Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Bình luận về quy định tại điều 301 luật thương mại năm 2005 về mức phạt vi phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.35 KB, 3 trang )

Theo quy định tại Điều 301 - Luật Thương mại năm 2005: “Mức phạt
đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm
do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Theo quy định này có thể hiểu, các thương
nhân được quyền tự do thỏa thuận trong hợp đồng về chế tài phạt vi phạm
cũng như mức phạt đối với các hành vi vi phạm, tuy nhiên, mọi thỏa thuận về
mức phạt vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ không
được phép.
Về mặt nguyên tắc pháp lý, bất kỳ một thỏa thuận vượt quá mức phạt mà
luật quy định như trên sẽ bị coi là vô hiệu và không có giá trị áp dụng. Tuy
nhiên, xét về khía cạnh bản chất của thỏa thuận và tôn trọng ý chí, sự tự do
thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp đồng, trong quá trình giải quyết các vụ
việc thực tế, các cơ quan giải quyết tranh chấp thường không tuyên thỏa thuận
trên là vô hiệu, mà chỉ không thừa nhận hiệu lực của thỏa thuận đối với phần
vượt quá 8%, theo đó, bên vi phạm vẫn phải chịu mức phạt cao nhất là 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, tức là, nếu trong hợp đồng các bên
thỏa thuận tổng mức phạt lên đến 100% giá trị hợp đồng thì khi áp dụng phạt
trên thực tế, cơ quan giải quyết tranh chấp chỉ yêu cầu bên vi phạm chịu mức
phạt là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Cách giải quyết của
Tòa án trên thực tế này tuy trái với nguyên tắc áp dụng Luật, nhưng lại được
đông đảo các luật gia cũng như nhà nghiên cứu chấp nhận do tính hợp lý
không thể chối cãi của nó.
Về mặt bản chất, mục đích của chế tài phạt vi phạm hợp đồng là để răn
đe và phòng ngừa các bên thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc
các bên thỏa thuận một mức phạt như thế nào nhằm đạt được mục đích như
trên ở một chừng mực nhất định là hợp lý. Tuy nhiên, khi ban hành Luật
Thương mại, nhà làm luật còn quy định về mức trần phạt vi phạm (8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm) nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trong
hợp đồng (bên bị vi phạm) và bảo vệ lợi ích của Nhà nước và sự ổn định của



nền kinh tế trước những hành vi vi phạm hợp đồng. Bởi lẽ, thông qua quy
định về mức trần trong phạt vi phạm, Nhà nước sẽ kiểm soát được các thỏa
thuận phạt “trá hình” nhằm thu lợi bất chính từ phía các chủ thể trực tiếp ký
kết hợp đồng.
Ví dụ: Giám đốc Công ty A ký hợp đồng có giá trị 1 tỷ với B, theo đó,
thỏa thuận mức phạt là 100% giá trị hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng, Giám
đốc Công ty A sẽ có những chỉ đạo nhằm không thực hiện đúng hợp đồng,
thông qua đó làm phát sinh nghĩa vụ phải trả tiền phạt hợp đồng cho B (100%
giá trị hợp đồng), sau đó, Giám đốc Công ty A và B sẽ chia nhau khoản lợi
được hưởng từ khoản tiền phạt mà Công ty A phải trả cho B.
Trên cơ sở các khía cạnh như đã phân tích ở trên, quy định về mức phạt
vi phạm hợp đồng nên được nghiên cứu tiếp cận theo một trong hai phương
án sau:
Phương án thứ nhất: Nếu nhà làm luật vẫn muốn giữ mức trần phạt vi
phạm hợp đồng, thì phải quy định theo hướng: “Mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả
thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm. Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá sẽ không có giá trị pháp lý”.
Với cách quy định như trên, chúng ta sẽ giải quyết được tình trạng tùy tiện
trong việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước
đối với các thỏa thuận phạt, vừa đảm bảo và tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự
định đoạt của các bên khi giao kết hợp đồng trong giới hạn mức trần phạt cho
phép của nhà nước.
Phương án thứ hai: Bỏ quy định về mức trần phạt vi phạm hợp đồng
như hiện nay. Bởi lẽ, nó sẽ làm hạn chế quyền tự do định đoạt, tự do thỏa
thuận của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, mục
đích của việc quy định chế tài phạt vi phạm là để phòng ngừa và răn đe các
bên vi phạm hợp đồng, thiết nghĩ không ai có thể hiểu hơn bản thân người



trong cuộc (các bên trong hợp đồng) về mức phạt ở mức độ như thế nào mới
đủ sức phòng ngừa và răn đe các hành vi vi phạm, do tính phức tạp và đặc thù
của mỗi lĩnh vực khác nhau trong quan hệ hợp đồng. Do đó, việc quy định
mức trần phạt vi phạm đã phần nào vô hiệu hóa những thỏa thuận đó của
thương nhân, dẫn đến một hậu quả là mục đích của quy định về chế tài phạt
không đạt được, hay nói cách khác, có những vụ việc trên thực tế nếu chỉ
dừng lại giới hạn ở mức phạt không quá 8% thì các thương nhân sẵn sàng vi
phạm hợp đồng nếu lợi ích kinh tế của việc vi phạm đó mang lại nhiều hơn
nhiều so với khoản tiền không quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm mà thương
nhân phải chi trả cho bên bị vi phạm. Việc không quy định mức trần phạt vi
phạm hợp đồng cũng phù hợp với cách quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005, thông qua đó, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của các thương nhân
cũng như đảm bảo sự tự do thỏa thuận của họ trong hoạt động thương mại.



×