Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Những vấn đề pháp lý về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.87 KB, 14 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Đề tài: Những vấn đề pháp lý về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong tố
tụng dân sự.
A.

MỞ ĐẦU

Giải quyết vụ án dân sự là một quá trình kéo dài và trả qua nhiều giai
đoạn. Nhằm đảm bảo việc giải quyết này được đặt trong một khuôn khổ quy
định và tạo điều kiện đảm bảo hài hòa tối ưu lợi ích nhà nước cũng như lợi ích
của các bên tham gia tố tụng – Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã có những quy
định rất cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết một VADS. Trong đó, vấn đề tạm
ngừng giải quyết vụ án là một vấn đề quan trọng và được quy định rất cụ thể
trong Luật tố tụng dân sự 2015, gọi là tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong bài
tiểu luận này, em xin làm rõ một số vấn đề pháp lý liên quan đến đề tài này.
B.

NỘI DUNG

I. Một số vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án
Khi nói về khái niệm tạm đình chỉ VADS, hiện nay, tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt thì “tạm” là làm việc gì chỉ trong một
thời gian nào đó, khi có sự kiện sẽ thay đổi. Còn theo từ điển giải thích thuật
ngữ luật học thì “tạm đình chỉ giải quyết VADS là Tòa án tạm thời ngừng giải
quyết VADS đã thụ lý”. Ngoài ra, các nhà luật học khác cũng có nêu lên một số
quan điểm khác về tạm đình chỉ VADS. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các
nghiên cứu, có thể đi đến khái niệm tổng quát được trình bày trong Giáo trình
luật tố tụng dân sự trường Đại học kiểm sát Hà Nội như sau: “Tạm đình chỉ giải
quyết VADS là việc Tòa án tạm ngừng việc giải quyết VADS khi có những căn
cứ làm cho việc tiếp tục các thủ tục giải quyết vụ án có thể ản hưởng tới việc


tham gia của các đương sự hoặc ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của đương sự hoặc việc giải quyết vụ án có thể không toàn diện, khi lý
do tạm đình chỉ không còn nữa thì Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án”.
1


2. Đặc điểm của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án
Từ việc nghiên cứu khái nhiệm trên, ta có thể rút ra một đặc điểm của việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án như sau:
Thứ nhất, việc tạm đình chỉ giải quyết VADS phải dựa trên những căn cứ
pháp luật mà pháp luật có quy định trước, trên cơ sở đảm bảo các quyền của
đương sự, tính chính xác và đúng đắn trong việc giải quyết các VADS và việc
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết VADS.
Thứ hai, tạm đình chỉ giải quyết VADS là việc Tòa án tạm ngừng giải
quyết VADS đã được thụ lý do xuất hiện những tình tiết, sự kiện nhất định chứ
không phải cho ngừng hẳn việc giải quyết về nội dung VADS.
Thứ ba, tính chất gián đoạn, tạm thời của việc đình chỉ VADS đem lại sẽ
được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được khôi phục khi nguyên nhân của
việc tạm đình chỉ không còn nữa.
Thứ tư, thông thường tạm đình chỉ VADS có thể được tiến hành ở cấp sơ
thẩm, phúc thẩm.
3. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Thứ nhất, việc Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS đúng
đắn, kịp thời sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi xuất hiện
những căn cứ làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố
tụng không được đảm bảo nếu quá trình giải quyết vụ việc vẫn được tiếp tục thì
quyết định tạm đình chỉ là cần thiết.
Thứ hai, quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS có ý nghĩa đối với Tòa
án trong quá trình xét xử VADS. Vì hoạt động giải quyết vụ án tạm ngừng lại
nên Tòa án có thêm thời gian thu thập chứng cứ, tài liệu, triệu tập đương sự... để

chuẩn bị tốt hơn cho phiên tòa xét xử.

2


Thứ ba, việc tạm đình chỉ giải quyết VADS có tác dụng thôi thúc các bên
có liên quan nhanh chóng đáp ứng đủ điều kiện cần thiết để quá trình tố tụng
được tiếp tục tiến hành.
Thứ tư, việc ra quyết định tạm đình chỉ đúng cho thấy Tòa án có trách
nhiệm rất cao trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Từ đó thể hiện ý thức của
những người tiến hành tố tụng, tôn trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, qua đó củng cố niềm tin của người dân đối với Tòa án, đối với
pháp luật.
Thứ năm, tạm đình chỉ VADS góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Chỉ khi xuất hiện các nguyên nhân làm cho việc tố tụng bị gián đoạn tạm thời và
có thể khắc phục được, pháp luật cho phép tạm đình chỉ giải quyết VADS. Nó sẽ
hạn chế được tư tưởng không đúng của một số thẩm phán là phải giải quyết
nhanh chóng bằng mọi cách.
II. Quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Căn cứ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Việc ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải tuân theo những
quy định của pháp luật, nhằm tránh tùy tiện trong việc ra quyết định tạm đình
chỉ, pháp luật tố tụng dân sự có những quy định rất cụ thể và chi tiết về căn cứ ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS tại Điều 214 BLTTDS 2015, cụ thể:
Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách,
giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó:
Theo Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền nhân thân là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp

luật khác có liên quan quy định khác. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 74
BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà
quyền và nghĩa vụ tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố
3


tụng”. Chỉ trong trường hợp quyền và nghĩa vụ của đương sự đã chết là quyền
và nghĩa vụ về tài sản thì người thừa kế sẽ tham gia tố tụng, còn đối với các
quan hệ về nhân thân thì không có sự kế thừa về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân
sự.
Ngoài ra, trong trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp
nhập, chia, tách, giải thể mà chưa xác định được cơ quan, tổ chức, cá nhân kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó thì cũng phải
tạm đình chỉ giải quyết VADS đó. Việc xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng được thực hiện theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 và Điều 74 BLTTDS 2015.
Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên
mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật
Quy định này là phù hợp, bởi nếu Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ việc
mà chưa có người đại diện thay đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự thì sẽ không bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân,
việc giải quyết vụ VADS khó có thể chính xác và đúng đắn.
Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế
Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, trường hợp chấm dứt
đại diện hợp pháp của đương sự nhưng chưa có người thay thế ngay, thì Tòa án
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là hợp lý. Tuy nhiên, trong
trường hợp mà đương sự là cá nhân được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi
phục năng lực hành vi dân sự, thì đương sự sẽ tiếp tục tham gia tố tụng hoặc có
thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Ngoài ra, khi quan hệ ủy quyền
chấm dứt thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự sẽ tiếp tục hoặc ủy

quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng. Vì vậy, trong trường hợp quan
hệ ủy quyền đã chấm dứt, nhưng đương sự hoặc người thừa kế của đương sự lại
tiếp tục tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thì Tòa
án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án mà không ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết.
4


Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được
pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải
quyết được vụ án
Tòa án phải tạm đình chỉ giải quyết VADS trong trường hợp này vì kết
quả giải quyết vụ án trước hoặc kết quả do cơ quan quản lý nhà nước giải quyết
ở giai đoạn trước tố tụng có mối quan hệ trực tiếp tới nội dung của vụ án được
thụ lý say này hoặc đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mặc dù đã gia hạn theo quy
định của pháp luật mà vẫn phải chờ ý kiến của cơ quan chuyên môn, cần phải
chờ kết quả giám định phức tạp… Tòa án muốn giải quyết được vụ án đang thụ
lý thì phải dựa vào kết quả giải quyết các vụ việc trước đó.
Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ
hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án
thì mới giải quyết được vụ án
Đây là căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VADS mới được áp dụng đối với
những vụ án mà việc giải quyết vụ án phải thực hiện bằng biện pháp ủy thác tư
pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu,
chứng cứ thì thời gian để chờ kết quả ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ
hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ thường mất nhiều thời
gian nên việc bổ sung căn cứ này là phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc
giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ

quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ
Quy định mới này phù hợp với Điều 221 BLTTDS 2015 về phát hiện và
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật. Khoản 7
Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014: “Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa
án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ
5


sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức…”.
Tạm đình chỉ theo căn cứ tại Điều 41 của Luật Phá sản năm 2014
Điều 41 Luật Phá sản năm 2014 quy định trong thời hạn 5 ngày làm việc,
kể từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý vụ việc phá sản, Tòa án nhân dân phải tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có
liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương
sự. Vì vậy, việc bổ sung căn cứ này nhằm bảo đảm sự đồng bộ với quy định của
Luật Phá sản năm 2014.
Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật
Đây là quy định mở, mang tính dự phòng đối với những trường hợp phát
sinh lý do mà Tòa án cần thiết phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết
VADS sự mới bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trong quá trình giải quyết VADS, nếu pát sinh các sự kiện pháp lý là các
căn cứ nêu trên Tòa án sẽ xem xét ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS.
2. Thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 214 BLTTDS 2015: “Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện và Viện kiểm sát cùng cấp”. Và Điều 216 BLTTDS 2015 “Trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại

Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải
quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án
dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục
giải quyết vụ án dân sự.”
6


Như vậy, dù không quy định trực tieeos về thời hạn tạm đình chỉ giải
quyết VADS nhưng theo quy định trên tao có thể thấy được hiệu lực thời gian
đối với quyst định này. So với BLTTDS 2004 SĐBS 2011, thời hạn Tòa án phải
gửi quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cho đương sự, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp theo BLTTDS 2015 rút ngắn
hơn, còn 3 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự. Quy định này là nhằm bảo đảm tốt hơn quyền kháng cáo của đương sự
và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát đối với quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự.
3. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Về cơ bản, hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết VADS được giữ
nguyên theo quy định của BLTTDS 2004 SĐBS 2011:
Tòa án không xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi vào sổ thụ lý ngày,
tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ.
Tiền tạm ứng án phí, lệ phí đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc và được
xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Bên cạnh đó, do Điều 214 BLTTDS 2015 bổ sung thêm căn cứ tạm đình
chỉ quy định tại điểm e Khoản 1, nên Điều 215 BLTTDS bổ sung thêm hậu quả
pháp lý trong trường hợp này là trước khi tạm đình chỉ, Chánh án Tòa án đang

giải quyết vụ án phải có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn
bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại Điều 221 của
Bộ luật này. Trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của
Tòa án, cơ quan có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Hết thời hạn này mà cơ
7


quan có thẩm quyền không có văn bản trả lời, thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ
án theo thủ tục chung.
Ngoài ra, để bảo đảm giải quyết nhanh chóng vụ án dân sự, Điều 215
BLTTDS 2015 bổ sung quy định, trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án,
thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải
quyết vụ án. Nhằm nâng cao trách nhiệm của thẩm phán đối với vụ án.
4. Tiếp tục giải quyết vụ án
So với Bộ luật BLTTDS 2004 SĐBS 2011, BLTTDS 2015 (Điều 216) đã
quy định cụ thể hơn về thời hạn Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ
án dân sự là trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải
quyết vụ án không còn, đồng thời BLTTDS 2015 còn quy định Tòa án phải gửi
quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát
cùng cấp.
Điểm mới quan trọng nữa của BLTTDS 2015 là đã quy định cụ thể ngày
hết hiệu lực của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là kể từ ngày
ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết
vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
III. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ vụ án dân sự
1. Thực trạng áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ vụ án dân sự
BLTTDS 2015 ra đời, dù mới đi vào thực tiễn được một thời gian ngắn

nhưng đã cho thấy những tiến bộ so với quy định trước đây. Các nhà làm luật đã
nhận thức được những điểm tồn đọng, vướng mắc trong quá trình thực tiễn áp
dụng BLTTDS 2004, cùng với quá trình tổng kết lý luận đã có những sửa đổi bổ
sung kịp thời trong BLTTDS 2015, có thể thấy rõ thông qua một số nội dung
như: Bổ sung các căn cứ làm cơ sở Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự; Thay đổi thời hạn tạm đình chỉ thông qua việc thay đổi thời gian
gửi quyết định đến các bên có liên quan; bổ sung một số nội dung trong hậu quả
pháp lí của việc tạm đình chỉ cũng như quy định mới về tiếp tục giải quyết vụ án
8


khi các căn cứ tạm đình chỉ không còn….Từ đó, đảm bảo tốt hơn quyề và lợi ích
hợp pháp của các bên đường sự; bảo vệ trật tự pháp luật; đảm bảo cho các cơ
quan có thẩm quyền tuân thủ đúng quy định pháp luật khi giải quyết các VADS
trên thực tiễn.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định của BLTTDS 2015 vào thực
tiễn, còn bộc lộ một số vướng mắc, bất cập như sau:
Về các căn cứ tạm đình chỉ:
Thứ nhất, cũng giống như BLTTDS 2004 SĐBS 2011, BLTTDS2015
không quy định đối với trường hợp đương sự chết khi Tòa án đang giải quyết vụ
án dân sự mà quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo pháp luật quy định là được
kế thừa nhưng không có người thừa kế. Theo Điều 622 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại
sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc
Nhà nước.
Thứ hai, so với Điều 74 BLTTDS 2015 thì căn cứ tạm đình chỉ tại Điều
214 BLTTDS 2015 còn bỏ sót trường hợp tổ chức chuyển đổi hình thức tổ chức,
thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ
sở hữu mới, trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ

dân sự mà người đại diện đang tham gia tố tụng chết.
Thứ ba, tại điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015 quy định: “Cần đợi
kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan,
tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được
vụ án”. Điều này cho phép, nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án ra quyết
định ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung
cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 105, Điều 106
BLTTDS 2015, thì không cần phải chờ hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy

9


định tại Điều 203 BLTTDS 2015 Tòa án có thể ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án ngay.
Như vậy, Việc áp dụng Điều 214 BLTTDS 2015 sẽ cho thấy một bất cập
phát sinh, đó là, dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quy định tại Điều 214 BLTTDS
2015 để Tòa án ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án. Chủ yếu các quyết định
tạm đình chỉ đều có lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ
hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Về thời hạn tạm đình chỉ:
Vẫn còn hạn chế của BLTTDS 2004 SĐBS 2011 nhưng BLTTDS 2015
chưa khắc phục được đó là không quy định về thời hạn ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự khi xuất hiện căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự. Với vụ án được tạm đình chỉ, khi có căn cứ phục hồi, Tòa án ra thông
báo tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết và thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại
Điều 203 BLTTDS 2015. Điều này dẫn đến việc, nhiều vụ án sẽ bị kéo dài thời
gian giải quyết một cách không cần thiết, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của đương sự.
Chưa có sự thống nhất giữa các điều luật, cụ thể: Theo quy định tại khoản
18 Điều 70 BLTTDS 2015, đương sự có quyền đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải

quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, trong Điều 214 lại không hề nhắc đến vấn đề
này.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án
Qua thực trạng đã nêu ở trên, nhằm khắc phục một số vướng mắc, bất cập
của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết VADS, trong bài này, em xin đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án: Cần hướng dẫn cụ thể,
trường hợp vụ án tranh chấp về tài sản mà đương sự là cá nhân chết không có
người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản mà chưa xác định được cơ quan nhà nước
10


nhận tài sản kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự đã chết thì Tòa án
tạm đình chỉ giải quyết vụ án; hướng dẫn thi hành BLTTDS 2015 cần bổ sung
thêm căn cứ tạm đình chỉ cho phù hợp với Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; hướng dẫn thi hành điểm đ Khoản 1 Điều 214 nhằm tạo ra cách hiểu và áp
dụng thống nhất, tránh tình trạng lạm dụng làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của
nhà nước và quyền lợi của công dân.
Thứ hai, về thời hạn tạm đình chỉ: cần thiết phải quy định thời hạn ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi xuất hiện căn cứ tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quy định cụ thể thời hạn Tòa án phải gửi quyết định
tiếp tục giải quyết VADS cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và
cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Thứ ba, đối với vấn đề quyền yêu cầu tạm đình chỉ của đương sự. Quy
định tại khoản 18 Điều 70 BLTTDS 2015 là quyền của đương sự, nhưng việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án lại ảnh hưởng tới quyền lợi của các đương sự khác,
nhất là khi vụ án có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Do vậy, khi đương sự đề
nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì thẩm phán phải xem xét đề nghị đó
có hợp lý không và có phù hợp với các quy định của pháp luật không. Nếu phù

hợp thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu đề nghị của đương sự. Chính vì thế, cần
có những quy định rõ ràng hơn về vấn đề này, giúp cho các dịa phương có thể
vận dụng một cách thống nhất, tránh tình trạng lúng túng cho nhiều địa phương.
Thứ tư, ngoài việc sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn cụ thể các quy định của
BLTTDS 2015. Nằm thực hiện tốt công tác giải quyết VADS nói chung và hiệu
quả công tác tạm đình chỉ nói riêng. Trong thời gian tới, Nhà nước cần có những
chính sách phù hợp trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ cơ quan có thẩm quyền đặc biệt là trong ngành Tòa án thông qua các hoạt
động đào tạo, nâng cao trình độ; tích lũy kinh nghiệm thực tiễn; kiểm tra, giám
sát hoạt động xét xử; nâng cao chất lượng đãi ngộ với cán bộ, công chức. Đồng
thời, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến toàn thể người
11


dân, để họ hiểu hơn về quyền và nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện thuận lợi để
họ tự bảo vệ quyền lợi khi tham gia vào quá trình tố tụng dân sự.

C.

KẾT LUẬN

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số vấn đề pháp lý của việc tạm đình chỉ
giải quyết VADS giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về hoạt động này nói
riêng và hoạt động giải quyết VADS nói chung theo con đường tố tụng dân sự.
Đây là cơ sở pháp lý vững chắc, trang bị lý luận cho công tác nghề nghiệp sau
này, tạo điều kiện cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền và các bên liên quan có
thể thực hiện tốt nhất công tác tố tụng, giải quyết vụ án. Đồng thời, nhìn nhận
một cách khách quan các vấn đề vướng mắc, bất cập xung quanh hoạt động tạm
đình chỉ VADS. Từ đó, đưa ra những ý kiến cá nhân nhằm mục đích góp phần
xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Giáo trình luật Tố tụng dân sự, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
Bộ luật Dân sự 2015
Luật Doanh nghiệp 2014
Luật tổ chức Tòa án Nhân dân 2014
Luật Phá sản 2014
- Quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần được hướng dẫn cụ thể

8.

hơn.
- Bất cập trong tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự.
12


13




×