Tải bản đầy đủ (.doc) (196 trang)

Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông hồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.33 KB, 196 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU THỦY

PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU THỦY

PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH
2. TS. NGHIÊM SĨ LIÊM

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

Trang
1
5

ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

5

1.2. Giá trị của các công trình đã được tổng quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu trong luận án
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT HUY GIÁ TRỊ


22

GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

26

2.1. Cơ sở lý luận

26

2.2. Nội dung, phương thức, chủ thể và sự cần thiết phát huy giá trị gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng
sông Hồng hiện nay
2.3. Những yếu tố tác động đến phát huy giá trị gia đình truyền thống trong

37

xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN

51

THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

72

3.1. Thực trạng phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình

văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
3.2. Những vấn đề đặt ra từ việc phát huy giá trị gia đình truyền thống trong

72

xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY

101

GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

114

4.1. Những quan điểm cơ bản phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây
dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
4.2. Những giải pháp chủ yếu phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây
dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

114

KẾT LUẬN

122
149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

151


LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

164


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

GĐTT

: Gia đình truyền thống

GĐVH

: Gia đình văn hóa

HTCT

: Hệ thống chính trị


KTTT

: Kinh tế thị trường

TCH

: Toàn cầu hóa

UBND

: Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện đầy
đủ các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ văn hoá, quan
hệ tổ chức… Gia đình chính là cơ sở để kiến tạo nên một xã hội rộng lớn. Do đó, sự
trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và trình độ
phát triển của mỗi gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “… Nhiều gia đình cộng
lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình” [78, tr.111].
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt
được mục tiêu trên, Đảng, Nhà nước yêu cầu các cấp, ngành, cộng đồng và nhân
dân phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó chú trọng xây dựng “Gia
đình văn hóa” là nhiệm vụ hết sức cơ bản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành

mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành
nhân cách… con người và nền văn hóa Việt Nam” [32, tr.77].
Quán triệt quan điểm của Đảng, ngày 4 tháng 5 năm 2001, Thủ tướng Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Quyết định số
72/2001/QĐ-TTg lấy ngày 28 tháng 6 hàng năm là Ngày Gia đình Việt Nam. Ngày
29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 629/QĐ-TTg “phê
duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”, trong
đó nêu rõ: “… Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong các mục
tiêu quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011
- 2020, đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [127, tr.1]. Đồng thời, Chiến lược cũng đã
chỉ ra việc xây dựng gia đình văn hóa (GĐVH) ở Việt Nam hiện nay không thể
không kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống đã được hình thành,
chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bời vì, văn hoá của một dân tộc
nói chung, văn hoá gia đình nói riêng là một dòng chảy lịch sử, xuyên suốt từ truyền
thống đến hiện đại.


2
Đồng bằng sông Hồng là một trong những cái nôi văn hóa của Việt Nam, là
quê hương giàu truyền thống cách mạng, nơi cư trú và sinh sống của nhiều gia đình
truyền thống (GĐTT). Trong giai đoạn hiện nay, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có
tiềm năng to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên, truyền
thống văn hóa… tạo ra lợi thế phát triển cao hơn so với nhiều vùng khác trong cả
nước. Theo đó, việc phát huy những giá trị của GĐTT trong xây dựng GĐVH cũng
có những thuận lợi đáng kể: tăng trưởng kinh tế cao, trình độ dân trí tốt, nhận thức
xã hội của người dân khá cao, vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu văn hóa…
Tuy nhiên, trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH cũng có nhiều vấn đề đang
đặt ra cần phải được nghiên cứu làm sáng tỏ. Nổi bật như: chưa có sự thống nhất,
tường minh trong nhận thức về giá trị GĐTT; chưa được cụ thể hóa đầy đủ các giá

trị của GĐTT thành các tiêu chuẩn, tiêu chí của danh hiệu GĐVH; hoạt động của
các chủ thể phát huy, nhất là của các cơ quan quản lý Nhà nước chưa đủ mạnh; nhận
thức của người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát huy các giá trị GĐTT
chưa đầy đủ, sâu sắc… Những hạn chế này dẫn đến tình trạng một bộ phận gia đình,
người dân trong vùng chưa phân biệt rõ những giá trị nào của GĐTT cần phát huy,
những nội dung nào không còn giá trị, không phù hợp với yêu cầu mới hiện nay,
phát huy những giá trị GĐTT bằng cách nào, v.v...
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và những bất cập nêu trên, tác giả chọn
đề tài: “Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm luận án tiến sĩ với mong muốn góp
phần tìm ra những giải pháp khả thi để phát huy các giá trị tốt đẹp của GĐTT trong
xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong bối cảnh mới hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và phân tích làm rõ thực trạng phát huy giá trị GĐTT
trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH, luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH đáp ứng
yêu cầu đổi mới hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài liên quan đến luận án.
- Khái quát cơ sở lý luận phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở
vùng ĐBSH.


3
- Làm rõ thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng
ĐBSH và vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng
GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu giá trị GĐTT và phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng
GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu phát huy giá trị GĐTT Việt Nam, trong
đó chủ yếu là giá trị văn hoá truyền thống của gia đình trong xây dựng GĐVH ở
vùng ĐBSH hiện nay, bao gồm giá trị đạo đức, giá trị giáo dục, giá trị tâm lý, tình
cảm và giá trị ý thức cộng đồng của GĐTT.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu việc phát huy giá trị GĐTT trong xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH thông qua nghiên cứu thực trạng ở một số tỉnh có tính
chất đại diện cho vùng như: Hà Nội - trung tâm vùng, thủ đô của cả nước; Vĩnh
Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên - phía Bắc vùng ĐBSH; Thái Bình, Nam Định - phía
Nam vùng ĐBSH.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu việc phát huy giá trị GĐTT trong xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Trung
ương 5, khoá VIII (1998) về xây dựng văn hoá, GĐVH đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về vấn đề gia đình và xây dựng GĐVH ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án cũng kế thừa tài liệu, công trình của các nhà nghiên cứu, các hoạt động
thực tiễn ở Việt Nam và thế giới liên quan đến vấn đề gia đình và xây dựng GĐVH.

- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể
để giải quyết nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.


4

4.2. Phương pháp cụ thể
Luận án sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu chuyên ngành triết
học - chính trị xã hội như: lôgic - lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp…
Ngoài ra luận án đã sử dụng phương pháp thu thập thông tin, gồm:
Thông tin thứ cấp: thu thập tư liệu, tài liệu, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, báo cáo, thống kê của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và kết quả
của các công trình nghiên cứu đã công bố về vấn đề gia đình, giá trị GĐTT và xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH, ở Việt Nam hiện nay.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua phiếu hỏi đối
với một số chỉ tiêu đánh giá như: thực trạng nội dung, cách thức tuyên truyền, giáo
dục và chủ thể phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện
nay… Đối tượng hỏi là những người đã qua giáo dục phổ thông, đủ điều kiện nhìn
nhận, đánh giá quá trình nhận thức những giá trị GĐTT của bản thân từ khi sinh ra
đến tuổi trưởng thành ở vùng ĐBSH. Điều tra 06 tỉnh đại diện cho vùng như đã nêu
trong phạm vi nghiên cứu. Tổng số 900 phiếu chia đều cho 6 tỉnh, mỗi tỉnh 150
phiếu hỏi. Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2016.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH và những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm thực hiện tốt phát huy giá
trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần cung cấp một số luận cứ lý luận, thực tiễn cho việc hoạch định các
chính sách liên quan đến xây dựng GĐVH ở Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH nói riêng.

- Làm tư liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy những
chuyên đề liên quan đến vấn đề gia đình, xây dựng GĐVH ở Việt Nam trong
chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan như: xã hội
học, chính trị học, văn hoá học, phụ nữ học…
7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
William J. Goode, World Revolution and Family Patterns (Cách mạng thế
giới và các dạng thức gia đình), The Free Press [164]. Tác giả đã đề cập đến sự thay
đổi trong mô hình gia đình ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Tiểu vùng Sahara và
các nước Ả rập trong nửa thế kỷ 20 với những thay đổi của thể chế chính trị của mỗi
quốc gia cũng như sự biến đổi trong khu vực. Theo đó, tác giả đã khảo sát, nghiên
cứu quá trình công nghiệp hóa (CNH), đô thị hóa tác động đến mọi mặt của đời
sống gia đình, làm biến đổi về quy mô, cấu trúc, vấn đề hôn nhân và các mối quan
hệ trong gia đình… từ đó, đưa ra các mô hình gia đình mới phù hợp với từng quốc
gia, khu vực.
Michael Anderson, Family structure in nineteeth century Lancashir (Hình
thái gia đình người Lancashir thế kỷ 19), Cambridge University press [163]. Nội
dung cuốn sách đề cập đến tác động của CNH, đô thị hóa đến mối quan hệ họ hàng
của các tầng lớp lao động thế kỷ 19 ở Lancashir và tại sao mọi người nên quan tâm,
duy trì mối quan hệ họ hàng hơn là đối với những người khác trong đời sống xã hội
của họ. Tác giả đã trình bày về cơ cấu hộ gia đình, mô hình cư trú, doanh thu dân số
trong các thị trấn, mô hình di cư, tỷ lệ đói nghèo, vai trò của gia đình trong tìm nhà
và việc làm cho người thân. Ông cũng đề cập đến tuổi kết hôn, xung đột giữa cha

mẹ và con cái, chăm sóc trẻ con khi các bà mẹ đi làm. Ông đã tiến hành khảo sát, so
sánh các tình huống cụ thể tại vùng nông thôn Lancashire trước và trong khi xảy ra
nạn đói ở Ai Len, đồng thời đưa ra phát hiện của mình về sự biến đổi gia đình trong
bối cảnh văn hóa, lịch sử đa dạng ấy. Ông cũng khẳng định, cuộc sống của các cư
dân Lancashire được đáp ứng tốt nhất khi có sự giúp đỡ của họ hàng.


6
Jessie Bernard, The future of marriage (Tương lai của hôn nhân), Yale
University Press [162]. Cuốn sách luận bàn về hôn nhân, giới tính, những thay đổi
trong hành vi hôn nhân, quan điểm, kiến thức, sự chênh lệch giữa hôn nhân của nam
giới và nữ giới. Jessie Bernard cũng đưa ra dự đoán các cặp vợ chồng ngày nay
đang phải đấu tranh để cải thiện cuộc sống hôn nhân bằng cách cùng nhau làm việc,
chia sẻ việc nuôi dạy con cái, kết hợp hài hòa trách nhiệm liên kết trong gia đình với
quyền tự chủ cá nhân…
Janet Finch, Family obligations and social change (Gia đình và đời sống gia
đình), Cambrige: Polity Press [161]. Cuốn sách luận bàn về bản chất của cuộc sống
gia đình, đặc biệt là các khái niệm về trách nhiệm, nhiệm vụ và nghĩa vụ. Tác giả đã
xem xét các cuộc tranh luận chính trị phổ biến trong lĩnh vực này từ tập hợp các tài
liệu nghiên cứu trong các khoa học xã hội. Bà dựa vào quan điểm lịch sử, sử dụng
các bằng chứng thực nghiệm về các gia đình đương đại, nêu bật những khoảng
trống trong nghiên cứu về những chủ đề này. Toàn bộ luận bàn được đặt ra trong bối
cảnh những thay đổi kinh tế, xã hội ở thế kỷ 20 bao gồm chính sách xã hội, các điều
khoản về an sinh xã hội đã tạo ra áp lực bên ngoài đối với cuộc sống gia đình. Tác
giả cho rằng điều này ảnh hưởng đến nhu cầu hỗ trợ và năng lực của các thành viên
trong gia đình để thực hiện chúng.
Charles L.Jones, Lorne Tepperman, Susannach J.Wilson, The futures of the
Family (Tương lai của gia đình) [20]. Nội dung cuốn sách bàn về sự biến đổi của
gia đình, những vấn đề của gia đình đương đại và dự báo gia đình trong tương lai
dựa vào sự nghiên cứu vấn đề hôn nhân, vấn đề nữ quyền, bình đẳng giới... Các tác

giả đã chỉ ra rằng, gia đình dựa trên cơ sở hôn nhân nhưng không chỉ dừng lại ở đó,
nó còn bao gồm cả mối liên hệ với các thế hệ trong gia tộc, dòng họ. Cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc
tế đã tác động ngày càng sâu, rộng đến gia đình, làm biến đổi cấu trúc, thậm chí là
bản chất của nhiều gia đình trên thế giới. Qua nghiên cứu, các tác giả cũng dự báo
tương lai sẽ tồn tại nhiều loại mô hình gia đình khác nhau, trong đó đáng lưu ý là
gia đình đồng tính (phá vỡ bản chất, chức năng của GĐTT).


7
Elaine Leeder, The Family in Global Prespective - A Gendered Journey (Gia
đình theo quan điểm toàn cầu - Hành trình giới tính), Sage Publications
[160]. Tác giả Elaine Leeder đã sử dụng nhiều quan điểm lịch sử, lý luận, so sánh
khác nhau để mở rộng sự hiểu biết liên văn hóa về cuộc sống gia đình. Cuốn sách
khảo sát sự đa dạng cuộc sống gia đình ở các nước phương Tây đối chiếu chúng với
những câu chuyện gia đình ở các vùng của Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh.
Sau khi so sánh lịch sử của gia đình ở nhiều nơi trên thế giới, Elaine Leeder đã phân
tích sự tác động của TCH đến cấu trúc gia đình, hành vi giới tính, các mối quan hệ
giữa các thế hệ trong gia đình, dân tộc, tôn giáo, sắc tộc và các vấn đề về giáo dục,
bạo lực, chính sách xã hội liên quan đến đời sống gia đình. Cuốn sách đã được đánh
giá là một cuốn sách giáo khoa hỗ trợ, bổ sung lý tưởng cho các khóa học về hôn
nhân, gia đình, đồng thời là nguồn tài liệu quý phục vụ cho nghiên cứu gia đình,
công tác xã hội, xã hội học, tâm lý và nghiên cứu phụ nữ…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình và giá trị gia đình truyền
thống
Mai Huy Bích, Xã hội học gia đình [8]. Tác giả tiếp cận gia đình từ góc độ
nghiên cứu xã hội học với những nội dung chia làm bảy chương bàn về: định nghĩa
gia đình; quan điểm xã hội học về gia đình; sự đa dạng của các hình thái gia đình;
hôn nhân và gia đình theo quan điểm giới; đường đời và sự phát triển, biến đổi của

gia đình theo đường đời; biến đổi gia đình và các cách tiếp cận lý thuyết về gia đình.
Qua nội dung cuốn sách, có thể thấy tác giả đã luận giải nhiều vấn đề vừa mang tính
lý luận, vừa mang tính thực tiễn quan trọng về gia đình. Cuốn sách đã góp phần làm
cho việc nghiên cứu bức tranh về gia đình ngày càng mang tính tổng thể, khái quát
nhưng lại rõ nét và sáng tỏ hơn.
Lê Trọng Ân, Tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và
của nhà nước [3]. Tác giả đã giới thiệu, định hướng cho người đọc nghiên cứu một
cách toàn diện, có kết quả về tác phẩm kinh điển quan trọng này. Trên cơ sở phân
tích tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả đã khẳng định: những
chỉ dẫn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là lý luận cơ sở và cần thiết cho
việc nghiên cứu gia đình hiện đại, GĐVH ở Việt Nam hiện nay.


8
Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý, Gia đình học [60]. Cuốn sách là một công
trình nghiên cứu khoa học công phu, hệ thống. Các tác giả đã làm nổi bật một số nội
dung nghiên cứu lý thuyết hướng vào việc xây dựng, phát triển chuyên ngành gia
đình học; làm rõ được những đặc điểm của gia đình Việt Nam trong truyền thống và
những đặc trưng của quá trình hình thành, phát triển của gia đình Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại; làm rõ được khía cạnh giới trong gia đình và xã hội;
những vấn đề về quản lý nhà nước về gia đình và nêu lên những định hướng, giải
pháp cũng như điều kiện để thực hiện những giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam
phù hợp với yêu cầu của giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách của Lê Thị Quý, Quản lý nhà nước về gia đình: lý luận và thực
tiễn [101] đã viết và tập hợp bài viết của một số nhà nghiên cứu về lĩnh vực quản lý
Nhà nước về gia đình. Đây là tài liệu hữu ích, cung cấp cho tác giả luận án những
kiến thức cơ bản của lý luận quản lý nhà nước về gia đình, đồng thời nó là tài liệu
thực địa ở một số địa phương để phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng GĐVH ở
vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay, cụ thể như: nghiên cứu mô hình can thiệp và
địa chỉ tin cậy phòng chống bạo lực gia đình tại tỉnh Thái Bình [101, tr.317, 326];

nghiên cứu vấn đề quản lý gia đình ở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng…[101, tr.338].
Gia đình truyền thống và giá trị GĐTT là vấn đề được nhiều tác giả quan
tâm, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Qua tổng quan các công trình nghiên
cứu, có thể chia thành ba nhóm nghiên cứu sau:
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu về các nghi thức, nghi lễ, những tập tục, ứng xử
trong gia đình cụ thể: thờ cúng tổ tiên trong gia đình, cưới xin truyền thống, giao
tiếp vợ chồng… chủ yếu với mục đích hướng dẫn thực hiện, thực hành. Ví dụ như:
Lê Minh, Những tình huống ứng xử trong gia đình [85]. Cuốn sách đề cập
đến những điều thường gặp trong gia đình như ứng xử giữa vợ chồng, cha mẹ với
con cái, giữa ông bà với cháu chắt, giữa anh chị em với nhau và giữa gia đình với
dòng họ, cộng đồng, xã hội. Tác giả phân tích những tình huống ứng xử diễn ra
trong gia đình của người Việt Nam trong lịch sử đã tác động rất lớn, quyết định đến
việc hình thành nhân cách trẻ thơ. Từ đó, giúp người đọc rút ra


9
bài học, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho con người trong mỗi gia đình
hiện nay.
Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói (phong tục Việt Nam) [64]. Tác giả đã thông
qua 12 chương viết với các phân đoạn nhỏ và sử dụng nhiều câu ca dao, tục ngữ,
thơ, vè… để thể hiện về văn hoá, phong tục Việt Nam. Cuốn sách đã được các nhà
nghiên cứu đánh giá cao. Nội dung của nó thể hiện khá đầy đủ và sâu sắc về phong
tục của Việt Nam. Cuốn sách được coi như một bách khoa toàn thư thu nhỏ về văn
hóa và phong tục cổ truyền Việt Nam. Thông qua nội dung cuốn sách, người đọc sẽ
thấy đất lề, quê thói còn tồn tại lâu dài, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm thức của
người Việt.
Bùi Xuân Mỹ, Lễ tục trong gia đình người Việt Nam [90]. Cuốn sách được
kết cấu thành 9 chương nội dung bao gồm: Chương 1 - Sơ sinh, thơ ấu; chương 2 Trưởng thành; chương 3 - Hôn nhân; chương 4 - Về già; chương 5 - Tang ma;
chương 6 - Quan hệ; chương 7 - Thờ phụng tổ tiên; chương 8 - Tín ngưỡng dân gian
và chương 9 - Các lễ tết trong năm. Cuốn sách đã phân tích các lễ tục trong gia đình

Việt Nam để thấy rõ được cách lý giải thế giới, những suy nghĩ, khát vọng vươn tới
một cuộc sống tốt đẹp hơn của con người Việt Nam trong lịch sử để từ đó tiếp tục kế
thừa những điểm hợp lý, đồng thời xoá bỏ được những hủ tục, mê tín dị đoan trong
thực hiện lễ tục của gia đình người Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu đầy đủ về văn hoá GĐTT trên tất cả các phương
diện, điển hình như:
Toan Ánh, Nếp cũ, con người Việt Nam, phong tục cổ truyền - Thành phố Hồ
Chí Minh [2]. Cuốn sách đã giúp người đọc tìm hiểu phong tục Việt Nam qua những
tục lệ trong gia đình như sinh con, nuôi nấng, dạy dỗ con, việc gây dựng tương lai
cho con cái…, đồng thời thông qua lễ, tết, hội hè... tác giả góp phần tô đậm thêm
bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam của tập hợp tác giả Đặng Văn
Lung, Nguyễn Sông Thao và Hoàng Văn Thụ [71]. Cuốn sách giúp người đọc biết
và hiểu sâu hơn về các phong tục, tập quán thông qua lễ, tết, tục hội, tang ma, hôn
nhân… của dân tộc Việt và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.


10
Thứ ba, nhóm nghiên cứu về văn hoá truyền thống của người Việt, trong đó
văn hoá gia đình là thành tố cấu thành quan trọng nhất. Các công trình nghiên cứu
tiêu biểu như:
Chương trình KX-07-02: Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay
của Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang [67]. Ở công trình này, dưới quan điểm khách
quan, tinh thần khoa học, các tác giả đã nghiên cứu và trình bày một cách cụ thể về
quá trình hình thành, phát triển và sự biến đổi của các giá trị truyền thống Việt Nam
trong lịch sử. Đồng thời, với quan điểm lịch sử cụ thể, công trình đã nêu lên những
truyền thống của con người Việt Nam (bao gồm cả truyền thống của gia đình), ở đó
có cả những mặt mạnh và mặt yếu. Từ đó, các tác giả đã mạnh dạn đưa ra những
phương hướng, giải pháp nhằm phát huy những giá trị, khắc phục những hạn chế
của truyền thống Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Công trình: Giá trị tinh thần
truyền thống Việt Nam của Trần Văn Giàu
[42]. Nội dung của cuốn sách đã khái quát cơ bản các khái niệm về giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc như: tinh thần yêu nước, đoàn kết, tấm lòng nhân ái, đức
tính trung thực, cần cù, sự sáng tạo, lạc quan, khiêm tốn, giản dị… trong cuộc sống
và những ảnh hưởng của lịch sử đối với sự phát triển các giá trị ấy trong quá khứ,
hiện tại. Thông qua cuốn sách, giúp tác giả có cái nhìn toàn diện, chính xác hơn về
cơ sở hình thành, cũng như nội dung, biểu hiện của những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam trong đó có giá trị GĐTT. Những giá trị tinh thần ấy,
đều thấm đượm trong các mối quan hệ từ trong gia đình, dòng họ, làng xã đến cộng
đồng, xã hội và trở thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm [157]. Cuốn sách
là một trong những công trình mang tính tổng hợp, “tập đại thành” đối với những
người làm công tác nghiên cứu văn hóa. Mỗi chương sách thực sự là một khám phá
chứa đựng những ý tưởng khoa học mới, độc đáo, khác lạ và sâu sắc giúp gợi mở
những hướng nghiên cứu mang tính liên ngành, đa ngành cho văn hóa học hiện nay
nói chung và cho các nhà nghiên cứu văn hóa khi tiếp cận nghiên cứu văn hóa Việt
Nam xưa - nay, giá trị GĐTT… nói riêng cả về nội dung lẫn


11
phương pháp tiếp cận. Trong cuốn sách, tác giả luận án quan tâm đến phần “những
vấn đề chung”, “văn hóa dân gian”, “ứng xử” và đặc biệt là nội dung “tâm thức văn
hóa cư dân châu thổ Bắc Bộ” từ trang 487 đến trang 500. Ở phần nội dung này, Giáo
sư đã lý giải việc gọi châu thổ Bắc Bộ, phân tích những điều kiện tự nhiên, đặc điểm
kinh tế, xã hội để hình thành nên văn hóa ứng xử của cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ
trong xã hội nông nghiệp cổ truyền.
Phạm Xuân Nam, Gia đình Việt Nam - các giá trị truyền thống [92]. Trong
cuốn sách này, tác giả đã khẳng định: trải qua nhiều thế hệ gia đình Việt Nam đã
được hình thành, phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng

nên bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời, trên cơ sở phân tích thực tiễn đất nước, tác
giả cũng đưa ra dự báo về xu hướng vận động, biến đổi của các giá trị truyền thống
trước sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường (KTTT) và quá trình hội nhập
quốc tế.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên, Giá trị truyền thống trước thách
thức của toàn cầu hóa [22]. Cuốn sách đã đề cập đến các giá trị truyền thống (trong
đó có cả giá trị truyền thống trong gia đình) và những vấn đề liên quan đến TCH.
Qua đó, luận bàn đến những thách thức, khó khăn cũng như những cơ hội do TCH
mang đến với việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam.
Đặng Cảnh Khanh, Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống
[59]. Tác giả Đặng Cảnh Khanh đã biên soạn cuốn sách với mục đính cung cấp kiến
thức và nhận thức lại một cách nghiêm túc, sâu sắc đối với người học, nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến gia đình, đặc biệt là tầm quan trọng của gia đình và
cộng đồng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp, phát huy tính ưu việt
của tinh hoa văn hóa dân tộc, xây dựng GĐVH, hạnh phúc trên cơ sở gìn giữ, tiếp
thu các giá trị văn hóa trong GĐTT Việt Nam. Nội dung cuốn sách đã giải quyết
được các vấn đề cơ bản như: khái quát cơ sở lý luận về vai trò của gia đình và cộng
đồng trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống; Phân tích thực trạng việc
giáo dục các giá trị truyền thống trong gia đình và cộng đồng; rút ra một số nhận
định và khuyến nghị. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả


12
luận án khi tiến hành nghiên cứu, phân tích thực trạng giáo dục các giá trị văn hóa
GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Đặng Phương Kiệt, Gia đình Việt Nam những giá trị truyền thống và các vấn
đề tâm - bệnh lý xã hội [65]. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết đánh giá xác thực về
những truyền thống quý giá của gia đình Việt Nam, những biến đổi của gia đình
Việt Nam trong thời hiện đại, vấn đề giáo dục gia đình… được các tác giả nghiên

cứu từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như: văn hoá, tâm lý, giáo dục, mỹ học, lịch
sử… Ngoài những nội dung về gia đình nêu trên, cuốn sách cũng đã khắc họa được
bức tranh hiện thực về một số vấn đề “bệnh lý xã hội” đã và đang xuất hiện trong
một bộ phận các gia đình Việt Nam hiện nay như: những bất hòa trong đời sống vợ
chồng, ly thân, ly hôn, quan hệ cha mẹ - con cái, các vấn đề liên quan đến bạo lực
gia đình, bạo hành trẻ em… cùng những thách thức mà gia đình phải vượt qua để
phát huy tốt các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam trong xây dựng gia đình
mới, GĐVH.
Nguyễn Thế Long, Gia đình - Những giá trị truyền thống [70]. Dưới góc độ
của nhà giáo dục và xã hội học, tác giả Nguyễn Thế Long đã trình bày những bài
tiểu luận ngắn các quan điểm của mình về những giá trị truyền thống văn hóa của
gia đình và dân tộc mà ngày nay cần phải kế thừa, phát huy trong xây dựng gia đình
mới, GĐVH. Trong cuốn sách, tác giả cho rằng, giáo dục con em tiếp thu và phát
huy giá trị truyền thống lâu đời của gia đình là việc làm cần thiết và rất quan trọng
trong xây dựng gia đình và đất nước hiện nay. Nội dung giáo dục bao gồm các giá
trị truyền thống như: truyền thống hiếu học và “Tôn sư trọng đạo”; truyền thống đạo
đức; truyền thống tâm linh và truyền thống thẩm mỹ... Theo ông, những nội dung
giáo dục trên chính là giá trị truyền thống lâu đời của một gia đình, một dòng họ, nó
có một sức mạnh vô hình thúc giục, động viên mọi người trong gia đình, dòng họ
vươn lên thực hiện những hoài bão lớn đồng thời, góp phần tạo nên truyền thống,
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, ở cả ba nhóm công trình nghiên cứu về GĐTT và giá trị GĐTT như
trên, mặc dù có cách tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản đều nhìn nhận văn


13
hoá GĐTT dưới góc độ đề cao như là những chuẩn mực mà con người, gia đình
hiện nay cần kế thừa, phát huy.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng và xu hướng biến đổi của
gia đình Việt Nam hiện nay

Nguyễn Hữu Minh, Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh [88]. Cuốn sách bao gồm 31 bài
viết khoa học có chất lượng, hàm lượng khoa học cao của cả các nhà nghiên cứu
trong nước và nước ngoài khi tham dự hội thảo khoa học cùng tên tại Viện nghiên
cứu Gia đình và Giới. Nội dung cuốn sách giúp cho người đọc có cái nhìn khách
quan, đang dạng về những vấn đề cụ thể như:
Thứ nhất, nghiên cứu gia đình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế từ cách tiếp cận so sánh. Các tác giả nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của gia đình trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập. Luận bàn
về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, về sự phân hóa chức năng giáo dục trong
quá trình biến đổi cấu trúc xã hội và về vị thế kinh tế, xã hội của gia đình.
Thứ hai, nghiên cứu sự biến đổi nhanh chóng cơ cấu, chức năng gia đình
Việt Nam từ sự giảm quy mô, tăng tỷ lệ gia đình hạt nhân, giảm tỷ số phụ thuộc
trong gia đình đến những thay đổi về chức năng gia đình trong quá trình thực hiện
CHN, HĐH và hội nhập. Thông qua các bài viết, có thể thấy chức năng xã hội hóa
của gia đình có nhiều biến đổi: cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến giáo dục con cái
hơn trước trong khi con cái của họ lại đang dành nhiều thời gian vui chơi, đàn đúm
với bạn bè, tham gia các mạng xã hội. Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài gia đình
như sự du nhập, tác động của văn hóa ngoại lai, các hành vi tệ nạn xã hội, internet,
games… đến việc giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách cho con cái ngày càng tăng
lên. Sự bảo lưu thậm chí là rập khuôn đậm nét các quan niệm truyền thống của
người dân về hôn nhân và gia đình. Mối quan hệ tâm lý, tình cảm gắn kết giữa vợ chồng, cha mẹ - con cái trong gia đình, chức năng tái sinh sản của gia đình… cũng
thay đổi rõ rệt.
Thứ ba, nghiên cứu về giá trị gia đình. Ở mảng nghiên cứu này, các bài viết
đã cung cấp thông tin phong phú đa dạng về sự biến đổi mạnh mẽ các giá trị gia
đình như: sự thay đổi về quan niệm hôn nhân, quan niệm thủy chung, bình đẳng


14
giới, chữ hiếu… trong gia đình. Đồng thời, đề cập đến xu hướng thích con trai của

xã hội cũ vẫn còn tồn tại dẫn đến chênh lệch giới tính khi sinh, nam nhiều hơn nữ
gia tăng nhanh trong những năm gần đây. Mặt trái của sự tác động đẩy nhanh quá
trình đô thị hóa nông thôn khiến cho việc giáo dục giới tính, sức khỏe vị thành niên
gặp nhiều khó khăn và suy giảm ý thức cộng đồng ở nông thôn - một trong những
nét đặc trưng cơ bản của xã hội truyền thống.
Thứ tư, nghiên cứu về tính đa dạng của gia đình. Các bài viết đã cung cấp
những thông tin phong phú về đặc điểm gia đình ở các khu vực, các dân tộc, tôn
giáo và các loại hình gia đình khác nhau. Dưới sự tác động của kinh tế thị trường,
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã làm cho quy mô, mức sinh, tuổi kết hôn, việc
chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, mối quan hệ gia đình, dòng họ…ở
các gia đình có sự biến đổi. Đáng lưu ý, trong phần IV, là sự xuất hiện và đang tăng
lên nhanh chóng một loại gia đình mới - gia đình quốc tế, trong đó nổi bật là các cô
dâu Việt Nam lấy chồng nước ngoài thông qua môi giới…
Thứ năm, nghiên cứu về chính sách và hành động đối với sự phát triển của
gia đình. Nội dung các bài viết đề cập đến nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và
vị trí của gia đình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều văn bản pháp luật, chính sách, đề án, chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm xây
dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc… đã được ban hành và triển
khai. Tuy nhiên, hoạt động triển khai và thực thi chính sách gia đình vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập và gặp không ít khó khăn.
Những bài viết đã có cách đánh giá khách quan, khoa học về những biến đổi
trên các khía cạnh khác nhau của gia đình. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo
quý góp phần quan trọng trong việc hình thành luận cứ khoa học cho việc xây dựng
luật pháp, các nghị định, chính sách xã hội nhằm phát huy tối đa vai trò, vị thế to
lớn của gia đình trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Linh Khiếu, Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hoá xã hội ở
nông thôn [63]. Trong nội dung cuốn sách, tác giả khẳng định được vị trí, vai trò to
lớn của gia đình đối với sự phát triển cá nhân và xã hội cũng như vai trò của phụ nữ
nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời chỉ ra



15
được đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam cùng những yếu tố tác động đến gia
đình, đến vai trò của người phụ nữ trong quá trình đô thị hoá. Từ đó, tác giả đã đưa
ra những dự báo về những biến đổi về gia đình trong mối quan hệ biến đổi đời sống
kinh tế, văn hoá ở nông thôn Việt Nam hiện nay.
Lê Thi, Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới [122]. Cuốn sách
đã đề cập đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới
với những nội dung: khái quát biến đổi về gia đình nói chung, sau đó đi sâu vào
nghiên cứu sự biến đổi của hôn nhân, vấn đề xã hội hóa trẻ em và việc thực hiện
mục tiêu Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ IX (chương 1); Nghiên cứu mối quan hệ
trong gia đình từ cách tiếp cận giới, bất bình đẳng trong thực hiện chiến lược dân số
và phát triển bền vững ở Việt Nam, bạo lực gia đình, phân biệt đối xử giữa con trai,
con gái, ly thân, ly hôn, tâm trạng phụ nữ đơn thân…(chương 2), để từ đó nghiên
cứu xây dựng văn hóa gia đình và GĐVH.
Dương Thị Minh, Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay [89], cũng đã bàn sâu về vấn đề nêu trên. Cuốn sách đã đề cập đến
các nhân tố tác động đến sự biến đổi gia đình và vai trò người phụ nữ trong gia
đình. Chỉ ra đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam và xu hướng biến đổi vai trò
của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở phân tích thực tiễn, tác giả đã
đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của người phụ nữ trong việc
xây dựng gia đình mới, GĐVH ở Việt Nam.
Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam [154]. Cuốn sách
được chia làm ba phần, cụ thể: Phần 1, tác giả đã khái quát và hệ thống hoá về
những vấn đề cơ bản của gia đình và biến đổi gia đình; Phần 2, phân tích thực trạng
biến đổi gia đình Việt Nam hiện nay ở nội dung biến đổi chức năng gia đình và cấu
trúc gia đình. Trên cơ sở phân tích thực trạng ở phần 2, tác giả đã đưa ra quan điểm
về gia đình đồng thời đề cập đến những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi gia đình và đề
xuất năm nhóm giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng gia đình trong thời kỳ CNH,
HĐH ở nước ta trong phần 3.

Ngoài những cuốn sách nêu trên còn có một số Luận án tiến sĩ nghiên cứu
thực trạng, xu hướng biến đổi của gia đình do tác động của kinh tế thị trường và
toàn cầu hóa như:


16
Nguyễn Thanh Bình, Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở lứa tuổi
thiếu niên trong gia đình thành phố hiện nay [11]. Tác giả đã phân tích, làm rõ vai
trò của giáo dục gia đình, những vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay trong giáo dục gia
đình, nhất là giáo dục con ở lứa tuổi thiếu niên ở gia đình thành phố trong bối cảnh
KTTT, mở cửa và hội nhập quốc tế. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp phù
hợp góp phần tăng cường vai trò, chức năng giáo dục gia đình đối với con cái, lứa
tuổi thiếu niên ở thành phố.
Nghiêm Sĩ Liêm, Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước
ta hiện nay [68]. Luận án đã làm rõ các khái niệm “Gia đình”, “Giáo dục gia đình”,
“Vai trò của giáo dục gia đình”, “Thế hệ trẻ”, chỉ ra đặc điểm cũng như nội dung
của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ. Luận án đã xác định được những yếu tố ảnh
hưởng đến giáo dục gia đình, đánh giá thực trạng giáo dục gia đình đối với thế hệ
trẻ ở nước ta và phân tích được những nguyên nhân cơ bản của thực trạng cũng như
những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như: vẫn còn nhiều bất cập trong việc giáo
dục đạo đức, học tập văn hóa, giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho trẻ
giữa các vùng, miền, các giới; giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ chưa được các gia
đình quan tâm đúng mực… Từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần
nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới.
Nguyễn Thị Thọ, Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay [125]. Luận án đã phân tích, làm rõ vai trò của đạo đức gia đình, tác
động của KTTT đến đạo đức gia đình trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất các
giải pháp phù hợp nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện đạo đức gia đình theo
hướng tiến bộ, tích cực.

Phạm Thị Bình, Tác động của kinh tế thị trường đến chức năng gia đình ở
Việt Nam hiện nay [12]. Luận án đã làm rõ được vai trò, chức năng của gia đình và
phân tích thực trạng tác động của KTTT đến chức năng gia đình để từ đó đề ra các
giải pháp phù hợp, khả thi nhằm củng cố và phát huy những mặt tích cực, hạn chế
những tác động tiêu cực trong thực hiện chức năng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Minh Phương, Định hướng giáo dục cho con trong các gia đình
nông thôn ngày nay [98]. Luận án phân tích, làm rõ đặc điểm gia đình nông


17
thôn hiện nay và tập trung phân tích quá trình tương tác trong giáo dục con cái,
những tác động của gia đình đến quá trình học tập, kết quả học tập của học sinh.
Luận án chỉ rõ đường hướng lựa chọn giáo dục của gia đình trong bối cảnh chuyển
đổi của làng xã hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, gia đình tiếp tục
giữ chức năng giáo dục con cái, nhưng yếu kém trong khả năng kiểm soát kiến thức
mà các con được dạy ở trường. Từ đó, đề ra giải pháp góp phần nâng cấp, cải thiện
giáo dục nhằm đáp ứng xu hướng nguyện vọng và mong đợi giáo dục đối với con
cái ở gia đình nông thôn trong bối cảnh hiện nay.
Đoàn Thị Thanh Huyền, Giáo dục pháp luật cho con cái trong gia đình hiện
nay [54]. Luận án đã nghiên cứu tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật
và nhận thức của các bậc cha mẹ về vấn đề này nhằm nhận diện thực trạng giáo dục
pháp luật cho con cái lứa tuổi Trung học cơ sở, Trung học phổ thông trong các gia
đình tại tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng giáo dục pháp luật cho con cái trong gia đình hiện nay.
Lê Văn Hùng, Sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay [52].
Luận án đã góp phần làm rõ quan niệm về văn hóa gia đình và biến đổi văn hóa gia
đình. Phân tích những yếu tố chủ yếu tác động chủ yếu đến sự biến đổi văn hóa gia
đình như: TCH, CNH, đô thị hóa, KTTT hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và sự biến đổi của quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình.
Đánh giá thực trạng sự biến đổi văn hóa gia đình Việt Nam và nêu ra bốn vấn đề

đang đặt ra hiện nay cần giải quyết: nhiều mâu thuẫn mới phát sinh trong gia đình
do việc đề cao thái quá các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình hiện đại làm
giảm tính bền vững của gia đình Việt Nam; bạo lực gia đình diễn biến phức tạp, khó
kiểm soát phá vỡ giá trị, chuẩn mực hòa thuận, yêu thương trong gia đình Việt Nam
hiện nay; sự gia tăng các hiện tượng ngoại tình, ly thân, ly hôn và xuất hiện một bộ
phận giới trẻ coi thường các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT, cổ xúy cho văn
hóa, lối sống phương Tây. Từ đó, luận án đề xuất bốn giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay, cụ thể: đẩy mạnh phát triển kinh tế và các
dịch vụ tư vấn, hỗ trợ gia đình; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính
sách, pháp luật về gia đình; tôn trọng và đề cao các


18
giá trị, chuẩn mực trong quan hệ hôn nhân, gia đình; đẩy mạnh hoạt động xây dựng
GĐVH nhằm tôn vinh các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của văn hóa gia đình Việt
Nam.
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về gia đình văn hóa và xây dựng gia
đình văn hóa ở Việt Nam
Trần Hữu Tòng, Trương Thìn, Xây dựng Gia đình văn hóa trong sự nghiệp
đổi mới [135]. Cuốn sách bao gồm tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu
khác nhau về gia đình, xây dựng GĐVH trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Trong
bài Gia đình Việt Nam và xây dựng văn hóa gia đình trong công cuộc đổi mới ở
nước ta của Lê Thi, tác giả đã chỉ ra rằng: gia đình Việt Nam chịu sự tác động mạnh
của điều kiện kinh tế, xã hội đương thời nhưng lại có tính ổn định và độc lập tương
đối trong sự phát triển. Nó có tính quy luật vận động riêng, trong đó, các “quan hệ
kinh tế không đóng vai trò yếu tố cơ bản quyết định cuối cùng mà là các quan hệ
máu mủ, tình cảm và trách nhiệm” [122]. Chúng ta không thể đơn giản chỉ lấy yếu
tố kinh tế, sự biến động của xã hội để giải thích mọi hiện tượng xảy ra trong đời
sống tinh thần, tình cảm và biến đổi các mối quan hệ trong gia đình. Phải xem xét,
nghiên cứu sự biến đổi cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ trong gia đình từ cả hai

phía: nội tại trong mỗi gia đình và sự tác động của yếu tố kinh tế, xã hội. Cũng trong
bài viết, tác giả đã phân tích sự tác động của yếu tố khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã
hội... làm biến đổi văn hóa trong gia đình theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Vì
vậy, xây dựng GĐVH hiện nay cần thiết phải kết hợp hài hòa văn hóa GĐTT với
các giá trị văn hóa hiện đại. Việc tiếp thu các giá trị tinh thần mới của gia đình hiện
đại không mâu thuẫn với việc giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp,
vốn có của gia đình Việt Nam.
Hoàng Bích Nga, Để có một gia đình văn hóa [93]. Cuốn sách đã phân tích
tương đối hoàn chỉnh các yếu tố để có một gia đình văn hóa như: tình yêu và hôn
nhân, các giai đoạn phát triển của gia đình; sự giáo dục của cha mẹ đối với con cái,
các mối quan hệ trong gia đình như làm chồng, làm vợ, làm ông, làm bà, làm con,
làm cháu… và quan hệ với láng giềng, quê hương, đất nước. Thông qua nội dung
cuốn sách, người đọc có thể rút ra câu trả lời “để có một gia đình văn hóa”, bản thân
mỗi người trong gia đình phải thực hiện tốt bổn phận, trách nhiệm của


19
mình đối với gia đình, sống giản dị, không tham những thú vui thiếu lành mạnh,
không xa vào các tệ nạn xã hội… Cuốn sách cũng chỉ rõ vai trò quan trọng của cuộc
vận động xây dựng GĐVH đối với sự hình thành, phát triển gia đình Việt Nam trong
thời đại mới, đồng thời, khẳng định cần phải tiếp tục duy trì thực hiện “Phong trào
xây dựng gia đình văn hóa” không chỉ ở chiều rộng mà cần thực hiện theo chiều sâu
để đạt kết quả, hiệu quả cao nhất.
Vũ Ngọc Khánh, Văn hoá gia đình Việt Nam [61]. Nội dung cuốn sách đã
phân tích, bao quát các khía cạnh: lịch sử gia đình Việt Nam từ cơ sở tâm linh để tạo
nên văn hóa; nề nếp và tập tục; những nét riêng, những hình ảnh đậm đà bản sắc văn
hóa; lễ thức gia đình… Tác giả đã đề cập đến vấn đề văn hoá gia đình và phân tích
những ảnh hưởng của nó từ khuynh hướng của tôn giáo, triết học, văn học - nghệ
thuật… thông qua đó để tìm hiểu, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc được ẩn chứa
trong các gia đình.

Đỗ Thị Thạch, Về xây dựng Gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Đại
hội XI của Đảng [119]. Ở bài viết này, tác giả đã phân tích những điểm mới trong
Văn kiện Đại hội XI của Đảng về vấn đề gia đình và xây dựng gia đình văn hóa
như: phân tích về vị trí, vai trò của gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng thời
từ vị trí, vai trò đó tác giả đã đưa ra các phương hướng, giải pháp để xây dựng thành
công GĐVH trong tương lai theo ánh sáng của Đại hội XI.
An Thị Ngọc Trinh, Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc trong xây
dựng văn hoá gia đình Việt Nam hiện nay [140]. Trong luận án này, tác giả tiếp cận
từ những giá trị văn hoá của dân tộc để phân tích, đánh giá và rút ra việc giữ gìn, kế
thừa, phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc trong việc xây dựng văn
hoá gia đình Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có các bài báo như: Trần Thị Tuyết Mai, Văn hoá gia đình và
xây dựng Gia đình văn hóa trong thời kỳ hội nhập [77]. Nội dung bài viết đã: đề cập
đến vai trò của gia đình và văn hóa gia đình trong đó có văn hóa GĐTT; chỉ ra
những thuận lợi, khó khăn của gia đình và văn hóa gia đình trước thách thức của
tiến trình hội nhập; rút ra những nội dung giá trị gia đình văn hóa và xây dựng giá
trị văn hóa gia đình trong thời kỳ mới; Phan Văn Phờ có bài, Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào công tác xây dựng Gia đình văn hóa [96]. Bài viết đã làm rõ


20
được tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, chỉ ra được tác động của đổi mới và hội
nhập đến gia đình Việt Nam hiện nay làm cho nhiều giá trị đạo đức trong gia đình bị
mai một, những chuẩn mực tình nghĩa, thủy chung, hòa thuận bị đảo lộn… từ đó, đề
xuất các giải pháp khả thi nhằm xây dựng gia đình Việt Nam trong bối cảnh đổi mới
và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2.4. Các công trình nghiên cứu về gia đình vùng đồng bằng sông Hồng
Mai Huy Bích, Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng [7]. Tác giả nghiên
cứu đặc điểm, cấu trúc, chức năng của các gia đình vùng ĐBSH từ góc độ dân tộc
học và xã hội học. Trên cơ sở đó, làm rõ giữa tính cộng đồng và chức năng tái sinh

sản, chức năng xã hội hoá trẻ em, mục đích của hôn nhân trong gia đình Việt Nam
truyền thống và hiện đại.
Khuất Thu Hồng, Gia đình truyền thống - Một số tư liệu nghiên cứu xã hội
học [49]. Cuốn sách đã làm rõ vấn đề hôn nhân truyền thống ở Đồng bằng sông
Hồng, đồng thời hướng dẫn một số phương pháp phỏng vấn cá nhân và đưa ra kết
quả nghiên cứu vấn đề này tại Đại Đồng - Hà Tây cũ và Hà Nội.
Tô Duy Hợp, Sự biến đổi của làng - xã Việt Nam hiện nay (ở Đồng bằng
sông Hồng) [50]. Tác giả đã phân tích sự biến đổi của làng liên quan đến nhiều vấn
đề, trong đó có đề cập đến biến đổi văn hóa gia đình và dòng họ. Cũng trong cuốn
sách, tác giả cho rằng, gia đình nông thôn ở vùng đồng bằng sông Hồng đang có
một số biến đổi như: tính bình đẳng giữa vợ chồng được khẳng định hơn so với
truyền thống; tính áp chế của các thế hệ trước đối với thế hệ sau có xu hướng giảm
trong các quyết định quan trọng; xu hướng thống nhất những giá trị chung trong gia
đình được duy trì nếu nó không lệch chuẩn…
Phan Hồng Giang, Đời sống văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng và
sông Cửu Long [40]. Cuốn sách đã phân tích rất nhiều vấn đề trong đó có phân tích
thực trạng một số lĩnh vực của đời sống văn hóa nông thôn (qua nghiên cứu định
lượng), thực trạng các thiết chế và hoạt động văn hóa mới, vai trò truyền thông đại
chúng, dư luận xã hội trong đời sống văn hóa nông thôn ở vùng đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long.
Lê Thị Thanh Hương, Ứng xử của người dân vùng Đồng bằng sông Hồng
trong gia đình [56]. Các tác giả cho rằng, việc ứng xử trong quan hệ gia đình ở


×