Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Phân tích bản chất pháp lý của việc cầm giữ tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.62 KB, 23 trang )

Phân tích bản chất pháp lý của việc cầm giữ tài sản
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
MỤC LỤC

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Cầm giữ tài sản là một chế định mới trong phần chế định về Biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Nói
như vậy cũng để thấy rằng, cầm giữ tài sản vốn không phải là điểm mới hoàn
toàn, chưa được đề cập trong BLDS 2005 trước đó mà với những nhìn nhận tiến
bộ hơn sau này, Cầm giữ tài sản mới được xem là một trong các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ với đúng ý nghĩa và vai trò của nó.
Vậy điều gì đã tạo nên sự thay đổi này?
Phần trình bày dưới đây, trên cơ sở của một người học Luật, mong muốn đi
tìm sự lý giải đó, xin được trình bày về bản chất pháp lý của việc cầm giữ tài
sản theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, để thấy rằng: Cầm giữ tài sản với
đúng ý nghĩa của nó là một biện pháp hữu hiện để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự trong một số quan hệ dân sự đặc trưng được Bộ luật dân sự 2015 bảo vệ.

Page 1 of 23


B/ NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC CẦM GIỮ TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Ở Việt Nam, việc cầm giữ tài sản không chỉ được đề cập trong BLDS với
tư cách là luật chuyên ngành mà còn được quy định trong một số ngành Luật
khác như Luật Thương mại 2005, cho phép thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics quyền cầm giữ hàng hóa và chứng từ liên quan để đòi nợ đã đến hạn
của khách và đi xa hơn BLDS là trao cho bên cầm giữ quyền định đoạt hàng
hóa và chứng từ sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ cho khách
hàng để trừ khoản nợ liên quan.


Đối với BLDS 2015, Cầm giữ tài sản (jus retentionnis) là một trong hai
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn mới song chỉ mới đối với pháp
luật dân sự Việt Nam bởi biện pháp này được áp dụng rộng rãi trong giao lưu
dân sự kinh tế ở các nước, thậm chí đã từng được đề cập trong Luật dân sự La
Mã, theo đó Điều 2286 BLDS Pháp ghi nhận quyền cầm giữ trong những trường
hợp nhất định và có thể tồn tại mà không cần có sự thỏa thuận trước với người
có nghĩa vụ. Vậy đối với BLDS hiện hành ở Việt Nam, việc cầm giữ tài sản với
tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự sẽ được quy định thế
nào?
1. Khái niệm và đặc điểm cầm giữ tài sản
Điều 346 BLDS 2015 quy định: “Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền
(sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của
hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”
Page 2 of 23


Từ khái niệm này, chúng ta có thể nhìn nhận đặc điểm của cầm giữ tài sản
như sau:
Thứ nhất, Chủ thể của quan hệ cầm giữ tài sản gồm bên có quyền và bên
có nghĩa vụ.
Bên có quyền hay bên cầm giữ là bên có quyền lợi bị xâm phạm do việc
không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận
của bên có nghĩa vụ gây ra.
Bên có nghĩa vụ hay bên bị cầm giữ là bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng song
vụ có đối tượng là tài sản đang bị bên cầm giữ nắm giữ.
Các bên trong quan hệ cầm giữ có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ
thể khác đáp ứng các yêu cầu về năng lực chủ thể .
Thứ hai, mặc dù là nằm trong phần chế định các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ dân sự, quan hệ cầm giữ được ghi rõ chỉ phát sinh từ hợp đồng song vụ, khi

và chỉ khi bên có nghĩa vụ thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi
đến thời hạn. Lúc này, bên có quyền đồng thời là bên có quyền trong hợp đồng
song vụ đã giao kết với bên có nghĩa vụ, đồng thời là bên có quyền trong việc
cầm giữ tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ đã xác lập trước đó.
Thứ ba, đối tượng được cầm giữ là tài sản, hay nói cách khác hợp đồng
song vụ mà các bên chủ thể đã xác lập trước đó có đối tượng là tài sản và nghĩa
vụ mà bên có nghĩa vụ vi phạm phải liên quan đến tài sản này. Điều kiện về tài
sản bảo đảm trong cầm giữ tài sản cũng không được đề cập quá nhiều bởi lẽ với
tư cách là đối tượng của hợp đồng song vụ, nó đã đáp ứng được phần nào yếu tố:
xác định được cụ thể, có thể trị giá thành tiền, được phép chuyển giao trong dân
sự và thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ.
2. Vai trò của biện pháp cầm giữ tài sản
Cầm giữ tài sản, trước hết, tương tự như những biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ dân sự khác, là biện pháp được xác lập nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự
chính được thực hiện, tạo một mối ràng buộc để bên có nghĩa vụ thực hiện đúng

Page 3 of 23


trách nhiệm của mình, đồng thời có thể góp phần khắc phục hậu quả khi bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Điều đặc biệt ở cầm giữ tài sàn, người cầm giữ có thể linh động bảo đảm
cho mình bằng việc tiếp tục nắm giữ tài sản như hiện trạng khi bên có nghĩa vụ
không thể đáp ứng quyền lợi của mình mà không lệ thuộc vào việc đã xác lập
biện pháp cầm cố, thế chấp,.. có thủ tục phức tạp hơn, nhất là khi bên có nghĩa
vụ không có tài sản để cầm cố, thế chấp…
Song song với đó, việc đưa cầm giữ tài sản vào trong các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng mở rộng hành lang pháp lý cho các bên
tham gia vào giao dịch dân sự, có nhiều phương án để lựa chọn biện pháp bảo
đảm, đảm bảo được tính linh hoạt cho quá trình ký kết, tham gia, thực hiện hợp

đồng dân sự của các chủ thể, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền
kinh

tế

đất

nước.

II. BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA VIỆC CẦM GIỮ TÀI SẢN THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Lý do tại sao dù nhiều nước trên thế giới đã công nhận cầm giữ tài sản là
một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự từ rất lâu, và mặc
dù đã có dự thảo về điều này, BLDS 2005 vẫn chỉ xem cầm giữ tài sản là một
hậu quả pháp lý dành cho bên có quyền thực hiện khi bên có nghĩa vụ không
thực hiện hoặc thực hiện đúng nghĩa vụ. Mãi cho đến BLDS 2015 thì cầm giữ
tài sản mới được xem là biện pháp để đảm bảo thực hiện nghĩa dân sự. Quan
điểm cá nhân cho rằng, đó có thể là sự nhìn nhận sâu sắc hơn giữa mặt hình thức
và nội dung với đúng bản chất pháp lý của nó.
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong sự vật, hiện tượng; quyết định sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng đó. Theo đó, tìm hiểu về bản chất pháp lý của việc cầm
giữ tài sản theo quy định của BLDS 2015 là tìm hiểu cơ sở hình thành việc cầm
giữ tài sản; định hình hiện trạng cầm giữ tài sản về mặt pháp lý; sự ràng buộc
quyền và nghĩa vụ trong cầm giữ tài sản giữa các bên; nội dung bản chất của
Page 4 of 23


việc cầm giữ tài sản cũng như căn cứ chấm dứt cầm giữ tài sản theo quy định
của BLDS 2015.

1. Bản chất cơ sở xác lập biện pháp cầm giữ tài sản
1.1. Cầm giữ tài sản xuất phát từ sự tương quan quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng song vụ có đối tượng là tài sản - Quyền của chủ thể này
chỉ được đáp ứng khi họ thực hiện nghĩa vụ của mình
Ngay từ khái niệm được quy định tại Điều 346 BLDS 2015, Cầm giữ tài
sản đã được mặc định rõ chỉ áp dụng trong trường hợp người cầm giữ đang nắm
giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ. Điều này được hiểu
rằng: chỉ những nghĩa vụ dân sự phát sinh từ một hợp đồng song vụ có đối
tượng là tài sản mới được xem cầm giữ tài sản như một biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự và rõ ràng chỉ người đang có quyền nắm giữ tài sản mới có
thể áp dụng biện pháp này. Chẳng hạn: “A ở TP.HCM mua hàng hóa của một
đối tác ở Hà Nội và A ký hợp đồng thuê B vận chuyển hàng hóa đó từ Hà Nội
vào TP.HCM để giao cho A (tới nơi A trả tiền vận chuyển đầy đủ cho B thì B sẽ
giao hàng), tuy nhiên tới nơi A ko giao tiền cho B thì B có quyền giữ hàng để
bảo đảm A sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho mình, còn đối với A dù cũng là
một bên chủ thể nhưng vì không nắm giữ tài sản nên không thể áp dụng biện
pháp cầm giữ tài sản mà để đảm bảo B giao hàng cho mình, A có thể thỏa thuận
với B thiết lập hợp đồng đặt cọc,..”.
Vậy điều gì đã khiến cho hợp đồng song vụ có đối tượng là tài sản là căn
cứ phát sinh nghĩa vụ duy nhất có thể áp dụng biện pháp cầm giữ tài sản theo
quy định của BLDS hiện hành?
Chúng ta biết rằng hợp đồng song vụ là loại hợp đồng mà mỗi bên đều có
các quyền và nghĩa vụ nhất định, quyền của bên này đối ứng với nghĩa vụ của
bên kia. Khi một bên muốn nhận được quyền lợi của mình thì phải thực hiện
một nghĩa vụ tương ứng, ngược lại khi không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình thì chủ thể sẽ không có được quyền lợi như đã giao kết
trong hợp đồng với bên kia. Quay trở lại với cầm giữ tài sản, với những thỏa
thuận, đặc trưng của hợp đồng mà hai bên đã giao kết, một trong hai bên chủ thể
Page 5 of 23



sẽ là chủ thể nắm giữ tài sản là đối tượng của hợp đồng, khi đến hạn, hai bên
thực hiện nghĩa vụ và chủ thể đang nắm giữ tài sản sẽ chuyển giao tài sản đó cho
bên chủ thể còn lại, nhưng vì một lí do nào đó bên chủ thể đó không thực hiện
hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã thỏa thuận thì bên chủ thể đang nắm
giữ tài sản có quyền tiếp tục nắm giữ tài sản đó cho đến khi bên còn lại thực
hiện nghĩa vụ đối với mình. Rõ ràng quyền lợi là cái mà các bên chủ thể quan
tâm nhất khi giao kết hợp đồng, đối với hợp đồng song vụ có đối tương là tài
sản, tài sản lại càng là vấn đề đáng quan tâm, do đó việc cầm giữ tài sản để phía
chủ thể bên kia buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình để có được tài sản chính
là cái tinh thần mà bên đang nắm giữ tài sản hướng tới. Như vậy, bằng cách thực
hiện theo nguyên tắc đơn giản và công bằng, trong một hợp đồng song vụ có đối
tượng là tài sản, cầm giữ tài sản trở thành một biện pháp thuần tùy, đặc trưng và
tỏ ra vô cùng hữu hiệu.
Đi theo nguyên tắc này thì những nghĩa vụ phát sinh không liên quan đến tài
sản hay hợp đồng đơn vụ chỉ có một bên có quyền, một bên có nghĩa vụ,.. thì
không thể áp dụng biện pháp này, tạo nên đặc trưng cho biện pháp cầm giữ tài
sản chỉ áp dụng với hợp đồng song vụ có đối tượng là tài sản. Điều này cũng
đồng thời khiến cho cầm giữ tài sản khác với những biện pháp còn lại như cầm
cố, thế chấp,.. vốn có thể áp dụng để bảo đảm nhiều loại nghĩa vụ khác nhau.
1.2. Cầm giữ tài sản xuất phát từ ý chí của một bên, không phụ thuộc vào
sự thỏa thuận
Ở đây, khác với những biện pháp bảo đảm khác quy định tại Điều 292 BLDS
2015 được phát sinh trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên thì cầm giữ tài sản
được thực hiện theo ý chí của bên đang nắm giữ tài sản. Bộ luật dân sự Việt
Nam 2015 nói riêng cũng như pháp luật dân sự một số nước trên thế giới cũng
thừa nhận điều này và ghi nhận cầm giữ tài sản như một quyền của chủ thể khi
giao kết một số loại hợp đồng đặc trưng. Theo đó, trong phần thực hiện hợp
đồng, Điều 412 BLDS 2015 quy định: “ Trường hợp bên có nghĩa vụ không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền xác lập quyền giữ tài sản

đối với tài sản của bên có nghĩa vụ …”. Khi đã là quyền được nhà nước cho
Page 6 of 23


phép, trong trường hợp luật định, chủ thể đương nhiên có thể cầm giữ tài sản của
bên có nghĩa vụ đồng nghĩa với việc không cần sự thỏa thuận nào nữa. Tính hợp
lý của chế định này cũng thể hiện ở chỗ, bản thân người có nghĩa vụ khi đã
không thực hiện nghĩa vụ của mình thì đương nhiên cũng không có quyền được
chiếm hữu tài sản như đã thỏa thuận.
Ví dụ A mang xe thuộc quyền sở hữu của mình sửa chữa tại cửa hàng của
B, tuy nhiên, khi B hoàn thành nghĩa vụ sửa xe của mình và A phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền cho B thì A không có tiền hoặc không có đủ tiền trả cho B, và
tại thời điểm đó, tức là thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ của A, nhưng A đã
thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì B có quyền cầm giữ chiếc xe của A.
1.3. Cầm giữ tài sản là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự thuần túy
Biện pháp thuần túy là biện pháp mang tính đơn thuần, cơ bản. Sở dĩ có thể
khẳng định cầm giữ tài sản là biện pháp thuần túy bởi nếu như những biện pháp
bảo đảm khác chỉ được hình thành khi xác lập một nghĩa vụ phụ có vai trò là bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ chính thì xuất phát ban đầu của cầm giữ tài sản như đã
nói là một hệ quả pháp lý khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng hay không
thực hiện nghĩa vụ như đã thỏa thuận. Tính tất yếu của việc tiếp tục cầm giữ một
tài sản khi bên có nghĩa vụ không đáp ứng được quyền lợi của bên có quyền cho
đến khi bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ để rồi trở thành một biện pháp bảo
đảm quyền lợi của mình sẽ được thực hiện mà không cần có thêm sự thỏa thuận
hay giao dịch nào khác khiến biện pháp cầm giữ tài sản mang tính thuần túy
nhất định.
Khi xem xét đến khía cạnh này, có ý kiến cho rằng cầm giữ tài sản không
phải là biện pháp bảo đảm mà chỉ hậu quả pháp lý do pháp luật quy định. BLDS
2015 không bác bỏ một quan điểm nào mà thừa nhận cả hai ý kiến, bởi chúng
không hề mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, theo đó tại BLDS hiện hành vẫn ghi

nhận cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ trong phần chế định về thực hiện
hợp đồng, đồng thời đưa cầm giữ tài sản trở thành biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự cùng với 8 biện pháp khác.
Page 7 of 23


1.4. Cầm giữ tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tương đối
hữu hiệu theo cơ chế tự vệ
Sở dĩ nhận định cầm giữ tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
hữu hiệu bởi trong giới hạn những hợp đồng mà biện pháp này có thể áp dụng
thì người có quyền lợi bị xâm phạm đều đang nắm giữ tài sản có liên quan đến
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, lúc này chủ thể không thể khai thác và hưởng lợi
từ tài sản một cách trọn vẹn, từ đó tạo sự ràng buộc lớn trong việc thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Việc tài sản là đối tượng của nghĩa vụ đồng thời là
tài sản bảo đảm giúp tài sản bảo đảm ngay lập tức có thể đáp ứng những điều
kiện về giá trị tài sản bảo đảm so với giá trị nghĩa vụ bảo đảm, được xác định
được cụ thể, có thể trị giá thành tiền, được phép chuyển giao trong dân sự giúp
tăng tính hiệu quả của biện pháp bảo đảm… Điều đặc biệt ở cầm giữ tài sàn,
người cầm giữ có thể linh động bảo đảm cho mình bằng việc tiếp tục nắm giữ tài
sản như hiện trạng khi bên có nghĩa vụ không thể đáp ứng quyền lợi của mình
mà không lệ thuộc vào việc đã xác lập biện pháp cầm cố, thế chấp,.. có thủ tục
phức tạp hơn, nhất là khi bên có nghĩa vụ không có tài sản để cầm cố, thế
chấp… Sự đặc biệt đó cũng tạo nên cho cầm giữ tài sản tính chất có thể áp dụng
ở mọi nơi, mọi chỗ trong giao lưu dân sự, bởi ngay tại đời sống kinh tế Việt
Nam cũng có thể thấy vô số cách xử sự đời thường được thực hiện như biện
pháp bảo đảm cầm giữ tài sản, linh động bảo quyền lợi của bên có quyền, ví dụ
như: nếu một người đưa áo sơ mi đi giặt thì người nhận giặt áo đương nhiên có
quyền giữ lại áo cho đến khi người đưa áo trả tiền dịch vụ giặt áo hay một người
đưa ti vi đi sửa chữa thì người nhận sửa chữa cũng có quyền cầm giữ ti vi đó đến
khi chủ tài sản trả tiền dịch vụ sửa chữa.

Cầm giữ tài sản được thiết lập theo cơ chế tự vệ vì giữa hai bên chủ thể khi
thiết lập hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng song vụ đều không thỏa thuận
với nhau về biện pháp bảo đảm, chỉ đến khi đến thời hạn hợp đồng mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của hợp đồng,
nhận thấy có quyền lợi của mình có thể bị ảnh hưởng thì bên có quyền mới sử
dụng biện pháp bảo đảm là cầm giữ tài sản để bảo vệ quyền lợi của mình.
Page 8 of 23


2. Điều kiện phát sinh biện pháp cầm giữ tài sản
Từ bản chất cơ sở phát sinh đã đề cập ở trên, chúng ta có thể tóm lại các
điều kiện để có thể áp dụng biện pháp cầm giữ như sau:
2.1. Điều kiện về nghĩa vụ phát sinh biện pháp cầm giữ tài sản
Một là, việc không thực hiện hay không thực hiện không đúng nghĩa vụ
chỉ trở thành căn cứ phát sinh biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản khi đã đến hạn
thực hiện nghĩa vụ.
Hai là, nghĩa vụ cần được bảo đảm bằng việc cầm giữ phải có mối “liên
quan mật thiết” với tài sản cầm giữ. Có thể hình dung qua giả thiết sau, A vay
của B 500 triệu đồng và chưa trả được nợ. Sau đó A lại mua một chiếc xe ô tô
của B với giá 400 triệu đồng, tiền mua xe đã được thanh toán đầy đủ nhưng B lại
không giao xe và yêu cầu A phải trả hết toàn bộ khoản nợ 500 triệu đồng đã vay
thì mới giao xe. Căn cứ vào Đ346, 347 BLDS 2015, trong tình huống nêu trên,
việc cầm giữ tài sản là không thể thực hiện được. Bởi vì, chiếc xe ô tô là đối
tượng của hợp đồng song vụ, và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này (nghĩa vụ
thanh toán tiền mua tài sản) đã được thực hiện xong, vì thế, bên bán xe không có
giữ lại chiếc xe. Như vậy, cần thiết phải nhấn mạnh rằng, tài sản cầm giữ và
nghĩa vụ được bảo đảm cần thiết phải phát sinh trong cùng một quan hệ thì việc
cầm giữ mới có giá trị.
2.2. Điều kiện về tài sản cầm giữ
Đối tượng được cầm giữ là tài sản là đối tượng của hợp đồng và vật đó

phải đang là tài sản chiếm giữ hợp pháp của bên có quyền, làm căn cứ phát sinh
ra nghĩa vụ. Điều này đã được xác định rõ ràng, tuy nhiên có một số vấn đề cần
phải bàn đến như sau.
Vấn đề thứ nhất, tài sản phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 295
BLDS 2015 bao gồm: xác định được cụ thể, là tài sản hiện có hoặc hình thành
trong tương lai, giá trị của tài sản bảo đảm không nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ bảo
đảm; được phép chuyển giao trong dân sự và thuộc quyền sở hữu của bên có
nghĩa vụ;

Page 9 of 23


Vấn đề thứ hai, tài sản có thể là bất động sản hay động sản hay chỉ có thể là
động sản. Luật không quy định rõ. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng: tài sản cầm giữ
chỉ có thể là động sản vì bất động sản là tài sản không thể nắm giữ trên thực tế
mà chỉ có thể có quyến chiềm hữu về mặt pháp lý do đó không thỏa mãn điều
kiện bên có quyền đang nắm giữ tài sản.
Vấn đề thứ ba, tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của ai? Khoản 1 Điều 295 có
quy định: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ
trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”. Như vậy rõ ràng tài sản bảo
đảm không cần phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm như biện pháp cầm
cố, thế chấp, tín chấp,… Quy định này có thể xuất phát từ việc cầm giữ tài sản
không có chế định xử lý tài sản bảo đảm như các biện pháp bảo đảm khác nên
tài sản cầm giữ sẽ không lo bị xử lý tức định đoạt, chuyển giao khi chưa có ý chí
của chủ sở hữu hợp pháp, mặt khác trong hợp đồng song vụ có đối tượng là tài
sản cũng không quy định tài sản phải thuộc sở hữu của một trong hai bên giao
dịch. Và rõ ràng chúng ta cũng nhấn mạnh rằng: tài sản cầm giữ cũng không
thuộc quyền sở hữu của bên có quyền cầm giữ. Khi xét đến hợp đồng mua bán
tài sản, A bán cho B một chiếc xe đạp nhưng đến thời hạn B không trả tiền thì A
có quyền giữ lại tài sản đó, điều này có vẻ như giống với việc A cầm giữ tài sản

để B thực hiện nghĩa vụ nhưng xét về bản chất thì việc này sẽ được xem như
một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ vì tài sản bảo đảm thuộc về bên A
nếu như B vì một lí do chủ quan mà không thực hiện hợp đồng thì cũng sẽ
không ảnh hưởng gì đến lợi ích của B do đó tính ràng buộc nghĩa vụ đối với B
cũng như tính bảo đảm dành cho A sẽ không tồn tại.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên có quyền lợi không
được đáp ứng phải là chủ thể đang nắm giữ tài sản là đối tượng của hợp đồng
song vụ. Bởi lẽ, nếu tài sản đó thuộc về bên thứ 3 do cả hai bên cùng thỏa thuận
thì bên có quyền sẽ mất đi lợi thế là bên đang nắm giữ để có thể áp dụng biện
pháp cầm giữ tài sản.
3. Thời điểm xác lập cầm giữ tài sản

Page 10 of 23


Cầm giữ tài sản là một tình trạng chiếm hữu tài sản và rõ ràng trên thực tế
bên có quyền cầm giữ đã nắm giữ tài sản này trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhưng với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Điều 347
BLDS 2015 ghi nhận cầm giữ tài sản phát sinh kể từ thời điểm đến hạn thực
hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Đó là thời điểm có sự chuyển đổi từ chiếm hữu trên cơ sở là người
được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự sang chiếm hữu
trên cơ sở là sự được phép mà pháp luật quy định. Việc xác định thời điểm đến
hạn thực hiện nghĩa vụ căn cứ vào nội dung hợp đồng mà các bên thỏa thuận,
nếu không có thỏa thuận thì tùy từng loại hợp đồng mà pháp luật quy định cho
phù hợp.
Kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản, việc cầm giữ tài sản phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Quy định này cũng chính là một điểm
mới hơn so với BLDS 2005 mà việc cầm giữ tài sản có được từ hệ quả của việc
chuyển cầm giữ tài sản với tư cách là hậu quả pháp lý của việc bên có tài sản,

được cầm giữ cho đến khi bên kia thực hiện nghĩa vụ. Mặc dù là khái niệm mới,
nhưng việc phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba cũng đã được đề cập
nhen nhóm ở BLDS 2015 và tại Điều 10 Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm cũng
đã có quy định về vấn đề này: “Trong trường hợp tài sản thế chấp đang bị cầm
giữ theo quy định tại Điều 416 Bộ luật Dân sự (2005) thì bên cầm giữ có trách
nhiệm giao tài sản mà mình đang cầm giữ cho bên nhận thế chấp để xử lý theo
quy định của pháp luật sau khi bên nhận thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn
thành nghĩa vụ đối với bên cầm giữ”. Theo đó trong cầm giữ tài sản, không có
chế định xử lý tài sản mà thay vào đó người cầm giữ chỉ có quyền cầm giữ cho
đến khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, do vậy khi đến lúc phải xử lý tài sản
cầm giữ ( có thể là: bán đấu giá, chuyển quyền sở hữu,..) do bên nghĩa vụ đã
dùng nó để bảo đảm cho một giao dịch khác thông qua thế chấp thì khi xét thứ
tự ưu tiên, việc cầm giữ tài sản sẽ được ưu tiên hơn so với các bảo đảm xác lập
sau thời điểm cầm giữ, thậm chí sẽ có vị trí ưu tiên trên cả những bảo đảm đã
Page 11 of 23


được xác lập hay đăng ký trước đó vì lợi thế là người có quyền nắm giữ trực tiếp
sản cầm giữ.
Ví dụ: A (bên bảo đảm) thế chấp chiếc ô tô thuộc sở hữu của A cho B
(bên nhận bảo đảm), việc thế chấp có đăng ký -> để bảo đảm cho khoản vay của
A với B và sau đó, cũng chiếc ô tô trên A mang đi sửa chữa tại garage của C,
nhưng do C không có tiền thanh toán chi phí sửa chữa nên C đã thực hiện biện
pháp cầm giữ tài sản. Đến thời hạn trả khoản vay cho bên B, A không có tiền để
trả nên B yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm lúc này đang do C nắm giữ. Lúc này
theo điều 301 BLDS 2015, B có quyền yêu cầu C giao chiếc ô tô để B xử lý, tuy
nhiên vì chiếc ô tô cũng là tài sản bảo đảm đối với C nên lúc này C có quyền
chiếm giữ chiếc xe đó một cách hợp pháp và B sẽ không được xử lý ngay tài sản
bảo đảm ngay trong trường hợp này.

3. Nội dung biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản
Nội dung biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản bao gồm các quyền và nghĩa vụ
của bên cầm giữ và bên có nghĩa vụ. BLDS 2015 chỉ quy định quyền và nghĩa
vụ của bên cầm giữ nhưng căn cứ vào tính chất của hợp đồng song vụ: quyền
của chủ thể này đối ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia, chúng ta có thể linh động
hiểu được những quyền và nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Điều 348 BLDS 2015 quy định quyền của bên cầm giữ như sau:
Thứ nhất, Bên cầm giữ tài sản có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ. Trong và sau thời hạn thực
hiện hợp đồng, quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
như đã thỏa thuận của bên có quyền vẫn tồn tại, dù sau khi hết thời hạn hợp
đồng, khi bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ thì bên cầm giữ đã có tài sản
bảo đảm cho mình. Điều này tỏ ra là cần thiết vì ở biện pháp cầm giữ tài sản
không thể áp dụng xử lý tài sản như đa số biện pháp bảo đảm khác mà chỉ có thể
chiếm hữu để chờ cho bên kia thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, do đó bên cầm giữ
cần có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình. Đây cũng là
cơ sở pháp lý để bên có quyền có thể khởi kiện ra trước tòa trong trường hợp
bên nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ.
Page 12 of 23


Thứ hai, Bên cầm giữ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi
phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản bị cầm giữ. Việc tiếp tục chiếm
giữ tài sản khi đã quá hạn hợp đồng mà không chuyển giao cho bên có nghĩa vụ
nằm ngoài mong muốn của bên có quyền, thậm chí điều này còn xuất phát từ lỗi
của bên có nghĩa vụ khi đã thực hiện nghĩa vụ chậm trễ, do đó bên có quyền
không có nghĩa vụ chi trả các chi phí cần thiết để bảo quản, giữ gìn tài sản bị
cầm giữ mà thay vào đó là bên có nghĩa vụ.
Thứ ba, Bên cầm giữ được khai thác tài sản cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức
hếu được bên có nghĩa vụ đồng ý. Giá trị của việc khai thác tài sản cầm giữ

được bù trừ vào giá trị nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Có một số loại tài sản dễ
bị hao mòn tự nhiên hay dễ bị hư hỏng hoặc có thể mang lại một nguồn lợi ích
lớn khi khai thác thì bên cầm giữ có thể cân nhắc thỏa thuận với bên có nghĩa vụ
để khai thác tài sản cầm giữ. Vì giá trị của việc khai thác tài sản cầm giữ được
bù trừ vào giá trị nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ nên khi thực hiện điều này, bên
có quyền cần cân nhắc có muốn được đáp ứng quyền lợi theo phương thức bù
trừ giá trị không.
Ngoài ra, Điều 349 BLDS 2015 cũng quy định các nghĩa vụ của bên cầm
giữ như sau:
Một là, bên cầm giữ có nghĩa vụ phải giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ,
không được thay đổi tình trạng của tài sản cầm giữ. Bên cầm giữ không có
nghĩa vụ phải chi trả chi phí cho việc giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ nhưng
không có nghĩa là không phải giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ. Vì rõ ràng tài
sản cầm giữ vẫn đang là đối tượng của hợp đồng và để bên có nghĩa vụ thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ với mình, bên có quyền vẫn phải có bảo quản, giữ gìn tài
sản đó. Ngoài ra, sự thay đổi tình trạng ở đây được hiểu là sự thay đổi về hình
dạng, bản chất hay đang trong tình trạng chiếm hữu của một chủ thể khác. Nếu
như ở khoản 1 Điều 349 việc tài sản bị hư hỏng, biến đối là sự vi phạm nghĩa vụ
do không hành đồng thì ở khoản 2 Điều 349, việc thay đổi tình trạng của tài sản
thể hiện sự vi phạm nghĩa vụ trong tâm thế chủ động của bên cầm giữ. Pháp luật
dân sự theo đó cũng quy định bên cầm giữ không được thực hiện hành động này.
Page 13 of 23


Hai là, bên cầm giữ không được chuyển giao, sử dụng tài sản nếu không có
sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Bên cầm giữ có quyền nắm giữ, chiếm hữu tài
sản nhưng rõ ràng tài sản đó không thuộc sở hữu của bên cầm giữ và vì vậy bên
cầm giữ không có quyền định đoạt thông qua việc chuyển giao hay sử dụng tài
sản nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Sự đồng ý của bên có nghĩa vụ
tỏ ra là cần thiết vì dù bên nghĩa vụ là chủ sở hữu, bên có quyền khác đối với tài

sản hoặc phải sau khi chuyển giao tài sản thì bên có nghĩa vụ mới có quyền đối
với tài sản đó thì trong thời gian hợp đồng vẫn đang có hiệu lực, tức quyền lợi
của bên có nghĩa vụ gắn liền với tài sản đó thì việc sử dụng, định đoạt vẫn cần
có sự thông qua của bên nghĩa vụ.
Ba là, khi bên nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì phải giao lại tài sản cầm
giữ. Quy định này cũng là một trong những căn cứ để chấm dứt cầm giữ tài sản.
Căn cứ vào mục đích của cầm giữ tài sản là để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ thì khi điều này đã xảy ra trên thực tế, bên có quyền có nghĩa vụ giao lại tài
sản cầm giữ hay nói cách khác bên có nghĩa vụ có quyền được nhận lại một
quyền lợi tương đương với nghĩa vụ đã thực hiện xong
Bốn là, bên cầm giữ bồi thường thiệt hại nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản
cầm giữ. Chúng ta có thể hiểu rằng, nếu như bên cầm giữ có sự vi phạm nghĩa
vụ tại khoản 1,2,3 Điều 349 BLDS 2014 mà làm mất, hư hỏng tài sản thì phải
bồi thường. Điều này còn có thể được hiểu là trách nhiệm dân sự mà bên cầm
giữ phải chịu khi gây thiệt hại về tài sản cho bên có nghĩa vụ. Mặt khác điều này
cũng giúp tăng trách nhiệm bảo giản, giữ gìn tài sản của bên có quyền.
4. Căn cứ chấm dứt cầm giữ tài sản
Các trường hợp chấm dứt cầm giữ tài sản được quy định tai Điều 350
BLDS 2015. Theo đó cầm giữ tài sản có thể chấm dứt do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau, có thể là nguyên nhân chủ quan, cũng có thể là nguyên nhân khách
quan. Tại thời điểm chấm dứt cầm giữ tài sản, nghĩa vụ có thể đã được thực hiện
xong hoặc chưa được thực hiện xong.
Trường hợp đầu tiên khi bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực
tế, lúc này tài sản có thể đã bị người thứ ba chiếm hữu trái pháp luật hoặc bên
Page 14 of 23


cầm giữ không tiếp tục thực hiện quyền cầm giữ nữa. Tuy nhiên trường hợp tài
sản cầm giữ bị người thứ ba chiếm hữu trái pháp luật thì bên cầm giữ có quyền
truy đòi tài sản (khoản 2 Điều 297 BLDS 2015). Do đó, chỉ khi bên cầm giữ

không thể truy đòi tài sản cầm giữ, không muốn truy đòi hoặc không muốn tiếp
tục cầm giữ tài sản thì cầm giữ tài sản mới chấm dứt.
Trường hợp nghĩa vụ đã được thực hiện xong thì biện pháp cầm giữ đương
nhiên chấm dứt, điều này được căn cứ vào mục đích của cầm giữ tài sản là bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Trường hợp tài sản cầm giữ không còn thì biện pháp cầm giữ cũng chấm
dứt. Tài sản cầm giữ không còn có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tùy
từng nguyên nhân khác nhau mà bên cầm giữ có thể phải chịu trách nhiệm hoặc
không phải chịu trách nhiệm đối với bên có nghĩa vụ. Nếu tài sản không còn do
lỗi của bên cầm giữ thì bên cầm giữ phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 5 Điều 349 BLDS 2015. Khi đó, cả hai bên lại có nghĩa vụ đối với nhau
và nếu đủ điều kiện để bù trừ nghĩa vụ thì các bên có quyền được bù trừ nghĩa
vụ đối với nhau.
Sau cùng, biện pháp cầm giữ tài sản cũng có thể chấm dứt theo thỏa thuận
giữa các bên. Sư thỏa thuận này có thể là thay thế cầm giữ tài sản bằng một biện
pháp bảo đảm khác hoặc cũng có thể là chấm dứt hoàn toàn biện pháp giữ mà
không thay thế bằng biện pháp nào,…
Ví dụ: “A với B giao kết một hợp đồng gia công, theo đó B may cho
A 10 chiếc áo và A trả tiền công cho B là 1 triệu đồng, đến hết thời hạn chuyển
giao sản phầm và thanh toán, thấy A không trả tiền nên B giữ lại 10 chiếc áo và
yêu cầu A thanh toán. Lúc này do chưa có tiền mặt nhưng cần gấp 10 chiếc áo để
bán sau đó mới thu lại được vốn để trả B, A có thể giao kết với B một hợp đồng
cầm cố xe máy,.. để đảm bảo giao kết, lấy 10 chiếc áo đi bán rồi lấy tiền thu
được trả cho B”.
III. SO SÁNH CẦM GIỮ TÀI SẢN VÀ CẦM CỐ TÀI SẢN

Page 15 of 23


Căn cứ Điều 309 BLDS 2015 thì cầm cố tài sản được hiểu là việc một bên

(sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Như vậy, cầm cố tài sản và cầm giữ tài sản đều có điểm giống nhau là bên
có quyền nắm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ, để bên có nghĩa vụ bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của mình nhưng xét về bản chất, cầm cố và cầm giữ tài sản vẫn có
những điểm khác nhau cơ bản sau:
Tiêu chí
Thời điểm
phát sinh

Cầm cố tài sản
Cầm giữ tài sản
Từ thời điểm giao kết hợp đồng Khi nghĩa vụ không được thực
cầm cố (trừ trường hợp có thỏa hiện hoặc thực hiện không đúng.
thuận hoặc luật định)
Thời điểm nghĩa vụ không được
thực hiện hoặc thực hiện không
đúng thì tài sản cầm cố được đưa ra
xử lý.
Ý chí của các Do các bên thỏa thuận
Có thể phát sinh mà không cần có
bên
sự thỏa thuận của các bên
Cơ sở phát
Pháp luật quy định hoặc theo thỏa Pháp luật quy định
sinh
thuận của các
Đối tượng Tài sản thuộc sở hữu bên cầm cố; Tài sản không nhất thiết thuộc sở
tài sản có thể là tài sản hiện có hoặc hữu của bên nghĩa vụ;
tài sản hình thành trong tương lai;

tài sản là tài sản hiện có
có thể là động sản hoặc bất động
Tài sản là động sản
sản
Quyền chiếm Các bên thỏa thuận bên cầm cố Bên có quyền có thể tự mình
giữ tài sản hoặc người thứ ba giữ tài sản cầm cầm giữ hoặc giao cho người thứ
cố.
ba mà không cần sự thỏa thuận của
bên bị cầm giữ tài sản.
Xử lý tài sản Bên nhận cầm cố tài sản có quyền Bên cầm giữ không có quyền xử
xử lý tài sản cầm cố theo phương lý tài sản cầm giữ nhưng được thu
thức đã thỏa thuận, không được hoa lợi và lợi tức từ tài sản cầm
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm giữ để bù trừ nghĩa vụ.
cố nếu không được bên cầm cố
đồng ý.

Page 16 of 23


IV. TÌNH HUỐNG NHẬN DIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM CẦM GIỮ TÀI
SẢN
Tình huống sưu tầm:
A chuẩn bị cùng gia đình đi picnic, để tránh gặp trục trặc trên đường đi, A
đem con Mecerdes của mình đến Gara của B để thay thế một số phụ tùng ô tô,
hẹn 2 ngày sau đến lấy xe và thanh toán tiền công cho B. Sau khi sửa chữa xong,
sau 2 ngày, A đến lấy xe nhưng vì lí do quên tiền nên chưa thanh toán chi phí
sửa xe. Do gặp nhiều trường hợp khách hàng không trả tiền sửa xe, B quyết định
giữ lại chiếc xe cho đến khi A thanh toán chi phí sửa chữa cho mình. Tuy nhiên
A cho rằng đó là xe của mình, A có quyền lấy lại và sẽ trả tiền công cho B sau.
 Trong trường hợp này A với B đã xác lập một hợp đồng dịch vụ sửa chữa xe ô

tô, B là bên cung ứng dịch vụ, thực hiện công việc sửa chữa xe theo yêu cầu của
A, A là bên sử dụng dịch vụ sửa chữa xe và có nghĩa vụ phải trả tiền cho bên A.
Khi đã đến hạn thực hiện hợp đồng theo như thỏa thuận, theo quy định A và B
phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau, tuy nhiên A không thực hiện trả tiền, tức là
không thực hiện nghĩa vụ, áp dụng điều 346 về cầm giữ tài sản, điều 348 về xác
lập cầm giữ tài sản , điều 412 về cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ tại
BLDS 2015, lúc này B có quyền xác lập quyền cầm giữ đối chiếc xe ô tô
Mecerdes của A để bảo đảm A trả công cho mình mà không cần sự đồng ý của
bên A.
Trong khoảng thời gian B cầm giữ, B tiếp tục có quyền yêu cầu A thực hiện
thanh toán tiền công cho dịch vụ sửa xe B đã cung ứng cho A, yêu cầu A thanh
toán chi phí cần thiết cho việc bảo quản xe như phí gửi xe ô tô do bên B không
có chỗ để xe,..; trường hợp A thừa nhận chưa thể thanh toán tiền công cho B
hoặc vì một lí do nào đó mà A, B thỏa thuận được B có thể sử dụng xe của A thì
B có dùng xe đó chạy grab,.., lợi tức kiếm được sẽ bù vào số tiền công A phải
trả; đồng thời B cũng có nghĩa vụ bảo quản chiếc xe ô tô như xe của mình;
không phun màu, thay đổi hình dáng bộ phận hay bán đi, cho người khác sử
dụng nếu A không đồng ý; Khi A đã trả tiền công thì lập tức trao trả chiếc xe cho
A, lúc này nếu có thiệt hại gì đến xe ô tô thì B sẽ phải bồi thường.
Page 17 of 23


Giả sử trường hợp trên, trước khi đem xe đến cho B sửa chữa, A đem chiếc
xe Mecerdes này đến thế chấp ngân hàng để vay một khoản tiền. Trường hợp
này, theo quy định của khoản 4 Điều 349 BLDS 2015 và Điều 10 Nghị Định
11/2012/NĐ-CP thì người sửa chữa xe chỉ có nghĩa vụ phải giao lại chiếc xe khi
tiền công đã được thanh toán, do đó bên ngân hàng không được quyền thu hồi
tài sản hay yêu cầu bên cầm giữ tài sản giao chiếc xe ô tô cho mình mà chỉ có
thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ với B hoặc ngân hàng chủ động thanh toán chi
phí sửa xe để nhận lại tài sản để xử lý thu hồi nợ.

V. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ CHẾ ĐỊNH CẦM GIỮ TÀI SẢN TRONG
BLDS 2015 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
BLDS 2015 đã đưa cầm giữ tài sản trở thành một biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó, những chế định có liên quan mang đặc trưng của
một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự cũng được bổ sung trong các chế định
về cầm giữ tài sản như thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba,
sửa đổi, bổ sung quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ, căn cứ chấm giứt cầm giữ
tài sản. Bên cạnh những điểm mới tích cực, vì là một chế định mới nên các quy
định về cầm giữ tài sản trong BLDS 2015 vẫn chưa hoàn toàn chặt chẽ. Phần
trình bày sau đây xin được đưa ra một số điểm hạn chế và quan điểm cá nhần để
hoàn thiện các chế định này:
Một là, Căn cứ vào quy định tại Điều 346 BLDS 2015, thì cầm giữ tài sản
được áp dụng đối với hợp đồng song vụ có đối tượng là tài sản. Tuy nhiên trên
thực tế, cầm giữ tài sản còn thường xuất hiện trong các hợp đồng song vụ có đối
tượng là công việc, trong đó có chứa nội dung liên quan đến tài sản. VD: hợp
đồng dịch sửa chữa xe ô tô, khi khách hàng không trả tiền thì bên sửa chữa có
quyền giữ lại chiếc xe. Do đó, quan điểm cá nhân cho rằng cần quy định mở
rộng hơn về loại hợp đồng được áp dụng cầm giữ tài sản theo hướng là hợp
đồng song vụ có đối tượng liên quan đến tài sản để phù hợp với thực tế cũng
như thuận lợi khi giải quyết tranh chấp.

Page 18 of 23


Hai là, Cầm giữ tài sản có phải chỉ có thể áp dụng đối với hợp đồng song
vụ? Tham khảo pháp luật của một số nước, nhận thấy cầm giữ tài sản còn được
công nhận trong các tình huống không mang tính chất song vụ. Chẳng hạn theo
Điều 2277 của BLDS Pháp, người đang chiếm giữ một tài sản bị đánh cắp hay
bị mất nếu đã mua tài sản này tại một hội chợ, chợ, một buổi bán đấu giá hay từ
một người bán hàng bán các tài sản tương tự chỉ phải hoàn trả tài sản này cho

người chủ ban đầu khi người chủ này hoàn trả cho anh ta số tiền anh ta đã phải
trả khi mua tài sản, tức là, nếu không được hoàn trả số tiền bằng giá mua thì
người đang chiếm giữ được tiếp tục cầm giữ tài sản -> Ở đây không có quan hệ
hợp đồng trực tiếp giữa người đang chiếm giữ tài sản và chủ sở hữu tài sản, mặt
khác đây cũng là một trong những tình huống chúng ta có thể bắt gặp hàng ngày
trong đời sống ở Việt Nam do đó pháp luật dân sự Việt Nam cần có những quy
định mở rộng hơn về phạm vi áp dụng quyền cầm giữ tài sản để bảo đảm tối đa
lợi ích hợp pháp của bên có quyền trong quan hệ dân sự cũng như để các chủ thể
linh hoạt, tự do trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm cho quyền lợi của mình.
Ba là, Về hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi tài sản cầm giữ còn được
thế chấp để bảo đảm một nghĩa vụ khác. Trường hợp này dù việc thế chấp đã
được xác lập hiệu lực đối kháng trước nhưng người cầm giữ tài sản vẫn có
quyền tiếp tục cầm giữ tài sản cho đến khi bên có nghĩa vụ với bên cầm giữ thực
hiện nghĩa vụ. Điều này vô tình đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thế
chấp không có tài sản để xử lý bảo đảm dù tại thời điểm đó, quyền lợi đã bị xâm
phạm, thậm chí gây ra thiệt hại lớn. Có thể hình dung tác động của biện pháp
này đối với người thứ ba thông qua ví dụ sau: khách hàng thế chấp xe ô tô cho
ngân hàng để vay vốn, sau đó khách hàng đem xe đi sửa chữa. Khi xe được sửa
xong, khách hàng không thanh toán phí sửa chữa nên người sửa chữa xe đã cầm
giữ tài sản này để yêu cầu khách hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán chi phí sửa
chữa cho mình. Trong trường hợp này, theo quy định của BLDS thì người sửa
chữa xe là bên cầm giữ tài sản chỉ có nghĩa vụ phải giao lại tài sản khi nợ của
mình đã được thanh toán (khoản 4, điều 349 BLDS), đồng thời việc cầm giữ tài
Page 19 of 23


sản của bên cầm giữ tài sản sẽ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba (ở
đây là ngân hàng) kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản (khoản 2, điều
347 BLDS). Như vậy, theo quy định mới của BLDS, khi tài sản bảo đảm bị bên
thứ ba cầm giữ theo trường hợp trên thì ngân hàng không được quyền thu hồi tài

sản hoặc không được quyền yêu cầu bên cầm giữ tài sản giao tài sản cho mình
mà ngân hàng chỉ có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ (khách hàng) thực hiện nghĩa
vụ với bên cầm giữ tài sản hoặc ngân hàng chủ động thanh toán chi phí sửa xe
cho bên cầm giữ tài sản để nhận lại tài sản để xử lý thu hồi nợ. Tuy nhiên, nếu
như ngân hàng thanh toán chi phí sửa xe thì có được quyền yêu cầu bên có nghĩa
vụ thanh toán lại cho mình hay không, hiện chưa có quy định đề cập đến vần đề
này. Quan điểm cá nhân cho rằng cần thiết phải có quy định chi tiết hơn về vấn
đề này theo hướng bên thấp chấp có quyền yêu cầu bên nghĩa vụ thanh toán
phần nghĩa vụ đã thanh toán giúp cho bên có nghĩa vụ để có thể bảo đảm quyền
lợi cho bên nhận thế chấp.
Qua đây, cũng cần có quy định thêm bổ sung để xác định tính hợp lý của
chi phí mà chủ tài sản phải chi trả cho bên cầm giữ để bảo lệ quyền lợi của cả
hai bên. Chẳng hạn như có thể quy định: “Những chi phí tương ứng với các biện
pháp để bảo quản, giữ gìn tùy theo đặc điểm của loại tài sản mà việc không áp
dụng những biện pháp bảo đảm đó sẽ làm giảm sút chất lượng của tài sản cũng
như yêu cầu bên cầm giữ tài sản phải chứng minh được chi phí thực sự cho biện
pháp đó”
Bốn là, bên cầm giữ tài sản phải bồi thường thiệt hại khi tài sản mất hoặc
hư hỏng tài sản. Vậy trường hợp lý do khách quan như bão lũ, bị trộm cắp thì có
phải bồi thường và bồi thường theo mức như thế nào khi việc cầm giữ là việc
buộc phải thực hiện của bên có quyền để đảm bảo quyền lợi của mình? Cần thiết
phải có quy định rõ hơn về vấn đề này để có thể áp dụng một cách hợp lý trên
thực tiễn.
Năm là, Theo quy định tại Điều 349 BLDS 2015, bên cầm giữ có quyền
khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm giữ và giá trị của việc khai thác tài sản
Page 20 of 23


cầm giữ sẽ được bù trừ vào giá trị của nghĩa vụ. Vậy đến khi việc khai thác tài
sản cầm giữ đã đủ để bù trừ nghĩa vụ thì việc thực hiện nghĩa vụ sẽ đương nhiên

chấm dứt. Liên quan đến điều này, khoảng 3 Điều 350 BLDS 2015 có quy định
trường hợp chấm dứt cầm giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện xong, điều này có
thể được tự động hiểu là khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ và cả khi
việc khai thác tài sản cầm giữ đã bù trừ đủ cho nghĩa vụ hay không? Thiết nghĩ
cần phải có văn bản hướng dẫn làm rõ về vấn đề này, làm cơ sở cho việc áp
dụng pháp luật trên thực tiễn.
Sáu là, theo quy định tại khoản 1 Điều 297 BLDS năm 2015 thì biện pháp
bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi đăng ký biện pháp
bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Quy
định về 02 phương thức để biện pháp bảo đảm đối kháng với người thứ ba nêu
trên là phù hợp với thông lệ quốc tế về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, quan điểm
cá nhân cho rằng, pháp luật vẫn cần bổ sung quy định cụ thể về việc “người thứ
ba nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm” theo cơ chế ủy quyền của bên nhận
bảo đảm vì một số lí do mà bên nhận bảo đảm ủy quyền cho người khác nắm giữ
tài sản bảo đảm.

C/ KẾT LUẬN
Tóm lại, Cầm giữ tài sản với tư cách là một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đã góp phần giúp cho chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự linh
hoạt hơn trong việc lựa chọn các biện pháp bảo đảm và bảo vệ quyền lợi của
người có quyền. Là một chế định mới, cầm giữ tài sản trong BLDS 2015 vẫn tồn
tại những hạn chế mà thông qua những nghị định, thông tư, các văn bản pháp
luật khác và dự thảo sửa đổi BLDS trong tương lai, các nhà làm luật cần có

Page 21 of 23


những thay đổi, bổ sung, quy định chi tiết để Cầm giữ tài sản phát sinh vai trò
một cách hiệu quả trên thực tế.


Page 22 of 23


DANH MỤC THAM KHẢO
• Sách giáo trình
-

Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb.


-

Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2017;
Sách chuyên khảo
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ-


-

PGS-TS. Trần Thị Huệ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2017;
Văn bản pháp luật
Bộ luật Dân sự 2015

- Bộ luật dân sự 2005
- Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của chính phủ về giao dịch
bảo đảm
• Link tham khảo trên Internet
/> /> />
Page 23 of 23




×