Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

học kỳ lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.51 KB, 6 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Có thể nói, bộ luật Hammurabi và luật La Mã là hai bộ luật toàn diện và tiến bộ
nhất trong lịch sử pháp luật cổ đại. Một trong những điểm tiến bộ rõ nét của 2 bộ luật
này chính là lĩnh vực dân sự. Vì lẽ đó, bài tiểu luận của em sau đây xin đi sâu phân tích
vấn đề: So sánh lĩnh vực luật dân sự của bộ luật Hammurabi và luật La Mã thời
cộng hòa hậu kì.
B. NỘI DUNG CHÍNH.
I. Khái quát chung về hai bộ luật.
Bộ luật Hammurabi là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, được tạo ra vào
khoảng thập niên 1760 TCN ở Babylon cổ đại, do vị vua thứ sáu là Hammurabi ban
hành. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá nhiều văn bản trước đó và sự kế
thừa luật lệ người Xu-me, người Amôrít. Đây là một bộ luật tương đối hoàn chỉnh của
thời kì cổ đại gồm 282 điều. Là một bộ luật tổng hợp, Hammurabi được xây dựng dưới
dạng luật hình, gồm các qui phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài,
chủ yếu là đối với những quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích của giai cấp thống trị.
Luật pháp La Mã ra đời rất sớm vào khoảng thế kỉ VI – IV TCN khi nhà nước La
Mã hình thành. Tuy nhiên, thời kỳ cộng hòa hậu kì trở đi là giai đoạn phát triển hưng
thịnh nhất của Luật La Mã. Vì vào thời kỳ này, lãnh thổ của đế quốc La Mã được mở
rộng nhất và nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh. Luật La Mã lúc này có những phát
triển vượt bậc như: đưa ra nhiều khái niệm chuẩn xác, có giá trị pháp lý cao, kỹ thuật
lập pháp chuẩn xác, từ ngữ rõ ràng, trong sáng. Thêm đó, bộ luật điều chỉnh hầu hết các
quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến, đặc biệt là các quan hệ trong lĩnh vực dân sự.
II. Những nét tương đồng và điểm khác biệt về lĩnh vực dân sự trong bộ luật
Hammurabi và luật La Mã thời cộng hòa hậu kì.
1. Những nét tương đồng cơ bản:
- Nguồn của hai bộ luật nói chung và luật dân sự nói riêng: bao gồm các quyết
định của vua hay hoàng đế (ở đây là vua Hammurabi và các hoàng đế La Mã) và sự kế
thừa các tập quán, các bộ luật của thời kì trước hay các quốc gia bị chiếm đóng.
- Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự trong hai bộ luật
hết sức đa dạng và phong phú bởi một nguyên nhân chủ yếu sau: nền kinh tế hàng hóa ở
hai quốc gia này phát triển mạnh.


1


- Vì lẽ trên, các chế định của luật dân sự trong cả hai bộ luật hết sức phong phú,
bao quát hầu hết các quan hệ dân sự như: quyền sở hữu, hợp đồng, hôn nhân và gia
đình, thừa kế.
- Nội dung của một số chế định luật dân sự có sự tương đồng nhau, cho thấy sự
tiến bộ hơn cả của hai bộ luật so với những bộ luật khác trong thời kì cổ đại.
2. Những điểm khác biệt cơ bản:
a. Đối tượng điều chỉnh:
Lĩnh vực luật dân sự trong bộ luật Hammurabi bao gồm hầu như các quy định
liên quan đến quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân hầu như vắng bóng. Nếu có cũng
chỉ một số ít trong chế định hôn nhân và gia đình.
Luật dân sự La Mã điều chỉnh không những quan hệ tài sản mà còn cả những
quan hệ nhân thân phát sinh giữa công dân La Mã với nhau, giữa người La Mã và người
không có quốc tịch La Mã, giữa công dân và nô lệ. Ví dụ như các quy định về quốc tịch
La Mã, danh dự, uy tín, xác định quyền công dân cho đứa trẻ khi sinh ra, …
b. Chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự:
Về các loại chủ thể nói chung:
Lĩnh vực dân sự trong bộ luật Hammurabi chỉ thừa nhận một chủ thể duy nhất là
cá nhân. Bộ luật không hề có quy định nhắc đến pháp nhân hay các chủ thể khác.
Trong luật La Mã, thuật ngữ “pháp nhân” cũng không tồn tại. Tuy nhiên, trong
các quan hệ dân sự đã có sự xuất hiện phổ biến của các tổ chức như tôn giáo, hội buôn,
tổ chức kinh tế và các tổ chức này thông qua hành vi của người đại diện tham gia các
quan hệ tài sản vì lợi ích của tổ chức. Bên cạnh đó, luật đã công nhận quyền của một tổ
chức của nhiều người với một tài sản nhất định như lập quỹ dù chưa quy định đó là
pháp nhân. Tài sản của quỹ sở hữu chung thuộc sở hữu chung của nhiều người, quyền
gắn liền với tài sản không thuộc về các thành viên mà thuộc về tổ chức.
Từ đó cho thấy, các dấu hiệu của pháp nhân đã chứa đựng trong các yếu tố cấu
thành nên tổ chức. Chính các dấu hiệu đó (tài sản, hình thức định đoạt tài sản, trách

nhiệm tài sản,…) là căn cứ giá trị để xây dựng khái niệm pháp nhân sau này. Vì thế, chủ
thể trong quan hệ luật dân sự La Mã không đơn thuần chỉ có cá nhân mà còn có các tổ
chức mang dấu hiệu pháp nhân.
2


Về chủ thể là cá nhân:
Bộ luật Hammurabi:
- Không quy định rõ độ tuổi được coi là

Luật La Mã:
- Quy định nam trên 14 tuổi, nữ trên 12

người “trưởng thành”, được tham gia vào

tuổi có năng lực hành vi toàn phần,

các quan hệ dân sự.

được phép tham gia giao dịch dân sự.

- Nô lệ là một chủ thể hạn chế trong

- Nô lệ không phải là một chủ thể trong

quan hệ pháp luật dân sự: có quyền có tài

quan hệ dân sự La Mã. Nô lệ không có

sản riêng, được tham gia quan hệ hôn


quyền công dân và không được phép

nhân gia đình với người tự do. Tuy vậy,

tham gia vào bất cứ một giao dịch dân

tài sản riêng đó vẫn thuộc khối tài sản

sự nào.

chung của chủ nô như bản thân nô lệ ấy.
c. Sự khác biệt trong các chế định cơ bản:
Về chế định quyền sở hữu tài sản:

Căn cứ
phân loại
tài sản

Bộ luật Hammurabi:
Luật La Mã:
- Giá trị, khả năng di dời: động - Giá trị về mặt pháp lý của tài sản:
sản (nô lệ, gia súc…); bất động Res mancipi (nhà ở, nô lệ, đất đai, gia
sản (đất đai, nhà ở…).

súc,…); Res nec mancipi (tài sản

khác).
- Ở phương Đông, người ta coi - Việc dịch chuyển quyền sở hữu tài


Ý nghĩa

trọng nhất là bất động sản vì sản Resmancipi phải thông qua những

của sự

đây là những tư liệu sản xuất – nghi thức trọng thể, phải được tuyên

phân loại

tiêu dung quan trọng, có giá trị bố theo những công thức nhất định và
lớn.
cần có người làm chứng.
- Quan điểm của các nhà lập - Các nhà lập pháp La Mã đã chỉ ra cụ

Nội dung

pháp Lưỡng Hà trong chế định thể hơn các quyền năng của chủ sở

quyền sở

là đề cao các quyền năng của hữu: sử dụng; thu nhận thành quả và

hữu

chủ sở hữu: chiếm hữu; sử lợi nhuận; định đoạt số phận thực tế

dụng; định đoạt.
Về chế định hợp đồng:


và pháp lý; chiếm hữu; đòi lại vật.

Nói chung, chế định này có sự khác nhau cơ bản ở hai bộ luật như sau:
Điều kiện

Bộ luật Hammurabi:
Luật La Mã:
- Chỉ ghi nhận riêng đối - Có sự thỏa thuận của hai bên.

có hiệu lực

với hợp đồng mua bán.

- Phù hợp với quy định pháp luật.
3


- Hợp đồng được lập - Hợp đồng giao kết theo hình thức thề
Hình thức
hợp đồng

Biện pháp
bảo đảm.

thành văn bản, có người (thề có đồng và câu).
làm chứng.

- Hợp đồng miệng (dưới dạng câu nói: hỏi
và trả lời).


- Hợp đồng viết (dạng văn bản).
- Thường là những chế - Khi có vi phạm hợp đồng, trái vụ xuất
tài hình sự (tử hình, …).

hiện, các biện pháp bảo đảm là: cầm cố

- Phạt tiền.
vật, sự bảo lãnh của người trung gian.
Bên cạnh đó, giữa một số loại hợp đồng thông dụng của chế định này ở hai bộ

luật cũng có sự khác nhau:
- Hợp đồng mua bán: trong bộ luật Hammurabi ghi nhận 3 điều kiện để hợp đồng
có hiệu lực. Đó là: người bán là chủ sở hữu thực sự; tài sản mua bán phải đảm bảo đúng
giá trị sử dụng của nó; khi tiến hành hợp đồng phải có người thứ ba làm chứng. Điều
này không quy định trong hợp đồng mua bán của luật La Mã.
- Hợp đồng vay mượn: trong luật La Mã quy định bên cho vay chuyển tài sản
thuộc quyền sở hữu của bên cho vay cho bên vay và bên vay có nghĩa vụ trả vật cùng
loại hoặc số tiền đã vay khi hết hạn hợp đồng. Còn bộ luật Hammurabi quy định mức
lãi tối đa của hợp đồng vay tiền (1/5) và vay thóc (1/3). Chủ nợ có quyền giữ người nợ
hay các thành viên trong gia đình người nợ làm con tin (có thể là bất động sản).
Về chế định hôn nhân và gia đình:
Chế

Bộ luật Hammurabi:
- Chế độ đa thê.

Luật La Mã:
- Chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng.

độ


- Sự bất bình đẳng, không tự do (sự - Cơ sở là sự tự nguyện đồng ý của

hôn

thỏa thuận 2 bên gia đình, người phụ nữ cả hai người.

nhân được mua về làm vợ)
Hình - Hôn nhân bắt buộc phải thành lập trên - Hôn nhân phải tiến hành theo nghi
thức
Chế

giấy tờ.
lễ của người La Mã.
- Gia đình được xây dựng theo hình - Pháp luật đã hạn chế bớt quyền lực

độ

mẫu gia trưởng, phụ quyền.

của người chồng, người cha.

gia

- Người chồng, người cha nắm quyền - Giết trẻ em là một tội nặng, người

đình

làm chủ, quyết định mọi việc trọng đại cha không có quyền bán con mình.
của gia đình. Quyền lực người chồng - Người vợ có quyền ly hôn nếu có

4


rất lớn: có quyền bán, gán nợ vợ con, ly lý do chính đáng và được tòa án
hôn với vợ hoặc lấy vợ lẽ.
chấp thuận.
- Trong quá trình hôn nhân, tài sản của - Tài sản của 2 vợ chồng là riêng
vợ chồng là một khối chung nhất, thuộc biệt, mọi chi phí trong thời kì hôn

Quan
hệ tài
sản

người chồng quản lý.

nhân do người chồng gánh vác.

- Người chồng có quyền khai thác, sử - Trong quá trình hôn nhân, của hồi
dụng tài sản là của hồi môn của vợ. Khi môn hoàn toàn là của người chồng.

ly hôn, tài sản ấy trao về cho người vợ.
Về chế định thừa kế:

Khi ly hôn, vợ được phép đòi lại.

Cả 2 bộ luật đều quy định hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế
theo pháp luật. Tuy vậy vẫn tồn tại sự khác nhau. Đối với hình thức thừa kế theo di
chúc, bộ luật Hammurabi hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như quy định
người cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi lần
đầu và lỗi không nghiêm trọng. Còn luật La Mã thì hạn chế bằng cách quy định về kỷ

phần bắt buộc (phần tối thiểu của di sản thừa kế) cho những người không được hưởng
thừa kế theo di chúc. Đối với hình thức thừa kế theo pháp luật, một điểm khác nữa là
luật La Mã quy định cụ thể diện và hàng thừa kế theo quan hệ huyết thống trong phạm
vi 6 đời. Trong khi đó, bộ luật Hammurabi có một số quy định khác về việc con trai,
con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau, hay nếu được gia chủ cho phép,
con ngoài giá thù của gia chủ với nữ nô lệ cũng được hưởng thừa kế.
→ Từ các chế định trên đây, có thể thấy nguyên tắc bình đẳng giữa các đương sự
trong các quan hệ dân sự được thể hiện hết sức đậm nét trong luật La Mã. Trong khi
đó, lĩnh vực dân sự trong bộ luật Hammurabi lại ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các cá
nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự. Một điểm khác biệt nữa là các quan hệ dân sự
trong bộ luật Hammurabi thường bị hình sự hóa với các chế tài hết sức hà khắc, dã man.
C. KẾT LUẬN.
Rõ ràng, trong lĩnh vực luật dân sự giữa bộ luật Hammurabi và luật La Mã có
những điểm tương đồng cũng như những sự khác nhau cơ bản. Đánh giá hai bộ luật này,
có thể nói bộ luật Hammurabi và luật La Mã là những bộ luật không chỉ có giá trị về
nghiên cứu pháp lý nói riêng mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quý giá để
chúng ta nghiên cứu nền văn minh thế giới cổ đại nói chung.
5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới – Đại học Luật Hà Nội.
2. Giáo trình Luật La Mã – Đại học Luật Hà Nội.
3. Khảo lược bộ luật Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại.
(Tác giả Nguyễn Anh Tuấn)
4. Bộ luật Hammurabi – Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại.
(ThS. Nguyễn Minh Tuấn - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)
5. Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục.
(Tác giả Lương Ninh)


6



×