Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bài tập nhóm luật hôn nhân và gia đình đường lối xử lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.73 KB, 17 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kết hôn đã trở thành một chế định được quy định độc lập trong hệ thống pháp
luật về Hôn nhân và gia đình. Dù pháp luật đã quy định, nhưng không ít các trường
hợp vẫn vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định. Vậy thì đường lối xử lí việc vi
phạm điều kiện kết hôn là như thế nào? Và giải pháp để hoàn thiện vấn đề đó ra sao?
Để làm rõ các vấn đề đó nhóm em đã chọn chủ đề “Đường lối xử lý các trường hợp vi
phạm điều kiện kết hôn và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này" làm
đề tài nghiên cứu cho bài tập nhóm tháng của mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Kết hôn và điều kiện kết hôn hợp pháp.
1. Khái niệm kết hôn
Hôn nhân là cơ sở để hình thành một gia đình – tế bào của xã hội. Trong mỗi
chế độ xã hội, gia đình vẫn thực hiện các chức năng cơ bản mang tính chất xã hội. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn.
Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn .
Hệ thống pháp luật của nước ta quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ
quan có thẩm quyền và phải đảm bảo hai yếu tố là: phải thể hiện ý chí của cả nam và
nữ là được kết hôn với nhau; phải được nhà nước thừa nhận.
2. Các điều kiện kết hôn hợp pháp.
a. Điều kiện về tuổi kết hôn.
Theo quy định tại khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân gia đình, tuổi kết hôn của nam
là hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên. Luật Hôn nhân và gia đình quy
định độ tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của co người, căn cứ vào
các điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuổi kết hôn được quy định tại Điều 9 Luật
Hôn nhân và gia đình là tuổi tối thiểu cho phép nam nữ kết hôn. Khi đến tuổi luật
định, nam nữ kết hôn vào tuổi nào là tùy theo hoàn cảnh công tác, điều kiện sinh hoạt
và sở thích của mỗi người.
1



Cách tính tuổi kết hôn: Khoản 1 Điều 9 quy định tuổi kết hôn là “nam từ hai mươi
tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Theo quy định này không bắt buộc nam
phải đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn mà
chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là có thể kết hôn.
b. Phải có sự tự nguyện của hai bên khi nam nữ kết hôn.
Khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Việc kết hôn
do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào;
không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”.
Tự nguyện hoàn toàn trong viêc kết hôn là hai bên nam nữ tự mình quyết định
việc kết hôn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên
nam nữ không bị tác động bởi bên kia hay của bất kì người nào khiến họ phải kết hôn
trái với nguyện vọng của họ. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn
phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt
đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện của các bên trong
việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại.
Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, những người muốn kết hôn phải
cùng có mặt tại cơ quan đăng kí kết hôn nộp tờ khai đăng kí kết hôn, pháp luật không
cho phép cử người đại diện trong việc đăng kí kết hôn, đồng thời pháp uật cũng không
cho phép những người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng kí kết hôn. Như vậy, về nguyên
tắc, khi tổ chức đăng kí kết hôn, hai bên nam nữ phải có mặt tại nơi đăng kí kết hôn.
c. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2000, việc kết hôn bị
cấm trong các trường hợp sau: Cấm kết hôn đối với những người đang có vợ hoặc có
chồng; Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn; Cấm những người cùng dòng
máu về trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ
2


thích thuộc kết hôn với nhau; Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Việc cấm
kết hôn như vậy góp phần ngăn ngừa nhiều hậu quả tiêu cực có thể xảy ra.

d. Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình 2000 và Điêu 57
Bộ luật dân sự 2005 thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện theo nghi thức do pháp luật quy định. Về thẩm quyền đăng ký
kết hôn: Theo quy định tại Điều 17 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về đăng ký hộ tịch và Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì Ủy ban
nhân dân xã nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn giữa
công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau ở nước ngoài. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Luật hôn nhân và
gia đình 2000 thì ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
II. Thực trạng việc thực hiện điều kiện kết hôn ở nước ta.
Thực trạng kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn: Vi phạm về độ
tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ kết hôn chưa đạt
đến độ tuổi mà pháp luật quy định (nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi trở lên), trường hợp
kết hôn vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn. Mặc dù đã 12 năm thực hiện Luật
hôn nhân và gia đình, song tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống vẫn diễn ra khá
phổ biến ở các tỉnh Tây Bắc. Có những xã tỷ lệ tảo hôn trong độ tuổi từ 12 đến 17 lên
đến 50%. Ví dụ tại tỉnh Sơn La, ở 26 xã điểm trong ba năm gần đây có 6.200 cặp vợ
chồng tảo hôn, chiếm hơn 23% trong tổng số cặp vợ chồng kết hôn. Nguyên nhân dẫn
đến tảo hôn là do nhận thức của người dân tộc thiểu số, người nông thôn còn hạn chế,
phong tục tập quán lạc hậu. Nhất là đối với đồng bào dân tộc thì vẫn còn quan niệm
con gái để quá thì sẽ khó lấy chồng.

3


Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện: Khoản 2 Điều 9 Luật hôn

nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết
định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản
trở". Mặt trái của sự tự nguyện đó chính là những hành vi ép buộc, lừa dối hoặc
"cưỡng ép, cản trở" các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân; là những hành vi vi
phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình. Kết hôn vi phạm sự tự nguyện là một hiện
tượng diễn ra khá phổ biến trong xã hội phong kiến, nhất là đối với những gia đình có
địa vị thấp kém trong xã hội. Ngày nay, hiện tượng này chủ yếu tồn tại ở một số dân
tộc miền núi điển hình như tục "cướp vợ" của người H’mông. Ở thành phố, việc ép
buộc kết hôn đôi khi còn xuất hiện ở gia đình có cha (mẹ) ép buộc con kết hôn vì mục
đích kinh tế, trả nợ,…
Kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng: Điều 2 Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000 đã khẳng định một trong những nguyên tắc của hôn
nhân đó là hôn nhân một vợ - một chồng. Một trường hợp tồn tại ở Việt Nam đến tận
bây giờ đó là những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày 25
tháng 3 năm 1977 của Quốc hội về việc "Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam
Bắc" và công nhận một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền
Nam tập kết ra bắc mà lấy lại vợ hoặc chồng khác. Trong những trường hợp này, pháp
luật cần được vận dụng một cách linh hoạt.
Kết hôn với những người mất năng lực hành vi dân sự: Quy định cấm người
mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là một quy định hết sức cần thiết, phù hợp với
quy luật tự nhiên của quan hệ hôn nhân, đảm bảo hạnh phúc thực sự của gia đình.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ra đời đã bỏ quy định về cấm người
mắc bệnh hoa liễu kết hôn. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
cũng một lần nữa thống nhất với các văn bản khác và đưa ra quy định không đưa
người mắc bệnh HIV vào những trường hợp cấm kết hôn.

4


Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong

phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc: Ngày nay, hiện tượng kết hôn
cận huyết vẫn tồn tại ở một số dân tộc miền núi và vẫn là một vấn đề vô cùng nhức
nhối. Tại tỉnh Sơn La nơi có nhiều dân tộc sinh sống, theo Chi cục Dân số-Kế hoạch
hóa gia đình, ở 26 xã điểm trong ba năm gần đây có gần 800 trường hợp kết hôn cận
huyết thống, chiếm gần 3% so với tổng số cặp kết hôn tại địa bàn. Kết hôn cận huyết
thống là nguyên nhân dẫn đến trẻ em sinh ra mắc các bệnh bạch tạng dị dạng, tan
huyết bẩm sinh, nhẹ cũng mù màu, vẩy nến vẩy rồng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống của nhiều thế hệ gia đình. Đôi khi việc kết hôn với những người cận huyết
thống, có họ trong phạm vi ba đời không thể xác định được.
Kết hôn giữa những người cùng giới tính: Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép cá
nhân khi có sự nhầm lẫn về giới tính thì có quyền xác định lại giới tính của mình và
không chấp nhận việc chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên do thực trạng hiện nay về kết
hôn đồng tính đang diễn ra ngày càng phổ biến đòi hỏi nhà nước cần sớm đưa ra
những giải pháp cụ thể để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Thời gian qua ở nước ta, có
nhiều cặp đồng tính nam, đồng tính nữ tổ chức đám cưới gây nhiều phản ứng trái
chiều. Đơn cử là giữa năm 2012, một cặp đồng tính nam tổ chức lễ cưới ở Hà Tiên
nhận không ít phản hồi trái chiều trên các trang báo và cộng đồng mạng. Hay chuyện
ở một vùng quê thuộc tỉnh Cà Mau, một cặp đồng tính nữ yêu nhau và cưới nhau.
Chính quyền biết được, mời hai cô và gia đình lên giải thích rằng: “Theo Khoản 5,
Điều 10 Luật Hôn nhân gia đình, cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Đây
chỉ là hai trong số rất nhiều cặp đồng tính nam và nữ tổ chức đám cưới hoặc công
khai hoặc bí mật.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn: Đăng ký kết hôn là một
nghi thức bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn cho
họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Tình trạng nam nữ sống chung như vợ
chồng diễn ra ngày càng phổ biến đặc biệt là đối với đối tượng sinh viên đi học và
5


sống xa nhà; hay cũng có thể xảy ra trong trường hợp một hoặc hai bên đã qua 1 lần

kết hôn, sau đó hôn nhân chấm dứt do li hôn hoặc do vợ (chồng) chết, khi tuổi cao
mới nương tựa nhau hoặc do 2 bên “quá lứa lỡ thì” nên sống chung mà ngại làm thu
tục kết hôn. Thực trạng này đang diễn ra phổ biến ở các thành phố. Việc tự ý sống
chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn đã làm hạn chế về quyền lợi giữa hai
bên khi xác lập quan hệ vợ chồng
Như vậy, có thể nhận xét về tình trạng kết hôn vi phạm điều kiện đăng ký hiện
nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Và những vi phạm đó thường là chỉ được phát hiện
khi hai bên có yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án. Điều đó chứng tỏ, những vi phạm
này là những vi phạm rất khó nhận biết, tuy không ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi
ích của các bên nhưng lại gây khó khăn cho các cơ quan quản lý hộ tịch trong việc
xác định quan hệ hôn nhân, tình trạng hôn nhân của các công dân.
II. Đường lối xử lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn.
Nguyên tắc xử lý chung. Về nguyên tắc, Nhà nước sẽ không thừa nhận các
trường hợp kết hôn mà thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc cả hai bên nam
nữ khi kết hôn. Do vậy, việc kết hôn trái pháp luật do kết hôn trước tuổi luật định hay
do cưỡng ép, lừa dối sẽ bị Toà án nhân dân xử huỷ. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật
nhằm bảo đảm việc chấp hành nghiêm chỉnh Luật và thể hiện thái độ phủ định của
Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, huỷ việc kết hôn
trái pháp luật sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái
pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp trên, Toà án phải điều tra
làm rõ hành vi vi phạm, mức độ vi phạm cũng như hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là
phải xem xét và đánh giá thực chất quan hệ tình cảm giữa hai người từ khi kết hôn
cho đến khi toà án xem xét cuộc hôn nhân đó, để từ đó toà án có quyết định xử l ý
đúng đắn, bảo đảm thấu tình đạt lý.
1. Đối với trường hợp kết hôn trước tuổi luật định (tảo hôn) – vi phạm khoản
1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
6


Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002 quy định về điều kiện kết

hôn là : “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Vậy việc kết hôn
trước tuổi luật định là nam đã kết hôn khi chưa 19 tuổi 1 ngày, còn nữ chưa đủ 17 tuổi
1 ngày. Việc quy định độ tuổi kết hôn, các nhà làm luật đã căn cứ vào phong tục tập
quán của nhân dân và tâm sinh lí phát triển của con người cũng như liên hệ đến một
số các chính sách của nhà nước về vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy, khi
việc kết hôn đối với trường hợp kết hôn trước tuổi luật định là có căn cứ để Toà án xử
huỷ việc kết hôn đó khi có yêu cầu. Tuy vậy, khi giải quyết các trường hợp này cần
phải xem xét và đánh giá quan hệ tình cảm giữa các bên kể từ khi họ kết hôn cho đến
khi Toà án xem xét và giải quyết việc kết hôn của họ.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả
hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên
tuy đã đến tuổi kết hôn nhưng cuộc sống của họ trong thời gian qua không hạnh phúc,
không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên đã
đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ chung sống bình thường, hạnh phúc đã có con
chung, có tài sản chung thì không quyết định hủy kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát
sinh quan hệ mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để
giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
b. Đối với trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn.
Khi việc kết hôn có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối thì được xác định là có căn
cứ để Toà án xử huỷ việc kết hôn đó khi có yêu cầu. Tuy vậy, khi giải quyết các
trường hợp này cần phải xem xét và đánh giá quan hệ tình cảm giữa các bên kể từ khi
họ kết hôn cho đến khi Toà án xem xét và giải quyết việc kết hôn của họ. Theo quy
định tại điểm 2 - khoản d - điều 2 - Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
7


dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì:

- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống
không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì quyết định huỷ việc kết hôn trái
pháp luật.
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép
buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống
hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh
mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải
quyết việc ly hôn theo thủ tục chung.
Theo quy định tại khoản a, Điều 7 Nghị định số 87/2001/NĐ-PC ngày
21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia
đình thì phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành
vi cưỡng ép người khác kết hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc
bằng thủ đoạn khác. Và theo quy định tại điều 146 Bộ Luật Hình sự nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 thì người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái
với sự tự nguyện của họ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách
của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến ba năm. Còn theo quy định tại khoản đ, điều 2 Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm
2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
khi giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà xét thấy hành vi vi phạm có
dấu hiệu cấu thành tội phạm thì Toà án yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp khởi tố vụ án
hình sự. Nếu Viện kiểm sát cùng cấp không đồng ý thì Toà án có thể kiến nghị với
Viện kiểm sát cấp trên xem xét; nếu Viện kiểm sát cấp trên cũng không đồng ý thì Toà
án tiếp tục giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo thủ tục chung.
8


Trong trường hợp Viện kiểm sát Trong trường hợp Viện kiểm sát đồng ý khởi tố vụ án
hình sự thì Toà án áp dụng điểm d, khoản 1, Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các

vụ án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Sau khi vụ án hình sự được
xét xử xong và bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án tiếp tục
giải quyết theo thủ tục chung.
c. Người đang có vợ, có chồng lại kết hôn hoặc chung sống với người khác
như vợ chồng - vi phạm khoản 1 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình.
Đối với trường hợp này, Tòa án nhân dân cần xử hủy việc kết hôn trái pháp
luật hoặc ra quyết định chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó. Tuy nhiên khi xử
lý cần lưu ý những trường hợp sau:
- Đối với cán bộ, bộ đội ở miền Nam, đã có vợ (có chồng) ở miền Nam tập kết
ra miền Bắc năm 1954 lại lấy vợ hoặc chồng khác ở miền Bắc thì theo hướng dẫn tại
thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao, đây là những trường
hợp ngoại lệ có vi phạm khoản 1 Điều 10 Luật HN & GĐ nhưng không nhất thiết phải
xử hủy việc kết hôn sau của họ mà tùy trường hợp, Tòa án nhân dân các cấp giải
quyết khi có yêu cầu của các đương sự. Tòa án có thể giải quyết cho ly hôn nếu các
đương sự thật sự mong muốn chấm dứt hôn nhân. Trong trường hợp người vợ hoặc
chồng trước ở miền Nam yêu cầu việc hủy kết hôn của chồng hoặc vợ mình với người
ở miền Bắc thì Tòa án cần giải thích cho họ thấy rõ hoàn cảnh của đất nước dẫn tới
tình trạng này và khuyên họ rút đơn. Nếu không rút đơn thì “tòa án đưa ra xét xử và
trong trường hợp đó không thỏa mãn được yêu cầu của đương sự”. Cá biệt nếu sau
khi điều tra có bằng chứng rõ ràng rằng người tập kết đã có vợ, có chồng ở miền Nam
lại nói dối là chưa co, nay người vợ hoặc người chồng lấy sau cho rằng bị lừa dối nên
xin hủy việc kết hôn của họ thì Tòa án xử hủy việc kết hôn đó.
- Một người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng đã trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài mà kết hôn với người khác, nếu khi có yêu cầu hủy
việc kết hôn sau họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước thì không quyết
9


định hủy việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu sau đó mới phát sinh
mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để giải quyết ly

hôn theo thủ tục chung.
d. Đới với trường hợp kết hôn vi phạm các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 10 Luật
Hôn nhân và gia đình.
Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình quy định việc kết hôn bị cấm trong những
trường hợp sau: Đối với người mất năng lực hành vi dân sự; Giữa những người có
cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Giữa cha
mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố
chồng với con dâu, mẹ chồng với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với
con riêng của chồng; Giữa những người cùng giới tính
Đối với các trường hợp kết hôn vi phạm các điều cấm này thì khi có yêu cầu
Tòa án cần xử hủy việc kết hôn mà không có ngoại lệ nào.
e. Đối với trường hợp vi phạm Điều 12 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia
đình.
Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về thẩm quyền đăng kí
kết hôn: “Ủy ban nhân dân xã, phương, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết
hôn là cơ quan đăng kí kết hôn; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt
Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng kí kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở
nước ngoài”.
Như vậy khi hai bên là công dân Việt Nam cưới nhau tại Việt Nam thì sẽ đăng
kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn – nơi cư trú của một trong hai
người. Khi hai công dân Việt Nam cưới nhau ở nước ngoài thì đăng kí kết hôn tại cơ
quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Trong việc kết hôn giữa công
dân Việt Nam với công dân nước ngoài thì đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh
hoặc thành phố trực thuộc Trung ương nơi công dân Việt Nam thường trú. Tuy nhiên
trong thực tế vẫn có nhiều trường hợp đăng kí kết hôn không đúng thẩm quyền như
đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân mà một trong hai người kết hôn không ai cư trú.
Đối với trường hợp này việc đăng kí kết hôn không có giá trị pháp lý.

10



Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về việc tổ chức đăng kí kết hôn:
“Khi tổ chức đăng kí kết hôn phải có sự có mặt của hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện
cơ quan đăng kí kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai
bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng kí kết hôn trao giấy chứng nhận kết hôn
cho hai bên”. Như vậy nếu việc kết hôn không theo nghi thức về tổ chức đăng kí kết
hôn thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, trong thực tế có một số
trường hợp vì lý do khách quan mà khi tổ chức đăng kí kết hôn chỉ có một bên tham
gia, nhưng nếu trước khi tham gia đăng kí kết hôn họ đã thực hiện đúng các điều quy
định tại khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình và sau khi đăng kí kết hôn họ thực
sự về sống chung với nhau thì việc kết hôn đó vẫn được coi là hợp pháp.
g. Đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng
kí kết hôn theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình.
Theo quy định tại Điều 11 Luậy hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc kết hôn
phải được đăng kí và do cơ quan đăng kí kết hôn thực hiện theo nghi thức pháp luật
đã quy định. Kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực (Ngày 01/01/2011) nhà
nước ta chỉ thừa nhận nam nữ là vợ chồng khi họ được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn. Theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
09/06/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
hướng giải quyết đối với các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không
đăng kí kết hôn như sau:
- Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng kí kết hôn thì được
khuyến khích đăng kí kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và
giải quyết theo quy định về ly hôn.
- Trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày
01/01/2001 đến ngày 01/01/2003. Trong thời hạn này họ không đăng kí kết hôn nhưng
có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải quyết. Từ sau

11


ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì Tòa án không công nhận họ là vợ
chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng của
họ phát sinh từ ngày họ đăng kí kết hôn và nếu sau đó họ có yêu cầu ly hôn thì Tòa án
thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung.
- Nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng
kí kết hôn (trừ hai trường hợp trên) thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đường lối xử lý các trường hợp vi
phạm điều kiện kết hôn.
a. Về điều kiện kết hôn.
Quy định về tuổi kết hôn có thể hoàn thiện theo cách sau:
Cách 1: Quy định tuổi kết hôn tối thiểu là “nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ
18 tuổi trở lên”. thì mới được kết hôn.
Cách 2: Quy định tuổi kết hôn đối với nam và nữ như nhau, đều “từ đử 18 tuổi
trở lên”. Điều này đảm bảo cho sự bình đẳng giữa nam và nữ.
Việc quy định độ tuổi kết hôn theo một trong hai cách trên đều phù hợp với quy
định trong Bộ luật dân sự năm 2005 về người thành niên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ (Điều 18,19 Bộ luật dân sự năm 2005). Ngoài ra, pháp luật Hôn nhân và gia
đình cần có sự xem xét điều chỉnh về vấn đề này sao cho phù hợp với các điều kiện
địa lý, đặc điểm và trình độ dân cư, quan tâm tới các phong tục tập quán tốt đẹp của
địa phương để có thể giảm độ tuổi kết hôn tối thiểu đối với các vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu vùng xa. Từ đó sẽ hạn chế phần nào việc kết hôn trái pháp luật (tảo hôn).
b. Điều kiện về sự tự nguyện của các bên:
Trong thực tiễn xét xử, cưỡng ép kết hôn được hiểu là hành vi của một người
thứ ba chứ không phải của một trong hai bên kết hôn. Trong trường hợp này pháp luật
nên xác minh một cách nghiêm ngặt hơn lý do dẫn đến hôn nhân của hai bên nam nữ.
Sau khi chắc chắn rằng họ thực sự có tình cảm với nhau và cùng thống nhất đi tới
hôn nhân thì mới xác nhận đơn đăng ký kết hôn của họ.

Trong thực tiễn có những việc kết hôn được xem như là trái với pháp luật, trái
đạo đức xã hội nhưng lại không thuộc diện kết hôn trái pháp luật theo quy định tại
khoản 3 Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy ngoài việc quy định rõ
12


về việc “lừa dối để kết hôn”, Luật Hôn nhân và gia đình cần xem xét trường hợp đó là
“kết hôn giả tạo”. Đó là việc kết hôn không vi phạm pháp luật, cả hai có đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng thực chất việc kết hôn
không nhằm mục đích xây dựng gia đình và chung sống lâu dài vì những mục đích
khác nhau để có nơi cư trú, được nhập hộ khẩu được có gia sản… Luật cũng không
đưa ra đường lối giải quyết việc kết hôn giả tạo có bị xử lý hay không. Bởi vậy, Luật
Hôn nhân và gia đình cần hoàn thiện vấn đề này, coi hôn nhân “giả tạo” là vi phạm sự
tự nguyện của các bên và cần bị hủy bỏ. Ngoài ra cũng cần phải có những quy định
cụ thể về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài.
c. Các trường hợp cấm kết hôn:
Về năng lực hành vi: Pháp luật nên thừa nhận người mất năng lực hành vi dân
sự được kết hôn trong trường hợp nếu có người có đủ năng lực hành vi dân sự hoàn
toàn tự nguyện kết hôn với người mất năng lực hành vi đó với mục đích yêu thương,
chăm sóc. Điều đó phù hợp với truyền thống đạo đức của nhân dân ta, đồng thời cũng
đảm bảo sự tôn trọng quyền tự do cam kết của con người.
Đối với vấn đề kết hôn cùng giới tính: Nghị định số 88/2008/NĐ-CP của
Chính Phủ ngày 5/8/2008 quy định về việc xác định lại giới tính cho phép những
người bị khiếm khuyết về giới tính được xác định lại giới tính. Những người chuyển
đổi giới tính phải có những người khiếm khuyết về bộ phận sinh dục, về nhiễm sắc
thể mà có thể xác định được bằng phương pháp y học tiên tiến. Sau khi xác định lại
giới tính họ được phép đăng ký lại hộ tịch. Các quyền dân sự khác liên quan đến hộ
tịch, trong đó có quyền kết hôn, phải được thực hiện. Điều này thể hiện sự tôn trọng
quyền của con người được sống với đúng giới tính của mình, đồng thời xóa bỏ những
kì thị, xa lánh đối với họ.

Những người được coi là đồng tính về tâm lý mà không có khuyết tật về giới
tính bẩm sinh thì không được xác định lại giới tính vì đây là những người đã hoàn
thiện về giới tính nhưng có sự lệch lạc về tâm lý theo sở thích của mình, mong muốn
cảm tính của cá nhân hoặc về nhu cầu thương mại, gian dối trong thi đấu thể thao…
Trên thế giới cũng đã có nhiều quốc gia công nhận việc kết hôn đồng giới như
Tây Ban Nha, Hà Lan, Canada…Vì vậy, nếu Luật Hôn nhân và gia đình chỉ quy định
13


cấm kết hôn với những người cùng giới tính một cách chung chung thì chưa có tính
thuyết phục, chưa đầy đủ. Do đó, các nhà làm luật cần đưa ra những quy định phù
hợp. Cụ thể là những đối tượng khiếm khuyết về bộ phận sinh dục, về nhiễm sắc thể
mà điều đó được chứng minh bằng phương pháp y học thì được phép kết hôn. Còn
những người không có khiếm khuyết đó mà chuyển đổi giới tính vì lí do khác thì
không được kết hôn. Điều này hoàn toàn phù hợp với đạo đức gia đình Việt Nam.
Xã hội đang ngày càng phát triển khiến cho số lượng những người đồng tính
cũng tăng lên chóng mặt trong vài năm gần đây. Chính vì vậy các nhà làm luật cũng
nên có những suy nghĩ đúng đắn và nhân đạo hơn khi quyết định có nên ngăn cấm
hay không việc kết hôn giữa hai người đồng giới. Khoa học đã chứng minh việc một
người bị đồng tính là do những tác nhân về mặt sinh lý trong quá trình thụ thai chứ
không phải là tác nhân về mặt xã hội. Nó giống như một loại bệnh mà người mắc phải
sống với nó cả đời. Vậy pháp luật nước ta cấm những người đồng giới kết hôn với
nhau phải chăng là một sự vi phạm nhân quyền?.
d. Các giải pháp khác
Thứ nhất, Nhà làm Luật cần có quy định hiệu quả mang tính chất chế tài đối
với người có lỗi trong vụ đổ vỡ của hôn nhân. Việc làm như vậy làm gắn kết vợ chồng
hơn, giúp cho các cặp vợ chồng có tinh thần trách nhiệm với nhau hơn, nếu ai vi phạm
sẽ bị pháp luật nghiêm trị.
Thứ hai, Tòa án cần phải điều tra đầy đủ, làm rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ
chồng, đánh giá đúng mức tình trạng hôn nhân. Tòa án chỉ giải quyết cho vợ chồng ly

hôn khi xét thấy thực sự quan hệ hôn nhân đã đến mức “ tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Thứ ba, Hòa giải việc ly hôn của vợ chồng có vai trò rất quan trọng. Người
thực hiện việc hòa giải là người có tác dụng quan trọng trong việc đoàn tụ, củng cố
gia đình bền vững. Do đó, khuyến khích việc hòa giải đoàn tụ trong việc ly hôn.

14


Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là các vùng
núi cao, dân tộc thiểu số. Bằng việc tổ chức các đoàn tuyên truyền pháp luật, đưa các
cán bộ chuyên nghành hôn nhân và gia đình về những địa phương còn khó khăn để
phổ biến pháp luật một cách đầy đủ. Cần nâng cao trình độ pháp lý của cán bộ tư pháp
xã, phường, những người chịu trách nhiệm trong việc xác nhận đăng kí kết hôn. Bởi
đây là những người gần gũi với dân nhất, đồng thời cũng là người có thể xác minh,
giải quyết vụ việc đầu tiên.
C. KẾT THÚC
Thực trạng về việc tuân thủ các điều kiện kết hôn ở nước ta còn nhiều bất cập.
Bên cạnh đó, quy định về đường lối xử lý đối với các trường hợp vi phạm điều kiện
kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bên cạnh mặt tích cực còn nhiều
điểm hạn chế. Điều đó đòi hỏi các nhà làm luật phải tiếp tục tìm ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này sao cho phù hợp với thực tiễn đời sống của người
dân, để dân thực sự tin tưởng và hiểu pháp luật, để qua đó dân nâng cao ý thức thực
hiện pháp luật. Để làm được điều đó thì cần nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền,
giải thích pháp luật đối với các nơi dân tộc thiểu số - nơi trình độ dân trí còn thấp,
thường xuyên xảy ra tình trạng vi phạm các điều kiện kết hôn.

MỤC LỤC

Trang

A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………...1
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………………1
I. Kết hôn và điều kiện kết hôn hợp pháp……………………………………………..1
15


1. Khái niệm kết hôn…………………………………………………………………..1
2. Điều kiện kết hôn hợp pháp………………………………………………………...1
II. Thực trạng việc thực hiện điều kiện kết hôn ở nước ta…………………………….3
III. Đường lối xử lý đối với các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn………………6
1. Trường hợp kết hôn trước tuổi luật định……………………………………………7
2. Trường hợp bị cướng ép hoặc bị lừa dối kết hôn…………………………………...8
3. Trường hợp có vợ có chồng mà chung sống với người khác như vợ chồng………..9
4. Vi phạm khoản 2, 3, 4, 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình…………………….10
5. Vi phạm Điều 12 và Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình…………………………10
6. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn……….11
IV. Các giải pháp……………………………………………………………………..12
C. KẾT THÚC………………………………………………………………………..15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Tài liệu từ sách:
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2012.
16


- Đại học Huế, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2003.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. CAND,

Hà Nội, 2012.
- Luận văn về thực trạng nạn tảo hôn ở việt Nam.
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

2. Tài liệu từ Internet:
- />
17



×