Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Xuất khẩu lao động của việt nam sang nhật bản thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.24 KB, 50 trang )

CHƯƠNG 1.
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1. Các khái niệm.
1.1.1. Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức, của con người nhằm thay
đổi những vật thể tự nhiên để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự
vận dụng của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
1.1.2. Sức lao động.
Sức lao động là tập hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình
tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người.
Hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt. Sức lao động thuộc
quyền sở hữu của người lao động. Người lao động bán sức lao động thực chất
là bán quyền sử dụng lao động hay cho thuê sức lao động trong một thời gian
nhất định.
1.1.3. Nguồn lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong
độ tuổi lao động không tính số người mất khả năng lao động và những người
ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có tham gia lao.
1.1.4. Thị trường lao động.
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá
trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử
dụng lao động và có nguồn cung cấp sức lao động thì ở đó sẽ hình thành nên
thị trường lao động.
Việc mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động diễn ra trong hai loại thị
trường :
- Thị trường lao động trong nước: là một loại thị trường, trong đó mọi
lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác trong phạm vi
biên giới của một quốc gia.
1



- Thị trường lao động quốc tế là thị trường trong đó lao động từ nước này
có thể di chuyển sang nước khác thông qua các Hiệp định, Thỏa thuận giữa
hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
1.1.5. Xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn lao
động giữa chính phủ một nước hay tổ chức, cá nhân, cung ứng sức lao động
của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dụng sức lao động nước ngoài
trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động.
Như vậy, khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di
chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác.
Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được gọi là nước xuất khẩu
lao động , nước tiếp nhận lao động được coi là nước nhập khẩu lao động
(NKLĐ). Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm
nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh.
Vì sức lao động là một hàng hóa đặc biệt nên trong hiệp định hay hợp
đồng cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định đối với các loại
hàng hóa bình thường thì còn có những điều khoản đề cập đến đời sống, văn
hóa, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này bị chi phối bởi
phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hóa của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực
này.
1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động.
Hiện nay xuất khẩu lao động được thực hiện theo nhiều hình thức sau:
Căn cứ vào hợp đồng đưa lao động ra nước ngoài: xuất khẩu lao động
được thực hiện thông qua hiệp định giữa các Chính phủ; theo hợp đồng giữa
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động; hình thức thầu bao công trình, đầu tư
nước ngoài, hợp đồng nâng cao tay nghề và theo hợp đồng đơn lẻ của người
lao động với chủ sử dụng lao động.
Căn cứ vào không gian đi chuyển của người lao động: xuất khẩu lao
động trực tiếp là việc di chuyển lao động có tổ chức, có thời hạn, từ nước này

đến nước khác để làm việc kèm theo thay đổi chỗ ở, là hình thức chủ yếu
2


trong trao đổi quốc tế sức lao động hiện nay. Xuất khẩu lao động ráp ranh là
hiện tượng người lao động của các nước có chung biên giới qua lại để kiếm
việc làm, nhưng không kèm thay đổi chỗ ở tạm thời hay vĩnh viễn. Xuất khẩu
lao động tại chỗ là người lao động làm việc ngay tại trên nước mình trong các
khu chế xuất, khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu lao động
phi chính thức là người lao động ra nước ngoài tìm việc làm bất hợp pháp,
hình thức này chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng rủi ro cho người lao động rất cao.
Căn cứ vào chất lượng lao động xuất khẩu: xuất khẩu lao động có tay
nghề hay còn gọi là xuất khẩu chuyên gia, kỹ thuật viên, lao động lành nghề,
xuất khẩu lao động tay nghề thấp hoặc không có tay nghề đó gọi là xuất khẩu
lao động phổ thông. Hướng di chuyển của hai loại lao động này cũng khác
nhau. Trong khi lao động có tay nghề thường di chuyển song hành với luồng
vốn đầu tư từ nước phát triển đến những nước kém phát triển hơn thì lao động
phổ thông lại có hướng di chuyển ngược lại từ những nước kém phát triển
đến những nước phát triển hơn.
Các hình thức xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Hiện nay, xuất khẩu lao động của nước ta được tiến hành theo các hình
thức sau:
- Thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Thông qua các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức cá
nhân đầu tư ra nước ngoài được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
- Theo hợp đồng cá nhân lao động trực tiếp ký kết với chủ sử dụng lao
động nước ngoài.
- Hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi thực tập nâng cao tay

nghề ở nước ngoài.
Hiện nay XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản chủ yếu được thực hiện
thông qua hình thức này. Chương trình tu nghiệp sinh (TNS) là chương trình
với mục đích đào tạo tay nghề và chuyển giao một số công nghệ kỹ thuật,
3


chính phủ Nhật Bản viện trợ, giúp đỡ cho Việt Nam đào tạo chuyên gia trong
các lĩnh vực nghề, sản xuất, máy móc, đồng thời giúp các xí nghiệp của Nhật
Bản đang thiếu công nhân trầm trọng một lượng nhân công giá rẻ từ các nước
đang phát triển.
Theo tinh thần hợp tác thì TNS sẽ học và làm việc ở Nhật là 3 năm. Sau
khi sang Nhật trong 10 tháng đầu tiên sẽ là huấn nghệ và họ sẽ nhận tiền trợ
cấp huấn nghệ là khoảng 70.000 yên/tháng đến 80.000 yên/ tháng. Sau 10
tháng huấn nghệ nếu thi đậu bằng nghề của Nhật thì sẽ được chuyển sang tư
cách gọi là “ Thực tập sinh”, được trả lương tương đương với mức lương
người Nhật tập sự trong vòng 26 tháng còn lại khoảng 120.000 yên- 140.000
yên/ tháng.
Xuất khẩu lao động được nghiên cứu trong khóa luận này là xuất khẩu
lao động trực tiếp, là loại hình dịch vụ đưa người đi lao động bao gồm cả
chuyên gia và tu nghiệp sinh, thực tập sinh, đi làm việc có thời hạn, có tổ
chức, hợp pháp thông qua các hiệp định chính phủ, các tổ chức chính phủ, phi
chính phủ, các hợp đồng của tổ chức dịch vụ được cấp giấy phép xuất khẩu
lao động, hoặc theo các hợp đồng nhận thầu khoán công trình, các dự án đầu
tư ra nước ngoài, các hợp đồng nâng cao tay nghề hoặc theo các hợp đồng cá
nhân.
1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc gia,
đặc biệt đối với các nước kinh tế kém phát triển. Hoạt động này đem lại lợi
ích cho tất cả các bên tham gia: bên xuất khẩu lao động, bên nhập khẩu lao

động và bản thân người lao động.
Xét trên góc độ vĩ mô:
- Với nước xuất khẩu lao động:
Nước XKLĐ có lợi về nhiều mặt trong đó đặc biệt là các lĩnh vực: kinh
tế, xã hội, quan hệ đối ngoại.
+ Về kinh tế: xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt động kinh
tế. Trước hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao
4


động. Có thể nói, xuất khẩu lao động giữ một vị trí quan trọng trong chương
trình việc làm quốc gia, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết
việc làm, đây là một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà
nước ta đặt ra tới năm 2020 sẽ xóa hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số
nước cho thầy, xuất khẩu lao động là một giải pháp khác phục tình trạng thất
nghiệp có hiệu quả cao.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn
thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế do vậy rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo giữa nước phát triển và nước
đang phát triển.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan
trọng cho đất nước. Theo như ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2007 đã
giửi về nước lượng kiều hối từ 1,6 tỷ USD. Trong đó thị trường Nhật Bản với
hơn 300 triệu USD. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30 quốc gia có
lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất, là một trong 10 quốc gia có thu nhập
lớn từ XKLĐ.
+ Về xã hội: Đối với một nước hơn 88 triệu dân, với trên một nửa là
trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên tới 1,58%,
khu vực nông thôn là 3,35% thì XKLĐ là một kênh giải quyết việc làm cho
người lao động rất có ý nghĩa. Trong mấy năm gần đây, số lượng lao động đi

xuất khẩu nước ta mỗi năm đã tăng lên đến trên dưới 70 nghìn người và đến
nay đã có khoảng 400 nghìn người Việt Nam đang làm việc ở khoảng 40 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Song nếu so với Philippines có cùng số dân và số người
trong độ tuổi lao động như Việt Nam thì kết quả trên còn thấp hơn rất nhiều.
Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do
thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động học
tập được phong cách làm việc mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị.
+ Về quan hệ đối ngoại: Mở trộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh
vực XKLĐ là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao
động và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tạo ra
5


mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan
trọng về những vấn đề hai nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai
bên cùng có lợi. Sự đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng
thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điều kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ
hợp tác khác.
- Với nước nhập khẩu lao động:
Với nước nhập khẩu lao động thu được những lợi ích đáng kể như: cung
cấp đủ số lao động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu quả tiềm
năng của đất nước. Đồng thời, mở rộng quan hệ và uy tín với nước có lao
động, khai thác kinh nghiệm, kiến thức, tác phong lao động và cung cách
quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu thị trường trong nước…
Ngoài ra XKLĐ cũng góp phần giải quyết nhu cầu lao động đặc biệt là
trong các lĩnh vực mà lao động địa phương ít tham gia tại nước tiếp nhận lao
động.
Xét trên góc độ vi mô:
- Với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động:
+ Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các doanh

nghiệp tham gia trong lĩnh vực này phải tìm hiểu kỹ về nền văn hóa, phong
tục tập quán của nước nhập khẩu, đây là tiền đề tốt trong quá trình hội nhập
quốc tế.
+ Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động là đã tham gia hiệu quả
vào chương trình quốc gia giải quyết việc làm đồng thời thực hiện một phần
thỏa thuận hợp tác giữa hai chính phủ.
+ Doanh nghiệp XKLĐ làm ăn có hiệu quả sẽ thực hiện nghĩa vụ với
Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên một vấn đề hết sức bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện
nay đó là tình trạng ngày càng có nhiều lao động không thực hiện đúng hợp
đồng đã ký kết. Việc này có thể gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh
nghiệp cũng như sự ổn định trên thị trường hiện tại và tiềm năng.
- Với bản thân người lao động:
6


+ Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát khỏi đói
nghèo, cải thiện mực sống của bản thân và gia đình.
+ Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý, tích lũy trình
độ tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm sau khi về nước.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động XKLĐ.
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách
phát triển của cả nước XKLĐ và nước NKLĐ, đồng thời có tác động trở lại
đối với nền kinh tế- xã hội của các nước này. Trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường, hoạt động XKLĐ chịu tác động của một số yếu tố sau:
- Quan hệ cung - cầu về lao động: Từ thực trạng hoạt động xuất và nhập
khẩu lao động của các nước trên thế giới cho thấy, một nước phải sử dụng lao
động nước ngoài, khi nguồn lao động trong nước không đáp ứng được cho
nhu cầu phát triển kinh tế của nước đó hoặc là do sự thiếu hụt lao động có tay

nghề cần thiết. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng hay suy thoái, khủng hoảng hay
phục hồi của một nền kinh tế cũng có những tác động tới nhu cầu lao động
trong nền kinh tế. Sự phù hợp giữa nhu cầu lao động của nước NKLĐ và khả
năng cung ứng của nước XKLĐ là yếu tố quyết định đảm bảo cho sự ổn định
của hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia.
- Sự cạnh tranh: Hoạt động XKLĐ vừa diễn ra sự hợp tác giữa các nước
vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là yêu cầu bắt buộc. Sự cạnh tranh
trong hoạt động XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp XKLĐ của một nước
XKLĐ, hay của các nước XKLĐ, thậm chí giữa các nhà nước của các quốc
gia XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua số lượng hợp đồng XKLĐ, cơ chế
quản lý lao động ở nước ngoài, mức lương, sự đa dạng về ngành nghề, trình
độ, kỹ năng lao động, … của người lao động. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh
giữa LĐNN với lao động bản địa về việc làm ở nước NKLĐ.
- Chất lượng sức lao động: là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao
động của người lao động như thể lực, trí lực, các mối quan hệ xã hội của
7


người lao động có ảnh hưởng tới năng lực làm việc của người lao động ở
nước NKLĐ. Chất lượng lao động phải đảm bảo được việc tạo ra giá trị tăng
thêm trong thời gian sử dụng sức lao động đó, bảo đảm cho người lao động
duy trì và tái tạo sức lao động, phát huy được các khả năng sáng tạo, đảm bảo
được cường độ lao động, tạo được nhiều giá trị thặng dư cho người chủ sử
dụng. Chính vì vậy, chất lượng lao động là yếu tố căn bản quyết định khả
năng cạnh tranh và lợi thế trong việc chiếm lĩnh thị trường XKLĐ, đảm bảo
cho sự phát triển của hoạt động XKLĐ.
- Các chính sách, pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều
người, nhiều tổ chức, liên quan đến nước XKLĐ và nước NKLĐ, liên quan
đến các tổ chức quốc tế như Tổ chức di cư quốc tế (IOM), Tổ chức lao động
quốc tế (ILO), do đó nó chịu tác động mạnh mẽ của môi trường chính trị,

pháp luật và chính sách của chính phủ cả nước XKLĐ và nước NKLĐ cũng
như luật pháp quốc tế.
Hoạt động XKLĐ chịu tác động trực tiếp từ chủ trương và các chính
sách, biện pháp quản lý, điều tiết của chính phủ nước XKLĐ. Trong khi đó,
bất cứ một sự điều chỉnh trong chính sách tiếp nhận LĐNN, những quy định,
điều kiện nhập cư, thậm chí những thay đổi trong chính sách đầu tư, tái cơ
cấu kinh tế, chính sách đối ngoại... của chính phủ các nước NKLĐ đều có
những tác động có thể làm thay đổi nhu cầu LĐNN ở nước NKLĐ, thậm chí
trở thành rào cản hạn chế số lượng lao động nhập khẩu, do đó làm thay đổi
mức cung ứng lao động của nước XKLĐ.
- Các yếu tố truyền thống văn hóa và con người: Các chính sách tuyển
dụng LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ các
giá trị truyền thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì vậy,
một quốc gia sẽ có chủ trương ưu đãi hơn đối với lao động đến từ các nước có
nền văn hóa tương quan.

8


- Các yếu tố khác : Tổ chức và quản lý hoạt động xuất khẩu lao động.
Đây là yếu tố tích cực và có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và sự phát triển
của xuất khẩu lao động.
Với tính chất phức tạp, nhạy cảm và tính chất quốc tế cao của XKLĐ, sự
quản lý của Nhà nước vào hoạt động này với tư cách hỗ trợ, giám sát và định
hướng cho công tác XKLĐ là cần thiết, ứng với mỗi giai đoạn phát triển kinh
tế của đất nước, phải có một phương thức tổ chức và quản lý hiệu quả kinh tếxã hội. Việc vận dụng, khai thác tốt các nhân tố mới có ảnh hưởng đến XKLĐ
sẽ giúp cho chúng ta có cơ hội thực hiện thành công chiến lược xuất khẩu lao
động Việt Nam trong những năm tới góp phần vào công cuộc xóa đói giảm
nghèo, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng với các
nước trong khu vực và trên thế giới.

1.5. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về XKLĐ.
Nhiều nước trong khu vực như: Philippines, Indonesia, đều là những
nước đã tiến hành chương trình XKLĐ từ lâu và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Để đạt được kết quả đó, các nước này có các chủ trương, kế
hoạch cũng như các chính sách quản lý khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và
hoàn cảnh kinh tế - xã hội ở mỗi nước.
1.5.1. Kinh nghiệm của Philippines.
Philippines là nước trong khu vực thành công nhất về xuất khẩu lao
động. Philippines xem xuất khẩu lao động là ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước, có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế. Họ xem mình như một
“Công ty toàn cầu” về cho thuê, cho mướn lao động. Theo đó luôn nỗ lực xây
dựng một “ Kế hoạch kinh doanh” phù hợp với mục đích chính trị và kinh tế
của mình. Mục tiêu tạo việc làm được xây dựng trong chiến lược kinh tế xã
hội thường niên và chiến lược đào tạo nhân công có trình độ cao.
Hiện nay có hơn 5 triệu lao động Philippines đang sống và làm việc tại
gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bình quân mỗi năm có gần 1 triệu người
Philippines ra nước ngoài làm việc. Trong số đó các lao động ra nước ngoài
9


làm việc có gần 85% là thanh niên bắt đầu tham gia vào lực lượng lao động vì
vậy đã tiết kiệm cho đất nước hàng tỷ USD đầu tư giải quyết việc làm, ngoài
ra số tiền lao động hàng năm gửi về cho đất nước chiếm hơn 12% GDP( năm
2008 là 19 tỷ USD), gấp 5 lần vốn đầu tư từ nước ngoài và bằng 25% nguồn
thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, là lượng ngoại tệ đáng kể để phát triển
kinh tế đất nước.
Philippines khuyến khích xuất khẩu lao động hợp pháp, có thời hạn đồng
thời hạn chế tối đa việc người lao động đi làm việc ở nước ngoài bất hợp
pháp. Chính phủ Philippines đã ban hành Đạo luật về lao động di cư và người
Philippines ở nước ngoài (1995). Phê chuẩn công ước quốc tế về bảo vệ

quyền lợi của người lao động và di cư và đồng thời đã ký kết được 60 văn bản
thỏa thuận và hiệp định lao động với 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Ở Philippines xuất khẩu lao động do nhà nước quản lý thống nhất thông qua
Cục Việc làm ngoài nước thuộc Bộ lao động và Việc làm, việc tuyển dụng và
đưa lao động ra nước ngoài làm việc được cả các cơ quan nhà nước và các tổ
chức tư nhân đảm trách. Người lao động muốn đi xuất khẩu lao động phải
được một trong các tổ chức này tuyển mộ hoặc phải có hợp đồng lao động cá
nhân và được Cục Việc làm ngoài nước công nhận phù hợp với bản thân mình
và lợi ích quốc gia. Philippines chỉ chấp nhận cho lao động của mình đến làm
việc ở các nước có Luật Bảo vệ quyền lợi của người lao động nước ngoài.
Tại Philippines nhà nước bắt buộc và khuyến khích các doanh nghiệp lập
quỹ đào tạo và không được thu lệ phí của người lao động nhằm nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu. Các trung tâm đào tạo lớn thuộc Cục quản lý lao
động và việc làm được thành lập nhằm đào tạo lại, bổ túc ngoại ngữ, kiến
thức pháp luật cho người lao động. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp, các
trung tâm đào tạo liên kết với nước ngoài, nhất là nước tiếp nhận lao động để
đào tạo người lao động. Có thể nói đào tạo giáo dục định hướng là nhân tố cơ
bản làm cho xuất khẩu lao động của Philippines trong nhiều năm qua đã đạt
được kết quả cao nhất so với các nước trong khu vực.
10


Mặc dù đã giao quyền tự chủ và trách nhiệm tuyển mộ lao động cho các
doanh nghiệp lao động nhưng Chính phủ vẫn duy trì vai trò quản lý và kiểm
soát nhằm bảo vệ người lao động khi làm việc tại nước ngoài. Hiện nay
Philippines có hơn 80 văn phòng đại diện tại các nước đứng đầu là ủy viên lao
động ngoài ra người lao động còn được trợ giúp bởi các tổ chức Chính phủ và
Phi chính phủ khác như: Cục phúc lợi lao động di cư, Ban phát triển việc làm
ngoài nước, Văn phòng dịch vụ việc làm, Tổ chức Chữ Thập Đỏ, các hiệp hội
xuất khẩu lao động, Ban bảo trợ xã hội và bảo vệ người lao động ở nước

ngoài với 27 chi nhánh làm việc tại 30 nước, chịu trách nhiệm giải quyết mọi
liên quan đến người lao động. Ngoài ra còn có Bộ ngoại giao, Văn phòng
nhập cư, các tổ chức nghiệp đoàn cùng hỗ trợ người lao động. Lao động xuất
khẩu được quản lý theo hệ thống thông tin dữ liệu tại đại sứ quán Philippines
ở mỗi nước để nắm bắt đầy đủ các thông tin liên quan đến người lao động
nhằm hỗ trợ kịp thời khi cần thiết, được văn phòng hải ngoại bao gồm đầy đủ
các đại diện của tất cả các cơ quan liên quan giúp đỡ người lao động trong các
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, dịch vụ tư vấn miễn phí, thủ tục hành
chính, thủ tục chuyển tiền về nước.
Lao động sau khi hoàn thành hợp đồng về nước cũng được nhà nước
quan tâm một cách thỏa đáng bằng nhiều chính sách khác nhau như: người
lao động được câp giấy chứng nhận “ Batik Manggagawa” để đảm bảo chính
sách ưu đãi thuế và tài chính, chính sách ưu đãi đất đai cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh do người lao động lập, chính sách chỗ ở, chính sách giáo dục và
đào tạo lại cho gia đình và bản thân người lao động.
1.5.2. Kinh nghiệm của Indonesia.
So với các nước trong khu vực, Indonesia là nước có nhiều tiềm năng về
xuất khẩu lao động. Ngày nay, xuất khẩu lao động trở thành một ngành công
nghiệp không dầu và có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội đất nước.
Xuất khẩu lao động được Chính phủ quan tâm từ cuối thập niên 70 khi
mà số lao động làm việc ở nước ngoài lên tới hơn 400 ngàn người, tuy vậy
11


cho đến nay các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này chỉ dừng lại ở
cấp Bộ và Nghị định Chính phủ, cộng với hệ thống tổ chức và quản lý nhà
nước về xuất khẩu lao động yếu kém đang ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
của xuất khẩu lao động mang lại.
Chính phủ quản lý và chỉ đạo chương trình xuất khẩu lao động thông qua

Bộ nhân lực với hệ thống cơ quan đại diện trong và ngoài nước nhằm xúc tiến
thị trường giúp người lao động tìm kiếm việc làm phù hợp, và quản lý người
lao động khi làm việc ở nước ngoài. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao
động Chính phủ ban hành nghị định PER – 02/MEN năm 1994 quy định các
thủ tục về tổ chức, điều kiện, quy trình tuyển mộ, đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài cũng như các vấn đề pháp lý và giải quyết tranh chấp. Ngoài ra
Chính phủ còn xây dựng kế hoạch xuất khẩu lao động nhằm mục tiêu giảm
dần lao động phổ thông, tăng lao động có tay nghề, hạn chế lao động bất hợp
pháp phấn đấu duy trì số lao động làm việc ở nước ngoài thường xuyên
khoảng 5 triệu lao động với số ngoại tệ chuyển về nước hàng năm gần 7 tỷ
USD. Người lao động muốn đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp phải trực tiếp
liên hệ với văn phòng cơ quan lao động Idonesia PJTKL, đây là cơ quan duy
nhất có chức năng xuất khẩu lao động, cơ quan này sau khi liên hệ với nước
nhập cư và có được giấy phép tiếp nhận lao động sẽ ký hợp đồng với người
lao động. Sau đó, người lao động phải đăng ký với văn phòng AKAN thuộc
Bộ Nhân Lực để được huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ và kiểm
tra tay nghề khi kết thúc khóa học. Chính vì thủ tục hành chính phức tạp, lệ
phí cao, thời gian chờ đợi lâu, và điều khiện đòi hỏi cao cộng với chính sách
không đồng bộ, tệ quan liêu của bộ máy xuất khẩu lao động đã đẩy người lao
động đến với những văn phòng tuyển mộ lao động bất hợp pháp có mặt mọi
nơi trên đất nước Indonesia và chấp nhận ra nước ngoài làm việc bất hợp pháp
gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý và bảo vệ quyền lợi của người
lao động khi ở nước ngoài. Thống kê cho thấy cứ 1 người đi xuất khẩu lao
động hợp pháp thì có 1 người đi ra nước ngoài lao động bất hợp pháp và số
tiền họ gửi về cho đất nước tương đương nhau, nhưng rủi ro và khó khăn của
12


lao động bất hợp pháp thì gấp bội. Lao động đi làm việc bất hợp pháp tại
nước ngoài bằng nhiều con đường như: hành hương, du lịch, viếng thăm nhân

thân, vượt biên, giấy tờ giả, ở lại khi hết hạn hợp đồng.
Lao động Indonesia tham gia xuất khẩu lao động có độ tuổi từ 15 đến 40
với trình độ học vấn thấp, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp hạn chế họ chấp
nhận công việc nặng nhọc, nguy hiểm với đồng lương rẻ mạt, thời gian làm
việc dài. Indonesia là nước hồi giáo duy nhất có nữ tham gia xuất khẩu lao
động với số lượng ngày càng tăng đặc biệt ở các nước Trung Đông. Thị
trường xuất khẩu lao động chính là Malaysia, Ả rập Xê út, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông.
Việc bảo vệ quyền lợi lao động khi làm việc ở nước ngoài chưa được
chính phủ quan tâm đúng mức, các văn phòng đại diện ở nước ngoài hoạt
động không hiệu quả, người lao động chỉ còn cách tự bảo vệ lẫn nhau hoặc
nhờ sự giúp đỡ của các hiệp hội lao động, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ
chức tôn giáo mỗi khi có khó khăn.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm.
Một là nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý, quản lý hoạt động xuất
khẩu lao động bằng luật pháp, định hướng cho hoạt động xuất khẩu lao động.
Hai là nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và bảo vệ người lao động tại
nước ngoài.
Ba là cần quan tâm hơn nữa về công tác đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định
hướng, đào tạo nghề cho lao động.
Bốn là nhà nước cần có những chính sách để tạo điều kiện thuận lợi nhất
về tài chính, việc chuyển tiền về nước cho lao động Việt Nam.
Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động XKLĐ của một số nước
trong khu vực:
- Chính phủ các nước đều coi XKLĐ là chiến lược giảm đói nghèo
giải quyết tình trạng thất nghiệp đang diễn ra nên đều có chương trình quốc
gia về XKLĐ. Vấn đề hợp tác lao động thường xuyên được đề cập đến trong
các cuộc trao đổi cấp cao và được thể hiện trong các thỏa thuận song phương
13



với nước ngoài; đồng thời, thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình của các
nước tiếp nhận lao động để chiếm lĩnh thị trường XKLĐ.
- Vấn đề quản lý nhà nước về XKLĐ đều tập trung vào một cơ quan
của chính phủ, đó là Bộ Lao động. Vai trò của Đại sứ quán tại nước ngoài
được đặc biệt quan tâm, thông qua phát huy vai trò của Tùy viên lao động tại
các nước đó để thẩm định các hợp đồng và quản lý lao động.
- Công tác bảo vệ quyền lợi của LĐXK ở nước ngoài được chú trọng;
đồng thời, thành lập các quỹ hỗ trợ cho người lao động khi đi XKLĐ hay gặp
khó khăn khi đang làm việc ở nước ngoài.
- Chính phủ khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần
kinh tế và người lao động tham gia tìm việc làm ở ngoài nước. Các ngành
chức năng có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực
hiện có hiệu quả chương trình việc làm ở ngoài nước.
- Công tác đào tạo nghề cho người lao động trước khi đi được đặc biệt
chú ý với việc hình thành trung tâm đào tạo quốc gia và quản lý nhà nước về
đào tạo LĐXK.
- Công tác thông tin tuyên truyền về XKLĐ được chú trọng, có sự tham
gia của cả cơ quan chức năng và các công ty hoạt động XKLĐ, các thông tin
về cơ hội về việc làm ở nước ngoài được phổ biến công khai, minh bạch.

14


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN
2.1. Phân tích tình hình cung- cầu lao động Việt Nam.
2.1.1. Cơ cấu dân số Việt Nam.
Từ cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất

(1975) đến nay, “ Bức tranh dân số” nước ta đã thay đổi nhanh chóng. Quy
mô dân số đã tăng từ 52,742 triệu người năm 1979 lên 85,155 triệu người năm
2007 và 88.87 triệu người năm 2012; cơ cấu dân số cũng thay đổi mạnh, đặc
biệt là cơ cấu dân số theo nhóm tuổi; tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động
tăng từ 51% lên 70%. Tương ứng tỷ lệ những người ngoài độ tuổi lao động
giảm từ 49% xuống còn 30%.
Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh cả số tuyệt đối và số tương
đối.
Bảng 2.1: Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi phản ánh
khả năng tham gia lao động.
( Đơn vị: % )

15


Tỷ trọng nhóm tuổi trong tổng sô dân
Năm

(%)
0- 14

Tổng số

15- 59

60+

2005

33,48


58,41

8,11

100

2007

25,51

65,04

9,45

100

2009

24,50

69,10

6,40

100

2010

24,70


68,50

6,80

100

2011

24,00

69,00

7,00

100

( Nguồn: Tổng cục thống kê )

Quy mô và cơ cấu dân số theo tuổi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác
định số lượng người "trong độ tuổi lao động". Ở Việt Nam, không chỉ quy mô dân
số tăng lên không ngừng mà cả "Tỷ lệ dân số từ 15 đến 59 tuổi" cũng tăng
nhanh. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động tăng lên với tốc độ thường cao
hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số, số người phụ thuộc giảm đi nhưng vẫn còn
cao và vấn đề việc làm vẫn chưa được giải quyết đáng kể, Số lao động trong độ
tuổi này cần xuất khẩu lao động để kiếm công ăn việc làm.
Việt Nam tiến đến thời kì dân số vàng :
+ Trong giai đoạn (2005- 2010), "Tỷ số phụ thuộc" của lao động Việt
Nam không ngừng giảm xuống.
+ Sau nhiều năm, "tỷ số phụ thuộc trẻ" đã giảm mạnh và trở thành nhân

tố quyết định làm giảm tỷ số phụ thuộc nói chung. Trong khi đó, "tỷ số phụ
thuộc già" tăng lên đôi chút. Điều đó cho thấy tốc độ già hóa dân số nhanh hơn
tốc độ tăng "dân số trong độ tuổi lao động". "Phụ thuộc trẻ" giảm, "phụ thuộc
già" tăng sẽ tạo ra những vận hội và thách thức khác nhau cho cả gia đình và xã
hội.
+ Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng - một cơ hội lần đầu
tiên chúng ta có trong lịch sử nhân khẩu học ("Cơ cấu dân số vàng", tức là số
người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc).
Theo Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, hiện nay, mỗi năm nước ta
có khoảng 1,4 - 1,6 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Sự dồi dào
16


của lực lượng này thực sự đang tạo ra cơ hội vàng cho sự phát triển kinh tế,
với lực lượng lao động tăng như thế để tận dụng thời kì vàng này nước ta cần
đẩy mạnh xuất khẩu lao động để tăng cường giải quyết việc việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động.
2.1.2. Cơ cấu lao động Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta tích cực thực hiện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Do đó sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế sang hướng này cũng là điều tất yếu.
Quá trình tất yếu ấy làm tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ, làm giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Bảng số liệu dưới đây,
cho thấy rõ sự chuyển dịch ấy trong vòng 7 năm trở lại đây theo ba khu vực kinh tế:
“Nông lâm thủy sản” chiếm 48,8% lao động ( giảm 6.3 điểm phần trăm so với năm
2005), khu vực “ Công nghiệp và xây dựng” chiếm 21,3% và khu vực Dịch vụ
chiếm 30,3%.
Bảng 2. 2 : Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế thời kỳ 2005- 2011
( Đơn vị : % )

Năm

2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

Nông, lâm, thủy sản
55,1
54,3
52,9
52,3
51,5
49,5
48,8

Công nghiệp và xây dựng
17,6
18,2
18,9
19,3
20,0
21,0
21,3

Dịch vụ
27,3
27,6
28,1

28,4
28,4
29,5
30,3

(Nguồn: 2005- 2010: Niên giám thống kê; 2011: Điều tra lao động và việc làm năm 2011)

Như vậy nhóm ngành nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất
và nhóm ngành dịch vụ tỷ trọng đã tăng lên và thu hút được nhiều hơn số lao
động tăng thêm. Đây là sự chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Bên cạnh đó xuất khẩu lao động dù gặp nhiều khó khăn nhưng nó vẫn
giải quyết được khá lớn tình trạng việc làm và lao động trong nước. Theo tính
toán sơ bộ, với hơn 400 nghìn lao động đang làm việc ở nước ngoài, hàng
năm gửi về nước khoảng 1,8 tỷ USD, bình quân đạt 4,5 nghìn USD/ người
17


tương đương với trên 90 triệu đồng.
Nhưng hiện tại vẫn còn một số những hạn chế bất cập mà sự chuyển dịch
mang lại. Dễ nhìn thấy là do dân số những năm trước tăng còn cao, nên sô
người bước vào tuổi lao động còn lớn, số người thất nghiệp còn nhiều, số
người thiếu việc làm còn nhiều hơn. Điều đó được thể hiện ở bảng số liệu
dưới đây, cho biết tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thấp nghiệp trong năm 2011
vừa qua.

Bảng 2.3: Tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp của các quý
năm 2011
( Đơn vị: % )


Nơi cư trú

Tỷ lệ thiếu việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp
Quý Quý Quý Quý Quý Quý Quý Quý

Cả nước
Nam
Nữ
Thành Thị
Nông Thôn

1
3.86
3.97
3.73
2.06
4.64

2
2.82
2.86
2.78
1.55
3.37

3
2.55
2.51
2.60

1.37
3.06

4
2.58
2.61
2.55
1.35
3.12

1
2.82
2.34
3.36
4.35
2.14

2
2.22
1.78
2.73
3.59
1.62

3
1.98
1.50
2.54
3.43
1.34


4
1.80
1.42
2.22
2.99
1.26

( Nguồn: Tổng cục thống kê )
Qua bảng số liệu ta thấy rõ tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp đều cao ở
Quý 1 nhưng đến các quý sau tỷ lệ này được giảm đi, cho thấy sự cố gắng
khắc phục tính trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta. Nhưng vẫn còn
cao so với các quốc gia khác trong khu vực bởi hệ quả của sự gia tăng dân số,
nền kinh tế chậm phát triển.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ lao động còn nhiều thiếu
sót. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, cơ câu đào tạo còn bất hợp lý. Việc
đào tạo chưa hợp lý giữa các ngành nghề, giữa lý thuyết và thực hành. Việc
phân bố và sử dụng còn chưa hợp lý. Yếu tố năng suất lao động cũng là một
18


vấn đề cần quan tâm.
2.1.3. Đặc điểm của lao động Việt Nam .
2.1.3.1. Số lượng lao động tăng nhanh.
Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang
phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của
lực lượng lao động. Ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc
tăng từ 2% trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng
dân số. Theo số liệu của tổng điều tra dân số, năm 2012 dân số nước ta là 88,87
triệu người, trong đó khoảng 55,93 triệu người là lực lượng lao động chiếm

63% dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu
lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm.
2.1.3.2. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát
triển là đa số lao động làm nông nghiệp. Ở Việt Nam lao động nông nghiệp
chiếm hơn 70% tổng số lao động. Loại hình công việc này mang tính phổ biến
ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm
dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển
dịch này tùy theo mức độ phát triển của nền kinh tế.
2.1.3.3. Chất lượng của lao động.
Trình độ chuyên môn của người lao động thấp : Ở Việt Nam hiện số người
không biết chữ hiện nay vẫn còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động
xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học
chiếm 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung
học được đào tạo tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học
chuyên nghiệp. Chỉ có 9% trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ
thuật, còn các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công
nhân kỹ thuật giỏi còn ít.
Bảng 2.4: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo quý 2 năm 2011.
( Đơn vị tính: %)

Nơi cư trú

Tổng số

Không
19

Dạy


Trung

Cao

Đại




nghề

cấp

đẳng

học

3.7

3.7

1.7

6.1

Cả nước

100

CMKT

84.8

Nam

100

83.1

5.6

3.4

1.2

6.7

Nữ

100

86.6

1.7

4.0

2.3

5.4


Thành thị

100

68.9

6.5

6.0

2.9

15.8

Nông thôn

100

91.0

2.7

2.8

1.3

2.3

( Nguồn: Tổng Cục Thống Kê )


Qua bảng 2.4 ta nhận thấy rõ tỷ trọng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn
còn thấp. Trong tổng số 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động của cả nước, chỉ có hơn 8 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 15,6% tổng lực
lượng lao động. Như vậy, nguồn nhân lực của nước ta còn trẻ và dồi dào nhưng
trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Hiện cả nước có hơn 43,4
triệu lao động chưa qua đào tạo nghề để đạt được một trình độ chuyên môn kỹ
thuật nào đó. Con số này đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho những cố gằng nhằm nân g
cao chất lượng nguồn lực lao động phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ đạt 3,79
điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp
hạng, theo đánh giá mới của Ngân Hàng thế giới. Một nghiên cứu khác cho
thấy lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế
có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên
thị trường toàn cầu. Một khẳng định nữa cho thấy nguồn lao động của nước ta
có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125 nước và vùng lãnh thổ, sau cả
Indonesia, Philippine và Thái Lan. Ngay tại Thủ đô, có chưa tới 15% lực
lượng lao động biết tiếng Anh và sử dụng thành thạo máy vi tính. Theo bảng
số liệu do PGS.TS Đặng Quốc Bảo cung cấp thì tỉ lệ lao động không có
chuyên môn ở Hà Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%, Đà Nẵng 54,4%,
TP.HCM 55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.Hiện nay, nhiều doanh nghiệp
20


không "dám" sử dụng lao động Việt Nam cho những vị trí cần kiến thức và
tay nghề cao nên sẽ có lúc chúng ta phải nhập khẩu lao động chất lượng cao từ
nước ngoài vào.
Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành
công việc của lao động Việt Nam còn kém. Nhiều nhà quản lý nước ngoài đã
nhận xét rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải quyết công

việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều". Chính
điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù
họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao.
Tuy vậy, lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh,
sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển
giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Các ngành thu hút được
nhiều người tìm việc là: Công nghệ viễn thông, hành chính, thư ký, quảng
cáo, khuyến mãi, đối ngoại... và bán hàng. Theo thống kê gần đây, nhu cầu
nhân lực tại Việt Nam tăng 15%, những ngành tuyển mới nhiều nhất là công
nghệ thông tin, bán hàng, tiếp thị kĩ thuật và hành chính.
Lao động Việt Nam xuất khẩu vốn xuất thân từ nông thôn chủ yếu không có
nghề, không ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật không
cao, thường gọi là "3 không" rất khó được được tuyển dụng và thu nhập thấp.
Trong khi đó tại các thị trường lao động ngoài nước, nhu cầu lao động có tay
nghề lớn. Đài loan, Malaysia rất cần lao động có nghề trong các nhà máy,
công xưởng và khu công nghiệp cao. Nhật Bản, Hàn Quốc cần những chuyên
gia, lao động kỹ thuật. Những thị trường như Mỹ, Canada, Australia,
Singapore là thị trường cao nhất kể cả về thu nhập và điều kiện nhập cảnh.
Trình độ kiến thức, kỹ năng nghề không phải chỉ căn cứ vào bằng cấp, chứng
chỉ cơ sở đào tạo trong nước mà phải được xác định thông qua tuyển lựa, kiểm
tra, đánh giá của phía đối tác nước ngoài, quan trọng hơn, nó phải được thể
hiện trong năng lực làm việc thực sự của người lao động có đáp ứng được đòi
hỏi của công nghệ sản xuất, độ phức tạp của công việc mà họ phải đảm nhiệm
ở nước ngoài. Đã có nhiều lao động Việt Nam được coi là có nghề xây, trát và
21


họ cũng đã làm việc đó trên công trường. Nhưng khi người nước ngoài tuyển
chọn thì không đạt yêu cầu vì họ chưa thực hiện được những thao tác rất cơ
bản của nghề, họ không được đào tạo cơ bản. Muốn có một tấm visa vào

những thị trường đòi hỏi chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, người lao
động phải có kỹ năng nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và trình độ ngoại
ngữ.
Vậy nên chúng ta khó có thể vươn tới các thị trường cao cấp đầy tiềm năng,
có thu nhập cao như Nhật Bản gần như là điểm đến lý tưởng thu hút lao động
Việt Nam.
2.1.3.4. Còn một bộ phận lao động chưa sử dụng.
Việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét
qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp. Do sức ép về dân số và những
khó khăn về kinh tế. Ở các nước đang phát triển đã tác động lớn tới vấn đề công ăn
việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất
nghiệp thật sự rất đáng lo ngại.
Bảng 2.5 : Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ
tuổi lao động ở khu vực thành thị phân theo vùng .
( Đơn vị : % )

Khu vực

2007

2008

2009

2010

Cả nước

4,64


46,5

4,6

4,29

5,74

5,35

4,59

3,73

3,85

4,17

3.09

3,42

4,95

4,77

5,54

5,01


3,05

3,37

Đồng bằng sông
Hồng
Trung du và miền
núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung

2,51

Tây Nguyên

2,11

Đông Nam Bộ

4,83

4,89

4,54

4,72

Đồng bằng sông

4,03


4,12

4,54

4.08

22


cửu long
( Nguồn: Tổng Cục Thống Kê )

Từ bảng trên ta có thể thấy được tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta tuy ngày càng
giảm nhưng vẫn còn khá cao. Vấn đề tạo công ăn việc làm cho người dân thất
nghiệp trong nước cao như vậy luôn đặt ra khó khăn cho chính phủ. Vì vậy Nhà
nước ta khuyến khích xuất khẩu lao động để tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
cho người dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và miền núi.
2.1.4. Tình hình XKLĐ Việt Nam trong những năm qua.
Theo số liệu thống kê Cục quản lý lao động ngoài nước của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội cho biết:
Năm 2005 có khoảng 70.000 lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc
các thị trường như Libi, Ả rập Xê Út, Pháp, Canađa, Anh và Hy Lạp nhiều địa
chỉ xuất khẩu lao động tiềm năng như Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia và Hàn
Quốc. Năm 2006, cả nước đưa được hơn 78 nghìn lao động đi làm việc ở
nước ngoài, vượt chỉ tiêu đề ra, trong đó lớn nhất là Malaysia với 37.950 lao
động, tiếp theo là Đài Bắc Trung Quốc với 14.120 lao động, 9 tháng đầu năm
2007 Việt Nam đưa 62.760 lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, đạt 78,5% kế hoạch cả năm. Trong đó, đông nhất là lao động đi
Malaysia với 21.313 người; thứ 2 là thị trường Đài Loan - 16.554; Tiếp đó là

các thị trường: Hàn Quốc - 8.536; Qatar - 4.350; Nhật Bản - 3.047; Makau 1.631; các thị trường khác - 7.032 người. Năm 2015 dự kiến sẽ số lao động
xuất khẩu tăng lên 100.000 người.
Hiện tại, đã có hơn 400.000 người lao động Việt Nam đang làm việc tại
hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với hơn 30 nhóm ngành nghề.
Nhìn chung, công tác xuất khẩu lao động vẫn đạt được nhiều kết quả khả
quan, cùng với việc duy trì các thị trường truyền thống, chúng ta đang tiếp tục
xúc tiến mở thêm thị trường ở một số nước như khu vực Trung Đông…

23


Xuất khẩu lao động là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng
cho đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2004 đã gửi về cho
gia đình khoảng 1,5 tỉ USD, bình quân mỗi lao động khoảng 3.750 USD mỗi
năm hay 302,5 USD mỗi tháng, chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và
tương đương với nguồn vốn ODA giải ngân trong năm. Năm 2005 lao động
xuất khẩu đã gửi về nước khoảng 1,65 tỉ USD.
Tại các thị trường đã có, phần lớn lao động Việt Nam được đánh giá khá
tốt về khả năng làm việc, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Nhìn chung, thu nhập
của người lao động ổn định. Đặc biệt, lao động làm việc trong các nhà máy
sản xuất công nghiệp, công trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài
có điều kiện làm việc, ăn ở và thu nhập khá tốt. Tuy nhiên còn một số lao
động bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn, cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài. Do đó,
người lao động cần được giáo dục hơn nữa về ý thức tổ chức kỷ luật.
Hiện nay, tình hình xuất khẩu lao động thu hút nhiều lao động, thị trường
lao động ngoài nước quan tâm, tuy nhiên chất lượng đào tạo lao động xuất
khẩu chưa cao, phần lớn chúng ta giáo dục định hướng cho lao động phổ
thông tập trung các thị trường Châu Á với yêu cầu giản đơn, mức lương thấp,
chưa hấp dẫn người lao động. Đối với thị trường lao động ở một số quốc gia
phát triển, như Mỹ, Canada, Australia, Châu âu, có nhu cầu rất lớn, yêu cầu

tương đối cao, nhất là trình độ ngoại ngữ, mức lương cao, thì chúng ta chưa
có chương trình đào tạo phù hợp để người xuất khẩu lao động có đủ trình độ
chuyên môn, trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc.
Theo kế hoạch dạy nghề, việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 20102015, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đặt ra mục tiêu trong giai đoạn
này sẽ đưa khoảng 32 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động
có nghề trong số lao động xuất khẩu lên 70% vào năm 2015: tăng cường
nguồn lao động có chất lượng; có ngoại ngữ; Đào tạo kỹ năng, kỷ luật lao
động và tác phong làm việc cho người lao động; tập trung vào những thị

24


trường có kỹ thuật, chuyên môn. Như vậy chúng ta mới đưa được lao động đi
làm việc ở những thị trường mới, có thu nhập cao hơn.
2.2. Thị trường lao động Nhật Bản.
2.2.1. Giới thiệu chung đất nước Nhật Bản.
Nhật Bản có hơn 3900 hòn đảo nhỏ và bốn đảo lớn là đảo Honshyu
chiếm khoảng 60% toàn thể diện tích, đảo Hokkaido, đảo Kyushyu và đảo
Shikoku. Địa hình nước Nhật chủ yếu là đồi núi ( chiếm 71%). Có nhiều
nguồn gốc núi lửa, và một số ngọn vẫn còn hoạt động, tiêu biểu là núi Phú Sỹ
(3,776m).
Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi
đẹp nhất trên thế giới, được đánh giá là 1 trong 10 đất nước tuyệt vời nhất
năm (2010) và cũng là đại diện Châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này
với bốn mùa thay đổi rõ rệt. Nhật Bản với số dân khoảng 127 triệu người, xếp
hàng thứ 10 trên thế giới. Mật độ dân số của Nhật lên tới 327 người/km2.
Khoảng 49% dân Nhật tập trung quanh ba đô thị lớn là Tokyo, Osaka, Nagoya
cùng với các thành phố phụ cận. Tokyo vẫn là nơi đông dân nhất với khoảng
1/3 tổng dân số. Tuổi thọ trung bình của người Nhật khá cao so với trên thế
giới, nữ 81 tuổi và nam: 75 tuổi.

Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 3 trên thế giới, với tỷ lệ
GDP bình quân đầu người $47.244 ( 2010), chỉ số HDI 0.96 (2007).
Xã hội Nhật Bản có nét đặc biệt về giao thiệp. Người Nhật thường cúi
chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc vào địa vị xã hội của
cả hai người. Người Nhật nổi tiếng là có kỷ luật, cho dù sự kỷ luật đó bắt
nguồn từ doàn cảnh sinh sống khó khăn, từ việc nghĩ tới lợi ích chung hay từ
văn hóa..v.v..đã trở thành ý thức tự giác. Khi làm việc với người Nhật, ai cũng
thấy là người Nhật rất trọng nguyên tắc, họ trọng kỷ luật, khi tham gia một tổ
chức nào là họ tuân thủ mọi điều lệ một cách chặt chẽ.
2.2.2. Chính sách đối với lao động nước ngoài của Nhật Bản.

25


×