việc tranh chấp ra toà án quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng không
ngừng kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế.
C. KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, nhận thấy rằng công tác bảo vệ chủ quyền trên các vùng
biển của Việt Nam tuy đã đạt được những ưu điểm và thành tựu bước đầu, tuy nhiên vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề hạn chế và bất hợp lí. Hy vọng những giải pháp mà nhóm chúng tôi đưa
ra sẽ đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật biển và công tác bảo vệ chủ
quyền trên các vùng biển của Việt Nam.


Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế

9


Tài liệu tham khảo :
1. Công ước của LHQ về luật biển năm 1982
2. www.wikipedia.org
3. Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật Biển Việt Nam (nhà xuất bản
Chính trị quốc gia)
4. Giáo trình Luật Quốc tế (Trường đại học luật Hà Nội)
5. www.hoangsa.org
6. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ.
7. Hiệp định về Vùng nước lịch sử của Việt Nam và Campuchia

Bài tập nhóm số 1 - môn Công pháp Quốc tế 10



×