Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG NHẰM BÓC LỘT KHÁCH HÀNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.98 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ

TIỂU LUẬN

TÊN ĐỀ TÀI: HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG NHẰM BÓC LỘT KHÁCH HÀNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 - 2016

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

: NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC

NHÓM

:2

NIÊN KHÓA

: 2018 – 2019

Bình Dương, ngày 27 tháng 11 năm 2018


Họ và tên

MSSV

Phân công

Ngô Gia Như



1523801010245

Phần mở đầu

Nguyễn Trịnh Thức

1523801010250

Phần mở đầu, Power Point
Quy định của pháp luật cạnh tranh về

Trần Thị Hoài Linh

1523801010211

hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường
Quy định của pháp luật cạnh tranh về

Lê Thị Nga

1523801010219

hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường

Thực tiễn thực thi quy định của pháp luật
Nguyễn Thị Huyền


152380101317

cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách
hàng tại Việt Nam từ năm 2005 đến 2016

Trần Thị Như Trang

152380101331

Thực tiễn thực thi quy định của pháp luật
cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách
hàng tại Việt Nam từ năm 2005 đến 2016


Tài liệu tham khảo
1) Lê Danh Vĩnh , Giáo trình Luật cạnh tranh, Đại Học Kinh tế - Luật.
2) Lê Minh Tường, Hành vi ấn định giá bán tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng,
3)
4)
5)
6)

2010.
Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, Thông cáo báo chí, 2015.
Bộ Công Thương, Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh Tranh, 2018.
Phạm Hoài Huấn (2011), Bình luận từ việc Magastar bị khiếu nại, Hà Nội.
Hà Thị Thanh Bình, Giáo trình Pháp luật cạnh tranh và giải quyết tranh chấp


thương mại, NXB Hồng Đức, 2017.
7) Trần Thùy Linh (2017), Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo quy
định của Luật Cạnh Tranh Việt Nam, Trường Đại học Thái Nguyên.
8) Tiểu luận về Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/vị trí độc quyền
nhằm bóc lột khách hàng và thực tiễn tại Việt Nam của nhóm sinh viên Nguyễn
Đắc Kim Châu( năm 2016).
9) Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học: Kiểm soát hành vi lạm dụng thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu của tác giả Nguyễn Thị Ánh ( tại Trường
Đại Học Quốc Gia Hà Nội năm 2014).
10)Luận án tốt nghiệp : Pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền để hạn chế kinh doanh ở Việt Nam , của tác giả Nguyễn Thị Thùy
Uyên ( tại Đại Học Cần Thơ năm 2010).
11)“Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”, của Nguyễn
Ngọc Sơn, năm 2010.
12)“Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của công ty du lịch”, báo Dân Trí, của
Tuấn Hợp, năm 2014.


Mục lục
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................6
1.

Tính cấp thiết của đề tài:.....................................................................................................6

2.

Mục tiêu đề tài:..................................................................................................................10

3.


Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:...............10

PHẦN II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VỀ HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG...........................................................12
2.1 Khái niệm, đặc điểm về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường............................12
2.2 Dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách hàng
16

PHẦN III. THỰC TIỄN THỰC THI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
NHẰM BÓC LỘT KHÁCH HÀNG TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2016.. . .20
3.1 Thực trạng thi hành quy định của pháp luật canh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường................................................................................................................20
3.1.1 Thi hành các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
tại Việt Nam...........................................................................................................................20
3.1.1 Thực trạng về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của công ty Megastar
tại Việt Nam...........................................................................................................................22
3.2 Nhận xét, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật...............................................25


PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cạnh tranh là một trong ba quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
đóng vai trò quan trọng và là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, góp phần
nâng cao đời sống của con người. Tuy nhiên, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội phức
tạp mà mặt trái của hiện tượng này biểu hiện ở những hành vi cạnh tranh không trung
thực, các hành vi tích tụ và tập trung tư bản, tạo lập quyền lực thị trường nhằm bóp
méo cạnh tranh….
Về bản chất, cạnh tranh nói chung là một hiện tượng xã hội, theo nghĩa thông
thường cạnh tranh được hiểu là việc “đua tranh để giành ưu thế về mình” hoặc sự “cố

gắng giành phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm
những lợi ích như nhau”. Bên cạnh đó cạnh tranh vốn là một hiện tượng rất xưa trong
lịch sử xã hội loài người, đó là sự ganh đua tích cực giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản
xuất, nhà phân phối, bán lẻ, khách hàng, thương nhân…) nhằm mục đích giành được
sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay
những thứ khác.
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh
vực kinh tế, thương mại, luật pháp, chính trị, sinh thái, thể thao. Cạnh tranh có thể là
giữa hai hay nhiều lực lượng, hệ thống, cá nhân, nhóm, loài, tùy theo nội dung mà
được sử dụng cho phù hợp. Cạnh tranh cũng có thể dẫn đến các kết quả khác nhau
(giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình). Cho nên trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh chính là
động lực phát triển của các thành phần, các chủ thể kinh tế cùng tham gia hoạt động
kinh doanh. Động lực này kích thích các doanh nghiệp cải tiến thiết bị, công nghệ cũng
như phương thức quản lý để ứng dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá và của doanh nghiệp mình.
TRANG 5 / 26


Mặt khác mục đích của các chủ thể kinh doanh khi cạnh tranh với nhau là nhằm
tranh giành thị trường, mở rộng thị phần của mình đối với một loại hoặc một nhóm
hàng hóa, dịch vụ nhất định. Do đó thị trường càng rộng, thị phần càng lớn thì càng tạo
điều kiện thuận lợi cho chủ thể kinh doanh đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình.
Nhưng trong một thị trường càng có nhiều đối thủ kinh doanh cùng một loại hàng hóa,
dịch vụ hoặc kinh doanh cùng một nhóm các hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho
nhau thì cạnh tranh càng khốc liệt.
Cạnh tranh là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường và là nhân tố quan trọng
tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Đây là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự
thành công hay thất bại trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Pháp luật cạnh

tranh Việt Nam đã có những quy định cụ thể điều chỉnh các hoạt động cạnh tranh trên
thị trường, trong đó có các quy định kiểm soát vị trí thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp. Các quy định này phần nào đã đáp ứng được nhu cầu bảo đảm pháp lý về môi
trường kinh doanh lành mạnh bình đẳng của một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường. Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là nhu cầu thiết yếu trong
hoạt động kinh tế nhằm chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm đem lại lợi
nhuận cao nhất. Có câu “thương trường là chiến trường” phản ánh phần nào sự khốc
liệt của cạnh tranh tự do, để tồn tại trên thị trường các doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, và đến lúc nào đó các doanh nghiệp có ưu thế
mạnh sẽ dần trở thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, ở mức độ cao
nhất là độc quyền thị trường. Đó sự tất yếu của phát triển nhưng khi ở vị trí thống lĩnh
hay độc quyền rất dễ lợi dụng vị thế của mình để cản trở cạnh tranh.
Trong pháp luật kiểm soát độc quyền hay chống hạn chế cạnh tranh thì có chế
định về pháp luật chống các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, chế
định này có mục đích điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp đang nắm giữ thế lực
đó, chế định này được xây dựng với mục đích không cho thế lực độc quyền bóp méo
hoặc triệt tiêu cạnh tranh, bóc lột khách hàng. Chế định về chống lạm dụng vị trí thống
TRANG 6 / 26


lĩnh thị trường,vị trí độc quyền có thể được coi là bước phát triển cao nhất của pháp
luật cạnh tranh nói chung vì nó là công cụ để Nhà nước điều chỉnh và đấu tranh trực
diện với những hành vi phản cạnh tranh của doanh nghiệp đang có sức mạnh chi phối
thị trường (có quyền lực thị trường).
Ta thấy thông thường thì sự cạnh tranh giữa những người bán tạo điều kiện cho
khách hàng được hưởng lợi. Thì trái lại, tình trạng độc quyền lại đẩy khách hàng vào
thế bị lợi dụng, bị móc túi, có khi còn bị bạc đãi, bỏ rơi. Trong cảnh một mình một chợ,
Doanh nghiệp độc quyền có điều kiện áp đặt về giá, về chất lượng sản phẩm, dịch vụ,
về thái độ phục vụ. Đối với nền kinh tế, tình trạng độc quyền tất yếu dẫn đến sự trì trệ
do sức nặng của những thế lực cảm thấy thỏa mãn sau khi chiến thắng và giữ vị trí độc

tôn... Vì thế, để đảm bảo cho thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh, đúng hướng các
nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới đều có chính sách luật pháp điều tiết hoạt
động cạnh tranh trên thị trường để ngăn ngừa sự hình thành độc quyền, duy trì cạnh
tranh lành mạnh, đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, bảo vệ cho các
doanh nghiệp yếu hơn, kém hơn khi bị chèn ép.
Thời gian vừa qua đã xảy một loạt các vụ việc có dấu hiệu của hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường. Đó là vụ công ty Tân Hiệp Phát khiếu
nại công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam, vụ việc Vinapco lạm dụng vị trí độc
quyền, vụ việc Megastar bị khiếu nại có hành vi lạm dụng áp đặt giá bán hàng hóa gây
thiệt hại cho khách hàng, tranh chấp về giá thuê cột điện giữa VNPT và EVN, vụ việc
K+ tăng giá...Thông qua các vụ việc thực tiễn cho thấy mặc dù Luật Cạnh tranh và
hoàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành nhưng trong cộng đồng
kinh doanh vẫn chưa có sự hiểu biết thống nhất về các khái niệm liên quan. Vậy thế
nào là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường? Căn cứ vào những yếu tố nào để
xác định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hay không? Những hành vi
nào của doanh nghiệp bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh theo quy định của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam hiện hành. Nhằm kiểm soát hành vi làm dụng vị trí thống lĩnh thị
TRANG 7 / 26


trường nhằm bóc lột khách hàngvới mong muốn góp phần nhỏ tìm ra những nguyên
nhân bất cập của luật cạnh tranh, đem lại sự cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp.
Do đó, việc nghiên cứu nhằm đóng góp ý kiến cho các cơ quan quản lý nhà
nước về cạnh tranh, chống độc quyền là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
của người học và nghiên cứu luật pháp. Trong bài viết này, chúng tôi muốn trình bày
một vấn đề không mấy mới mẻ nhưng vẫn còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khách
hàng, đó là việc các doanh nghiệp lạm dụng vị trí độc quyền, thống lĩnh thị trường
nhằm bóc lột khách hàng.
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở Luật cạnh tranh 2018, nhưng ở

thời điểm này Luật cạnh tranh 2018 vẫn chưa có hiệu lực và cũng không có văn bản
nào hướng dẫn về Luật mới này nên chúng tôi sẽ sử dụng Nghị định 116/2005/ NĐ-CP
để giải thích một số khái niệm mà chúng tôi sẽ nêu trong bài.
Tình hình nghiên cứu:
1. Tiểu luận về Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/vị trí độc quyền
nhằm bóc lột khách hàng và thực tiễn tại Việt Nam của nhóm sinh viên Nguyễn
Đắc Kim Châu( năm 2016).
2. Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học: Kiểm soát hành vi lạm dụng thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu của tác giả Nguyễn Thị Ánh ( tại Trường
Đại Học Quốc Gia Hà Nội năm 2014).
3. Luận án tốt nghiệp : Pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền để hạn chế kinh doanh ở Việt Nam , của tác giả Nguyễn Thị Thùy
Uyên ( tại Đại Học Cần Thơ năm 2010).
Các bài viết trên báo, tạp chí:
1. “Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”, của Nguyễn
Ngọc Sơn, năm 2010.

TRANG 8 / 26


2. “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của công ty du lịch”, báo Dân Trí, của
Tuấn Hợp, năm 2014.
Các công trình nghiên cứu cũng như các bài báo khoa học trên đã cung cấp hệ
thống tri thức, các thông tin về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, là nguồn tài
liệu quan trọng góp phần làm rõ tình hình, tính chất của hành vi này. Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách hàng tại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học
này góp phần bổ sung những biện pháp khắc phục về vấn đề lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường ở nước ta hiện nay, trong đó tập trung vào một số khía cạnh mà các
công trình nghiên cứu khoa học trước đó chưa làm rõ.

2. Mục tiêu đề tài:
Nghiên cứu về thực trạng phòng chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường tại
Việt Nam cũng như các quy định của pháp luật trong công tác phòng chống lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường và thực tiễn áp dụng hiện nay. Từ đó, chỉ ra những bất cập
trong hoạt động phòng chống và quy định của pháp luật trong công cuộc phòng chống
này. Với những bất cập như vậy, nhóm tác giả tiếp tục nghiên cứu để đưa ra đề xuất
hoàn thiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường tại Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới nói
chung.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu:
+ Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách hàng.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian nghiên cứu: Việt Nam
+ Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 đến 2016

-

Cách tiếp cận:

TRANG 9 / 26


+ Các tài liệu liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ( giáo
trình, Luật cạnh tranh, những văn bản dưới luật có liên quan, Nghị Thư, Nghị
định,..)
+ Máy tính, điện thoại để tìm kiếm các nguồn tư liệu trên mạng.
+ Phương tiện đi lại phục vụ cho việc tìm kiếm tài liệu, số liệu cần thiết cho đề

tài.
-

Phương pháp nghiên cứu:

 Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp phân tích lý thuyết ( là chủ yếu )
+ Phương pháp tổng hợp ( (Phần 1, Phần 2, Phần 3)
+ Phương pháp liệt kê (Phần 2, Phần 3)
 Phương pháp nguyên cứu thực tiễn
+ Phương pháp tổng hợp và nguyên cứu thực nghiệm ( Chương 2, Chương 3)
PHẦN I.

TRANG 10 / 26


PHẦN II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VỀ HÀNH
VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
2.1 Khái niệm, đặc điểm về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
 Khái niệm
 Vị trí thống lĩnh thị trường
Vị trí thống lĩnh thị trường là vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mà dựa vào
vị trí đó của doanh nghiệp có thể chi phối sự biến động về giá cả trên thị trường một
cách đáng kể. Và để một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường thì
doanh nghiệp đó phải có khả năng hoạt động mà không phụ thuộc vào một hay bất kì
các đối thủ là doanh nghiệp khác, khách hàng hay nhà cung cấp.
Một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có khả năng cạnh tranh, lợi thế
cạnh tranh vượt trội hơn so với các doanh nghiệp khác. Sự vượt trội này mang lại cho
họ khả năng hành động một cách độc lập trong các hoạt động về giá và sẽ có những
khả năng gây tác động đến thị trường như tăng giá bán sản phẩm, hạn chế số lượng sản

phẩm đầu ra hoặc thậm chí còn hạn chế quá trình đổi mới sản phẩm so với các doanh
nghiệp khác và so với khách hàng.
 Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Dựa vào vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp mình trên thị trường, mà các doanh
nghiệp đã thực hiện các hành vi lạm dụng để củng cố vị trí thống lĩnh thị trường của
doanh nghiệp mình.
Căn cứ theo Khoản 5 Điều 3 Luật Cạnh Tranh 2018 quy định thì chúng ta hiểu:
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.

TRANG 11 / 26


Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là những hành vi do doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện bằng cách loại bỏ
doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không
cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh điều đó dẫn đến những sai phạm về cạnh
tranh trên thị trường. Và doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường vi phạm pháp luật
khi có hành vi “lạm dụng” vị trí lợi thế của mình trên thị trường.
 Căn cứ xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp
Căn cứ theo Điều 24 Luật Cạnh Tranh 2018 để xác định doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường như sau:
 Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị
trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan.
 Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí trị thống lĩnh thị trường nếu cùng hành
động gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc
có thị phần thuộc một trong các trường hợp: hai doanh nghiệp có tổng thị phần
từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ
65% trở lên trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75%
trở lên trên thị trường liên quan.

Như vậy, căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp dựa vào thị
phần hoặc tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp đó. Hai căn cứ này được quy định tách
rời nhau. Theo đó, nếu một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên thì đươc xem là có
vị trí thống lĩnh thị trường mà không cần xem xét đến bất kỳ điều kiện nào khác. Ngoài
ra, nếu doanh nghiệp có thị phần dưới 30% nhưng lại có sức mạnh thị trường đáng kể
gây hạn chế cạnh tranh thì vẫn được xem là có vị trí thống lĩnh.

TRANG 12 / 26


Đối với một nhóm doanh nghiệp để xác định vị trí thống lĩnh thị trường nếu nhóm
doanh ghiệp đó có đủ ba điều kiện:
Thứ nhất, là các doanh nghiệpthuộc nhóm doanh nghiệp này cùng hành động. Cùng
hành động ở đây được hiểu là đồng loạt trong một thời gian nhất định thực hiện một
hành vi lạm dụng như nhau. Chính điều kiện này gắn kết các doanh nghiệp đơn lẻ , độc
lập với nhua thành một nhóm. Cùng hành động của một nhóm doanh nghiệp có hành vi
lạm dụng được xác định dựa vào hành vi đồng loạt của hành vi mà không cần chứng
minh có thỏa thuận mặc dù nếu có thỏa thuận thì đó cũng là biểu hiện rõ nhất của việc
thống nhất ý chí “cùng hành động”.
Thứ hai, hành động của nhóm này có mục đích gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể
Thứ ba, nhóm doanh nghiệp này phải có tổng thị phần trên thị trường liên quan đạt
mức luật định. Đối với hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường
liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Đặc điểm
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan. Doanh nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm tổ chức và cá nhân kinh doanh…
Để xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp mình và trở nên vị trí thống lĩnh thị

trường, doanh nghiệp đó có thể hình thành qua quá trình cạnh tranh hoặc từ sự bảo hộ
của nhà nước.
 Về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp qua quá trình cạnh tranh: Sau một thời
gian dài tồn tại trên thị trường, doanh nghiệp đã tạo riêng thương hiệu của chính

TRANG 13 / 26


doanh nghiệp bằng cách tạo sự thu hút cho sản phẩm, tạo được sự uy tín của
khách hàng và bằng chính cả sự tập trung phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh so với các doanh nghiệp đối thủ khác.
 Về vị trí thống lĩnh thị trường từ sự bảo hộ của quyền lực nhà nước: Chính sự
ưu ái của các cơ quan quản lý nhà nước thông qua những “ưu đãi đặc biệt” so
với các doanh nghiệp khác trên thị trường, những quyền lợi mà doanh nghiệp
này được hưởng nhưng những doanh nghiệp khác không, chính điều này đã giúp
cho những doanh nghiệp được nhận sự ưu ái vươn và đạt được vị trí thống lĩnh
thị trường mà không hoàn toàn dựa vào chính năng lực cạnh tranh hơn doanh
nghiệp khác.
Nhưng việc hình thành vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp bằng cách nào thì so
với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp này đã có nhiều lợi thế và khả năng chủ động
trong mối quan hệ với khách hàng. Chính lợi thế này, mà khả năng kiểm soát các yếu
tố của thị trường (nguyên liệu đầu vào, giá cả…) hoặc có sức ảnh hưởng đến khách
hàng và các doanh nghiệp khác trên thị trường cũng lớn hơn.
Đôi khi doanh nghiệp đã lợi dụng những lợi thế này áp đặt các điều kiện bất lợi
cho khách hàng và các doanh ngiệp khác nhằm tăng lợi nhuận và cũng cố vị trí thống
lĩnh. Hành vi lạm dụng vị chỉ sảy ra đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, bơi
vì khi không là doanh nghiệp thống lĩnh thì tất cả các doanh nghiệp trên thị trường đều
bình đẳng và việc xác định sự thành công hay không sẽ phụ thuộc vào chất lượng sản
phẩm, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, khả năng tạo sự uy tín đối với khách
hàng…Mặt khác, chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể là một

doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định cũng như chế tài áp
dụng đối với hai loại doanh nghiệp này cũng không giống nhau, bởi đối với nhóm
doanh nghiệp còn phải có sự thống nhất và đồng thời thực hiện hành vi lạm dụng, còn

TRANG 14 / 26


các chủ thế khác có quyền lực để tác động vào thị trường cũng không thuộc chủ thể của
hành vi này.
Thứ hai, hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã hoặc đang
thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh theo luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường bị cấm.
Các hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp thường thực hiện như thông
qua việc ấn định giá, áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa… nhằm gây ra những thiệt hại
cho khách hàng và các đối thủ nhằm thu được nhiều lợi nhuận, giữ vị trí thống lĩnh trên
thị trường. Việc thực hiện những hành vi này cản trở sự cạnh tranh lành mạnh, ảnh
hưởng tiêu cực đến khách hàng và dần làm cho thị trường ngày càng mất cân bằng và
không phát triển được.
Thứ ba, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể gây ra hậu quả
nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp cạnh tranh và khách hàng của họ.
Hành vi lạm dụng gây ra hậu quả là những thiệt hại về lợi ích mà các doanh
nghiệp khác và khách hàng phải gánh chịu, song nghiêm trọng hơn là làm suy giảm,
cản trở tình trạng cạnh tranh của thị trường.
Chính vì vậy, Nhà nước cần can thiệp vào hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường bất kì lức nào nếu phát hiện ra có đấu hiệu của hành vi. Việc phát hiện này có
thể xuất phát từ phản ánh của khách hàng, người dân hay các doanh nghiệp khác…
2.2 Dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm bóc lột khách
hàng
Các quy định về chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được xây dựng
nhằm điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp đang nắm giữ vị trí thống lĩnh, không

cho các doanh nghiệp này có thể bóp méo hoặc triệt tiêu cạnh tranh, bóc lột khách

TRANG 15 / 26


hàng. Đây là hành vi nằm trong nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
Khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh Tranh 2018. Trong đó chúng tôi đặc biệt chú trọng đến
những thiệt hại mà khách hàng gặp phải khi doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường có hành vi lạm dụng nhằm bóc lột những đối tượng phải phụ
thuộc mình. Cụ thể là:
Hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt
hại cho khách hàng nếu giá mua tại cùng thị trường liên quan được đặt ra thấp hơn giá
thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện không có những thay đổi bất thường
có tác động làm thay đổi giá bán của hàng hóa dịch vụ. Những thay đổi bất thường
được quy định tại Khoản 1 Điều 27 Nghị định 116/2005 bao gồm: chất lượng hàng hóa,
dịch vụ đặt mua kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó hoặc có khủng
hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm giá bán buôn hàng
hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới giá thành sản
xuất trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó. Hành vi của doanh
nghiệp thống lĩnh trong trường hợp này tác động trực tiếp đến đối tượng là các nhà
cung cấp của doanh nghiệp, nếu họ không bán hàng cho doanh nghiệp thống lĩnh thì
khó hoặc hầu như không thể bán hàng cho doanh nghiệp khác. Trong tình thế bị phụ
thuộc vào doanh nghiệp thống lĩnh nhà cung cấp buộc phải chấp nhận sự ép giá của
doanh nghiệp thống lĩnh dẫn đến việc kinh doanh trở nên thua lỗ.
Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt
hại cho khách hàng nếu nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức
vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai
điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116/2005: giá bán lẻ trung bình tại
cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng
một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã

bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó hoặc không có biến động bất thường làm tăng

TRANG 16 / 26


giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá. Trong trường hợp này hành vi của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh nhằm mục đích tận thu lợi nhuận một cách tối đa. Người
mua có cấu trúc thị trường kém hoặc hạn chế trong cạnh tranh sẽ bị rơi vào thế bị bóc
lột.
Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế
không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá
đã quy định trước được quy định tại Khoản 3 Điều 27 Nghị định 116/2005. Bản chất
của mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ này không phải là thỏa thuận mà là áp
đặt ý chí từ một bên có quyền lực. Với những hành vi này, khách hàng là những người
chịu thiệt hại bởi doanh nghiệp thống lĩnh, nếu trong vai trò là người bán hàng cho
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh phải bán hàng dưới giá thành còn nếu trong vai trò
người mua thì phải mua hàng với giá cao hơn so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc
người mua hàng để bán lại thì phải bán với giá thấp hơn giá thành thực. Giá mua bán
trên thị trường không được hình thành theo các quy luật của thị trường mà do doanh
ngiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với giá cạnh tranh là
khoản lợi ích mà doanh nghiệp có được do nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường. Nếu
doanh nghiệp thống lĩnh không lạm dụng thì khách hàng có thể được hưởng những lợi
ích từ việc cạnh tranh trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp.
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng bao gồm ba hành vi
cụ thể quy định tại Điều 28 Nghị định 116/2005:
Thứ nhất, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng.
Đây là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thực hiện nhằm tạo sự bất cân đối
trong cung cầu. Khi nguồn cung bị hạn chế không đủ đáp ứng lượng cầu thì tất yếu giá


TRANG 17 / 26


cả của hàng hóa, dịch vụ đó sẽ tăng lên và khách hàng càng bị yếu thế trong quan hệ
với nhà cung ứng.
Thứ hai, hạn chế thị trường gây thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh tự giới hạn khu vực bán hàng hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm
mà không có lý do chính đáng gây thiệt hại cho khách hàng. Hành vi này tạo tiền đề
cho doanh nghiệp bóc lột khách hàng và củng cố quyền lực thị trường của mình.
Thứ ba, hạn chế sự phát triển kỹ thuật công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là
việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở đối thủ cạnh tranh tiến hành
việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
hoạt động kinh doanh. Ngoài ra có thể xuất hiện hành vi phản cạnh tranh là ngăn chặn
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ của chính doanh nghiệp thống lĩnh để đỡ hao tổn chi
phí, khai thác tận thu kỹ thuật công nghệ cũ và duy trì thị phần. Hành vi này dẫn đến
việc khách hàng không được hưởng những lợi ích chính đáng mà đáng lẽ ra trong một
thị trường có tính cạnh tranh thì họ đương nhiên được hưởng.
PHẦN II.

TRANG 18 / 26


PHẦN III. THỰC TIỄN THỰC THI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
NHẰM BÓC LỘT KHÁCH HÀNG TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN
2016.
3.1 Thực trạng thi hành quy định của pháp luật canh tranh về hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường.
3.1.1 Thi hành các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường tại Việt Nam.
Trong 12 năm thực thi, Bộ Công Thương đã chủ động tiến hành hoạt động điều
tra tiền tố tụng đối với nhiều ngành, lĩnh vực có tính chất quan trọng, nhạy cảm trong
nền kinh tế nhằm tăng cường khả năng phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh
tranh. Hoạt động điều tra tiền tố tụng được tiến hành khi nhận thấy trên thị trường có
biến động bất thường hoặc đang xảy ra tranh chấp liên quan đến pháp luật cạnh tranh,
hoặc có nghi vấn về hành vi vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Mục đích của hoạt
động này là nhằm thu thập các thông tin, tài liệu cơ bản về hành vi nghi vấn, cũng như
thông tin chung về cạnh tranh trên thị trường. Kết quả của hoạt động điều tra tiền tố
tụng là đưa ra các quyết định điều tra theo thủ tục tố tụng cạnh tranh nếu có thông tin
xác thực về hành vi vi phạm, hoặc tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc nếu chưa đủ
thông tin. Tính đến năm 2016, đã có tổng số 87 cuộc điều tra tiền tố tụng được thực
hiện.

TRANG 19 / 26


14
12

S ố vụ việc

10
7

10

10

7


5

5

4

3
1

1

2005-2006
00
20070

20080

11
2009

Điều tra tiền tố tụng

1

2

2010

2

20110

1
20120

Quyết định điều tra

1

11

2013
0

2014

1
2015
00

2016
0

Quyết định xử lý

Số vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền và thỏa thuận HCCT

Từ bảng thống kê tính đến năm 2016, số vụ việc điều tra liên quan đến các hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói riêng ta thấy số vụ việc điều tra tiền tố tụng
chênh lệch nhiều so với quyết định điều tra và quyết định xử lý. Vấn đề đặt ra ở đây tại

sao khi có dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhiều nhưng số vụ
quyết định điều tra và xử lý lại ít ỏi như vậy? Có phải các quy định về hành vi vi phạm
mới chỉ thể hiện một số hình thức biểu hiện bên ngoài, mà chưa phản ánh đầy đủ, chính
xác bản chất, mục tiêu phản cạnh tranh của hành vi. Bản chất của cạnh tranh thường
được xem xét dưới góc độ kinh tế. Bởi vậy, quy định theo cách mô tả hình thức biểu
hiện bên ngoài của hành vi sẽ dẫn đến không phản ánh đúng bản chất, đồng thời, có thể
bỏ sót các hành vi có bản chất lạm dung vị trí thống lĩnh thị trường hoặc ngược lại, cấm
cả những hành vi không có bản chất, mục đích phản cạnh tranh. Có thể nói đến vụ việc
Megastar đã phản ánh chưa đầy đủ hết bản chất về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường nhằm bóc lột khách hàng mà cụ thể ở đây là người tiêu dùng, người mua vé
chịu ảnh hưởng gián tiếp từ việc tăng phí dịch vụ của công ty Megastar.
TRANG 20 / 26


Mặc dù số vụ việc về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được điều tra và xử lý
còn khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh các cơ quan cạnh tranh Việt Nam còn non trẻ
với nguồn lực hạn chế và Luật Cạnh tranh được thực thi chưa đủ lâu để có thể đi sâu
vào đời sống xã hội thì kết quả thi hành nêu trên chính là sự khởi đầu cho thấy Luật
Cạnh tranh đã chính thức đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
3.1.1 Thực trạng về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của công ty
Megastar tại Việt Nam.
Công ty THHH truyền thông Megastar lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để ấn định
giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý.
Vào cuối năm 2010, sáu doanh nghiệp ngành điện ảnh đó là Công ty cổ phần Sài
Gòn Điện ảnh (Cinebox Hòa Bình), Công ty cổ phần Điện ảnh 212 (Cinebox Lý Chính
Thắng), Công ty cổ phần truyền thông Điện ảnh Sài Gòn (cụm rạp Đống Đa, Thăng
Long, Toàn Thắng, Vinh Quang), Công ty cổ phần phim Thiên Ngân (cụm rạp Galaxy),
Công ty TNHH một thành viên điện ảnh Hà Nội (cụm rạp Tháng Tám), Trung tâm Phát
hành phim và chiếu bóng Đồng Nai (rạp Thanh Bình và Sông Phố) đã nộp đơn đến Cục
Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương để khiếu nại Công ty TNHH Truyền thông

Megastar. Bên khiếu nại cho rằng Megastar đã có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vi phạm Luật Cạnh tranh.
Thời điểm lúc đó, 90% các phim nhựa chiếu rạp là phim nước ngoài, được các
doanh nghiệp nhập khẩu từ các hãng sản xuất phim nước ngoài. Với mỗi phim, hãng
sản xuất phim nước ngoài ký hợp đồng với một doanh nghiệp để doanh nghiệp này
nhập khẩu và phân phối lại phim cho các doanh nghiệp khác trong nước. Các doanh
nghiệp khiếu nại cũng thống kê rằng Megastar thường chiếm khoảng 50% số phim
nhập khẩu. Cụ thể, tổng phim nhập khẩu trong năm 2009 là 106 phim. Trong đó, riêng
Megastar nhập 50 phim. Bên khiếu nại cũng cho rằng doanh thu từ hoạt động phân

TRANG 21 / 26


phối phim nhựa nhập khẩu của Megastar trong thời gian qua dao động từ 34% đến 75%
tổng doanh thu trên thị trường phân phối phim nhựa nhập khẩu tại Việt Nam.
Theo quy định của Luật cạnh tranh, một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống
lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% (khoản 1 Điều 24 Luật cạnh tranh 2018). Như
vậy, Megastar là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Theo quy định luật cạnh
tranh, doanh nghiệp thống lĩnh không được tăng quá 5% giá vé trong vòng sáu tháng
nếu không có những biến động đặc biệt trên thị trường. Trong khi đó, Megastar áp đặt
Giá thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem là 25 nghìn đồng (sau thuế) làm cho giá
thuê phim tăng trung bình 19% - 30% so với trước đây. Vì vậy, có thể thấy Megastar đã
có hành vi vi phạm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để áp đặt giá bán bất hợp lý
gây ra thiệt hại cho khách hàng (theo quy đinh tại điểm b, khoản 1 Điều 27 luật cạnh
tranh 2018). Ngoài vi phạm này thì Megastar vi phạm quy định về áp đặt điều kiện cho
doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa dịch vụ. (điểm đ, khoản 1,
Điều 27 luật cạnh tranh2018). Như vậy, lúc này người chịu thiệt là khách hàng họ sẽ
không được lựa chọn mua với những giá thành thấp hơn, mà cụ thể là đối với học sinh,
sinh viên khi mức thu nhập trung bình thấp từ nguồn bố mẹ cho. Bên cạnh đó, vi phạm
này còn dẫn đến mục tiêu đi ngược chính sách phát triển nghành. Chính sách xã hội

hóa cho phép các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh, nhưng nếu
không điều tiết việc những doanh nghiệp này có hành vi chèn ép doanh nghiệp trong
nước, sẽ dẫn đến hậu quả các doanh nghiệp Việt Nam dần bị tiêu diệt và chính sách xã
hội hóa của chúng ta cũng bị chết theo. Sau một thời gian điều tra, Hội đồng cạnh tranh
đã tổ chức xử lý thành công vụ việc hạn chế canh trạnh. Ngày 14/4/2015, Hội đồng đã
ban hành quyết định giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến các hành vi hạn chế
cạnh tranh của doanh nghiệp điện ảnh Mesgastar vi phạm pháp luật cạnh tranh về lạm
dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường cho thuê phim nhựa chiếu rạp.

TRANG 22 / 26


Ngày 14/5/2015, Quyết định này chính thức có hiệu lực pháp luật và không có
bên nào khiếu nại. Quyết định đã kết luận như sau:
1. Công ty Megastar có vị trí thống lĩnh trên thị trường cho thuê phim nhựa chiếu rạp ở
Việt Nam.
2. Không đủ chứng cứ để kết luận hành vi áp đặt giá thuê phim dựa trên chính sách
định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem của Công ty Megastar là hành vi quy
định tại khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, vi phạm Khoản 2 Điều 13 Luật
Cạnh tranh. 2004.
3. Hành vi gắn việc cho thuê phim Transformers: Revenge of The Fallen với việc phải
thuê phim Ice Age 3 là hành vi được quy định tại Điều 30 Nghị định số 116/2005/NĐCP. Hành vi này bị cấm tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004.
4. Hành vi của Công ty Megastar buộc doanh nghiệp khác thực hiện thêm một hoặc
một số nghĩa vụ do Megastar chỉ định phòng chiếu và áp đặt suất chiếu nằm ngoài
phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng là hành vi được quy định tại Điều 30 Nghị
định số 116/2005/NĐ-CP. Hành vi này bị cấm tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh
2004.
5. Trong vụ việc này, Công ty Thiên Ngân đã thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng phí xử lý
vụ việc cạnh tranh. Công ty Thiên Ngân không đại diện cho các doanh nghiệp khiếu
nại khác để nộp tạm ứng phí xử lý vụ việc cạnh tranh.

Sau khi vụ việc Megastar có dấu hiệu hành vi vi phạm và đã được cơ quan có
thẩm quyền giải quyết và đưa ra kết luận điều tra, theo như quyết định giải quyết khiếu
nại mà cơ qua điều tra đưa ra về “không đủ chứng cứ để kết luận hành vi áp đặt giá
thuê phim dựa trên chính sách định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem của
Công ty Megastar là hành vi quy định tại Khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐCP, vi phạm Khoản 2 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004” . Tuy nhiên vấn đề ở đây là
TRANG 23 / 26


chúng ta không biết được dựa vào những căn cứ, nghiệp vụ điều tra gì mà cơ quan có
thẩm quyền lại đưa ra quyết định như thế, đối với kinh nghiệm của việc giải quyết một
số nước thì để kết luận về hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao bất hợp lý cơ quan
cạnh tranh sẽ thực hiện hai bước điều tra:
Một là, xác định một mức giá đúng có thể chấp nhận được dựa vào chi phí sản
xuất và tình hình thị trường (còn gọi là giá cạnh tranh- tức là giá được hình thành trong
môi trường có cạnh tranh và giá bán thực tế của sản phẩm). Nếu giá bán thực tế cao
hơn so với giá cạnh tranh thì có thể kết luận là có dấu hiệu lạm dụng.
Hai là, cơ quan cạnh tranh sẽ xem xét những lý do dẫn đến việc giá bán quá cao
như do chi phí tăng lên hoặc do nhu cầu tăng....
Như vậy, trong trường hợp này xét về tiêu chí thứ hai thì lý do dẫn đến việc giá
bán quá cao không phải lỗi hoàn toàn do doanh nghiệp Megastar bởi vì khi doanh
nghiệp này quy định giá 25.000/ vé thì sáu doanh nghiệp khởi kiện này vẫn có quyền
lựa chọn bán giá thấp hơn hoặc một giá cả mang lợi nhuận thấp hơn (mặc dù trên thực
tế sẽ không có doanh nghiệp nào như vậy). Cho nên lý do đưa ra của sáu doanh nghiệp
về hành vi ấn định giá dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho “khách hàng” quy hết trách
nhiệm về cho doanh nghiệp Megastar là không hợp lý.
3.2 Nhận xét, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
Kể từ khi luật cạnh tranh ra đời, trên thực tế, số vụ việc mà cục quản lí cạnh
tranh và hội đồng cạnh tranh xử lí quá ít ỏi. Điều đó không có nghĩa là các hành vi vi
phạm luật cạnh tranh (đặc biệt là các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường)
không xảy ra mà bởi tâm lí e ngại của các bên có liên quan trong việc cầu viện đến quy

định của luật cạnh tranh. Mặc dù kết quả kết luận của cơ quan có thẩm quyền không
được như mong đợi của các bên khởi kiện thế nhưng trước mắt với hành vi khiếu kiện

TRANG 24 / 26


này là một động thái cho thấy các doanh nghiệp dường như đã bắt đầu quan tâm hơn
đến luật cạnh tranh trong quá trình hoạt động của mình.
Từ những vấn đề trên chúng em xin phép đề xuất một số bình luận, kiến nghị để
hoàn thiện pháp luật cạnh tranh như sau:
Một là, Luật cạnh tranh mới chỉ gọi tên hành vi ấn định giá bán lại với tư cách là
một biểu hiện của sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường liên
quan. Trong khi đó, việc ấn định giá bán lại của các doanh nghiệp tự thân nó không
phải lúc nào cũng là tiêu cực, cần cấm đoán. Nó chỉ bị ngăn cấm khi mang trong mình
những dấu hiệu về sự lạm dụng quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh. Vì thế,
hiệu quả của sự đấu tranh chống lạm dụng phụ thuộc vào việc nhà làm luật có khả năng
xác định chính xác ranh giới của sự lạm dụng trong việc ấn định giá bán lại bằng
những dấu hiệu vi phạm cụ thể, chuẩn xác. Với cách quy định mang tính nguyên tắc
trong luật cạnh tranh như đã phân tích, hiệu quả áp dụng pháp luật sẽ phụ thuộc vào
khả năng chi tiết hoá luật canh tranh trong các văn bản hướng dẫn. Cho nên cần sớm có
những văn bản, nghị định hướng dẫn cụ thể sớm nhất cho Luật Cạnh tranh 2018.
Hai là, khảo sát dự thảo Nghị định hướng dẫn luật cạnh tranh cho thấy, Ban
soạn thảo đã có những cố gắng trong việc nhận dạng và đưa ra những tiêu chí nhằm
xác định sự vi phạm của hành vi ấn định giá bán lại. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề
bị bỏ quên như: việc xác định thiệt hại mà khách hàng phải gánh chịu, các căn cứ xác
định sự áp đặt của hành vi vi phạm… Kinh nghiệm đấu tranh chống hành vi vi phạm
duy trì giá bán lại của các nước cho thấy, những nội dung trên là căn cứ cơ bản để kết
luận về bản chất lạm dụng của sự vi phạm. Do đó, một khi chúng ta chưa từng có kinh
nghiệm trong việc đấu tranh chống loại vi phạm này trên thương trường, thì cần phải
học hỏi kinh nghiệm pháp lý và thực tế của các nước đi trước, từ đó phác họa diện mạo

chung với đầy đủ các căn cứ cấu thành cơ bản của hành vi, có như vậy, pháp luật mới
thực sự đi vào thực tiễn.
TRANG 25 / 26


×