Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.38 KB, 13 trang )

1


A. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh sự phát triển của khoa học kĩ thuật thế giới hiện nay, việc các
quốc gia phát triển khoa học kĩ thuật của mình vào cấc lĩnh vực nhằm phục vụ cho
mục đích an ninh quốc gia là điều tất yếu. Tuy nhiên, nếu quốc gia lại dùng những
nghiên cứu của mình để phát động chiến tranh xâm lược quốc gia khác hay bằng
các biện pháp phi quân sự khác nhằm mục đích sử dụng sức mạnh của mình nhằm
đạt được một số lợi ích nhất định thì đây lại là những hành động vi phạm nghiêm
trọng các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại. Cụ thể đó là nguyên tắc cấm sử
dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế .
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở, nội dung và tầm quan trọng của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
1. Cơ sở của nguyên tắc.
a) Cơ sở thực tiễn:
Trước Chiến tranh thế giới thứ I, việc các quốc gia sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế không hề bị giới hạn bởi một quy phạm pháp luật quốc tế nào. Nó
tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của từng quốc gia và quan hệ quốc tế cụ thể. Sau
Chiến tranh thế giới thứ I, Hiệp ước Paris ngày 27/8/1928 về việc không dùng
chiến tranh như một công cụ quốc sách, tuy còn có nhiều điểm hạn chế, nhưng
trong hiệp ước đã có qui định một cách dứt khoát và cụ thể nguyên tắc cấm xâm
lược. Tại điều 1 của nguyên tắc qui định: “ Các bên tham gia hiệp ước trịnh trọng
tuyên bố lên án việc dùng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp quốc tế và tuyên
bố không dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách trong quan hệ với nhau”.
Nguyên tắc cấm chiến tranh xâm lược được khẳng định lại và phát triển thêm trong
quy chế của Tào án quốc tế Niu-răm-be và Tokyo xét xử bọn tội phạm Đức – Nhật
đã gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần II chống loài người. Theo hai bản quy chế
2



này, Luật quốc tế cấm chiến tranh xâm lược cũng như cấm chuẩn bị cho cuộc chiến
tranh đó. Với những hậu quả khủng khiếp mà hai cuộc chiến tranh thế giới trong
thế kỉ XX và sự đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới đã thức tỉnh nhân loại
về hiểm họa của vấn đề sử dụng vũ lực tiến hành chiến tranh do đó lựa chọn biện
pháp hòa bình trong quá trình giải quyết các tranh chấp và bất đồng quốc tế.
Điều này là một bước tiến cụ thể nhằm thực hiện nguyện vọng của nhân loại
được sống trong an ninh, hòa bình và “phòng ngừa cho thế giới tương lai khỏi
thảm họa chiến tranh”. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực đã được
hình thành qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới
thứ II và được các quốc gia tham gia thành lập tổ chức Liên hợp quốc khẳng định
mạnh mẽ trong Hiến chương của tổ chức này. Trong chương I, điều 2, khoản 4 của
Hiến chương ghi rõ: “Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên hợp quốc không
được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực để chống lại quyền bất khả
xâm phạm về lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất cứ một quốc gia nào,...”.
Việc tuyên bố rõ nguyên tắc này trong Hiến chương Liên hợp quốc, một điều
ước quốc tế cơ bản có giá trị làm nền tảng cho luật pháp quốc tế hiện đại (ngày
11/12/1946 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết khẳng định
những nguyên tắc qui định trong qui chế và bản án của Tòa án quốc tế của Niurăm-be là những nguyên tắc của Luật quốc tế hiện đại), đã chứng tỏ mong muốn
của cộng đồng quốc tế: việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực cần phải bị
nghiêm cấm và loại bỏ trong quan hệ quốc tế.
Nhưng Hiến chương Liên hợp quốc không dừng lại ở mức độ cấm chiến
tranh xâm lược như trong giai đoạn từ 1917 đến 1945. nó phát triển thành nguyên
tắc cấm dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Hiến chương đã đạt được những bước
tiến quan trọng hơn Hiệp ước Paris năm 1928 ở chỗ nếu như Hiệp ước Paris 1928
chỉ cấm dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách thì tại Hiến chương qui định
3


rõ ràng và dứt khoát: cấm các quốc gia dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực vào

những mục đích trái với mục đích hòa bình và hợp tác hữu nghị của Liên hợp
quốc. Như vậy nếu so sánh với nguyên tắc cấm chiến tranh xâm lược, nguyên tắc
cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực có nội dung rộng hơn nhiều bao gồm
ngoài việc cấm xâm lược vũ trang còn cấm cả các hình thức xâm lược khác như
xâm lược về kinh tế, tư tưởng và những sự xâm lược gián tiếp... đồng thời với cả
những hành động đe dọa sử dụng vũ lực. Việc mở rộng nội dung của nguyên tắc
cấm chiến tranh xâm lược là thắng lợi của các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa
bình trên thế giới. Nó hoàn toàn phù hợp với tình hình thế giới sau thế chiến thứ II.
b) Cơ sở pháp lí:
Như trên đã phân tích, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế được qui định cụ thể trong Hiến chương Liên hợp quốc tại
chương I, Điều 2, khoản 4. Trong khuôn khổ những nỗ lực của Liên hợp quốc,
nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực đã từng bước được cụ thể
hóa qua các văn kiện quốc tế quan trọng, đáng chú ý là Tuyên bố về những nguyên
tắc của Luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia
phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đai hội đồng Liên hợp quốc thông
qua theo Nghị quyết số 2625, ngày 14/1/1970. Tuyên bố đã đặt lên hàng đầu
nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. Phát triển nguyên tắc đã được
Hiến chương xác lập trước đó, Tuyên bố chỉ rõ: “Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ
việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vện
lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kì quốc gia nòa... Việc đe dọa dùng vũ
lực như trên sẽ cấu thành sự vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp
quốc và không bao giờ được sử dụng như là một biện pháp để giải quyết các vấn
đề quốc tế”.

4


Tuyên bố này là một văn kiện có giá trị pháp lí quốc tế vì nó là bằng chứng
thể hiện sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong việc nhận thức, cụ thể hóa và

cam kết thực hiện các nguyên tắc cơ bản được nêu lên trong Hiến chương lIên hợp
quốc, trong đó bao gồm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Sau đó Liên hợp quốc đã tiếp tục thông qua một số văn kiện khác liên quan đế
nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe sọa sử dụng vũ lực. Đáng chú ý là Nghị
quyết về định nghĩa tội xâm lược (1974), Tuyên bố về nâng cao hiệu quả của
nguyên tắc bỏ sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế (1987).
Ngoài ra nguyên tắc này còn được công nhận và phát triển trong một số văn
bản quốc tế khác như: Định ước của Hội nghị Henxinki năm 1975 về An ninh và
hợp tác của các nước châu Âu, Tuyên bố năm 1987 về việc Nâng cao hiệu quả của
nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng sức mạnh trong quan
hệ quốc tế và một số văn kiện của phong trào không liên kết, tổ chức ASEAN...
Như vậy, việc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực đã được pháp điển hóa
trong luật quốc tế hiện đại, mà cụ thể nhất là đã được xác lập trong Hiến chương
Liên hợp quốc. Nguyên tắc này không ngừng được cụ thể hóa và củng cố trong quá
trình phát triển của luật quốc tế hiện đại từ sau Chiến tranh thế giới thứ II cho đến
nay. Có thể nói rằng “nguyên tắc của luật pháp quốc tế về cấm sử dụng vũ lực và
đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế là một bước đột phá lớn trong thế kỉ
XX”. Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế là một
nguyên tắc đặc biệt cơ bản của luật pháp quốc tế hiện đại và có vai trò quan trọng
đối với việc duy trì hòa bình và an ning quốc tế; đồng thời, chi phối các nguyên tắc
khác của luật pháp quốc tế như nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia, nguyên tắc quyền tự quyết dân tộc, nguyên tắc không can thiệp vào công việc
nội bộ của quốc gia khác, nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế...

5


2. Nội dung của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế.
Nội dung của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong

quan hệ quốc tế được ghi nhận cụ thể trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng LHQ:
“Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực để vi
phạm biên giới quốc gia của các nước khác hoặc dùng nó làm phương tiện để giải
quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề có liên
quan đến biên giới các nước”.
Nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoăc đe dọa dùng vũ lực được khái quát hóa
trong Tuyên bố 1970 ở những nội dung sau:
• Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia hoặc sử dụng lực lượng vũ trang vượt
qua biên giới tiến vào lãnh thổ quốc gia khác;
• Cấm cho quân vượt qua biên giới quốc tế, trong đó có giới tuyến hòa giải;
• Cấm các hành vi đe dọa trấn áp bằng vũ lực;
• Không cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành
xâm lược chống nước thứ ba;
• Không tổ chức, khuyến khích, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến
hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác;
• Không tổ chức, giúp đỡ các băng đảng vũ trang, nhóm vũ trang, lính đánh
thuê đột nhập phá hoại lãnh thổ quốc gia khác;
• Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược.
Như vậy nguyên tắc này không chỉ bao gồm việc cấm sử dụng lực lượng vũ
trang hoặc khuyến khích sử dụng vũ trang mà còn cấm cả những biện pháp khác
nhằm chống lại chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thuật ngữ
“vũ lực” theo Hiến chương LHQ không chỉ đơn thuần là sức mạnh vũ trang.
6


Khái niệm “vũ lực” được sử dụng trong Hiến chương được hiểu là sức mạnh vũ
trang hay bao gồm cả các loại sức mạnh phi vũ trang khác như sức mạnh về kinh
tế, chính trị, sử dụng lực lượng vũ trang không nhằm tấn công xâm lược quốc gia
khác nhưng để gây sức ép, đe dọa đến quốc gia đó. Ví dụ: tập trung quân ở biên
giới với số lượng lớn, chuẩn bị một cuộc tấn công tập trận ở biên giới nhằm biểu

dương lực lượng đe dọa quốc gia láng giềng, gửi tối hậu thư đe dọa quốc gia
khác... Những hoạt động này cũng bị coi là vi phạm nguyên tắc “cấm dùng vũ lực
hoặc đe dọa bằng vũ lực”.
3. Các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Hiện nay, Hiến chương Liên hợp quốc chỉ qui định hai trường hợp sử dụng
hợp pháp lực lượng vũ trang vào mục đích tự vệ (Điều 51) và theo quyết định của
Hội đồng bảo an (HĐBA) Liên hợp quốc khi có sự đe dọa hòa bình, xâm phạm hòa
bình hoặc bị xâm lược (các điều từ 39 đến 42).
a) Quyền tự vệ chính đáng:
Điều 51 Hiến chương qui định: “Không một điều khoản nào trong Hiến
chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong
trường hợp thành viên của Liên hợp quốc bị xâm lược, cho đến khi HĐBA tiến
hành các biện pháp nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Các biện pháp mà
các quốc gia đã tiến hành phải được thông báo ngay lập tức cho HĐBA và các biện
pháp này không hề ảnh hưởng đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐBA, theo qui
định của Hiến chương này, hành động nhanh chóng theo cách thức mà cơ quan này
cho là cần thiết để duy trì và lập lại hòa bình và an ninh thế giới”. Như vậy, Hiến
chương thừa nhận quyền tự vệ chính đáng của các quốc gia hay nói cách khác là có
quyền dùng vũ lực quân sự để đánh trả sự tấn công vũ trang của các nước khác,
nhưng không đưa ra được định nghĩa về khái niệm “xâm lược”. Phải đến ngày
7


14/12/1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nhất trí thông qua Nghị quyết 3314 về
định nghĩa xâm lược. Theo đó, xâm lược là việc một nước sử dụng lực lượng vũ
trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính
trị của một nước khác hoặc dưới bất kì hình thức nào khác. Nghị quyết trao quyền
cho HDBA kết luận có hay không hành vi xâm lược trong các tình huống cụ thể.
Tuy nhiên quyền tự vệ này của quốc gia được qui định hết sực nghiêm ngặt

là đã có sự tấn công vũ trang của nước khác và chỉ khi nào đã bị tấn công vũ trang
thì các quốc gia mới có quyền dùng vũ lực đánh trả. Điều này nghĩa là Hiến
chương cấm một quốc gia sửdụng lực lượng vũ trang chống lại quốc gia khác khi
quốc gia này chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc chính trị (hành vi tự vệ phải
tương ứng với mức độ tấn công).
Theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, quyền tự vệ chính đáng của
quốc gia chỉ được tự do trong một thời gian tạm thời. Một khi HĐBA đã quyết
định hành động thì vụ việc đó sẽ được đặt dưới quyền quyết định của cơ quan này.
Các quốc gia có quyền tự vệ cá thể, tức là dùng sức mình để tự bảo vệ, đồng thời
cũng có quyền tự vệ tập thể, tức là liên minh với các quốc gia khác trên cơ sở các
cam kết quốc tế bình đẳng.
Các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc cũng có quyền dùng bạo lực cách mạng
để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho mình. Đó là quyền tự vệ chính đáng
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, phù hợp với nguyên tắc dân tộc tự quyết.
Việc các dân tộcbị áp bức dùng lực lượng vũ trang để giành lại tự do hạnh phúc là
hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế hiện nay và không trái với nguyên tắc cấm sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
b) Sử dụng vũ lực theo quyết định của HĐBA:
Việc sử dụng vũ lực theo ủy quyền của HĐBA được qui định cụ thể tại Điều
39 và các Điều từ 42 đến 47.Theo qui định tại Điều 39 của Hiến chương, trong
8


trường hợp xác định thấy có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hay có hành vi
xâm lược, HĐBA có quyền đưa ra các khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp
cần thiết bao gồm cả biện pháp sử dụng vũ lực để đảm bảo duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế.
Tại Điều 42 Hiến chương qui định, tùy từng trường hợp nếu biện pháp phi
quân sự được khuyến nghị không đủ để giải quyết tranh chấp thì HĐBA có thể tiến
hành các biện pháp cần thiết, như sử dụng lực lượng không quân, hải quân hoặc lục

quân để duy trì hoặc lập lại hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp này bao
gồm cả biểu dương lực lượng, bao vây phong tỏa và tiến hanh chiến dịch bằng
không quân, hải quân hoặc lục quân.
II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
1. Một số trường hợp sử dụng vũ lực bất hợp pháp.
Chiến tranh Nga - Georgia:
Cuộc chiến tranh Nga - Georgia diễn ra vào đêm ngày 7 rạng ngày 8/8/2008
trong thời điểm hầu hết các nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới đang có mặt tại Trung
Quốc để dự lễ khai mạc thế vận hội mùa hè ở Bắc Kinh. Sự kiện nóng này đã ập
đến tai các nhà lãnh đạo Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc... và làm cho âm
hưởng sống động của lễ hội bị chùn xuống trên khuôn mặt của một số người liên
quan.
Cuộc chiến kết chỉ sau 5 ngày sau đó, với thắng lợi thuộc về Nga và Nam
Ossetia, nhưng nó cũng là nhân tố làm cho quan hệ Moscow - Washington, Nga NATO trở nên băng giá. Sau cuộc chiến, Moscow và Tbilissi thường đổ trách
nhiệm lẫn nhau. Tổng thống Georgia Saakashvili nói rằng đã chống trả lại một âm
muu của quân đội Nga xâm chiếm lãnh thô Georgia. Ngược lại Moscow cũng cho
rằng đã tiến hành can thiệp để bảo vệ dân cư dân hai khu vực nổi dậy mang hộ
9


chiếu Nga. Nhiều câu hỏi được đặt ra là vì sao xảy ra cuộc chiến tranh Nga Ossetia
Xung đột ở Afghanistan:
Sau khi chính quyền do quân đội Liên Xô hậu thuẫn sụp đổ, Afghanistan đã
trải qua một thời kì tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong suốt thập niên
90. Một trong các phe phái này lừ lực lượng Taliban đã thắng thế, chiếm giữ thủ đô
Kabul và phần lớn lãnh thố từ năm 1998, đồng thời thiết lập một chính quyền vô
cùng hà khắc đối với nhân dân đến mức rất nhiều tổ chức phi chính phủ tham gia
giúp đỡ trực tiếp dân chúng ở vùng này đã phải lên tiếng vì sự vi phạm nhân quyền
của chính quyền.

Chính quyền Taliban không phản ứng những đòi hỏi của Liên hợp quốc
được nêu ra tại Nghị quyết 1267 yêu cầu trao nộp Oussama Bin Laden cho các cơ
quan có thẩm quyền và trong năm 2000, các băng nhóm có liên quan đến Oussama
lại tiến hành thêm nhiều cuộc tấn công mới. Diễn biến tình hình được Liên hợp
quốc theo dõi chặt chẽ.
Sau vụ tấn công hôm 11/9, ngày hôm sau 12/9, dưới sự chủ trì của Pháp,
HĐBA đã họp và thông qua Nghị quyết 1368 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng “thừa
nhận quyền tự vệ chính đáng của cá nhân hay tập thể, phù hợp với Hiến chưong...,
cực lực lên án các cuộc tấn công khủng bố kinh hoàng diễn ra hôm 11/9... và coi
những hành động này như các hoạt động khủng bố quốc tế khác, là mối đe dọa đối
với hòa bình và an ninh thế giới”.
Nghị quyết 1368 không coi các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào Mỹ là
hành động xâm lược vũ trang nhưng lại ngầm khẳng định rằng Mỹ có quyền trả
đũa dựa trên cơ sở Điều 51 Hiến chương. Như vậy Nghị quyết 1368 đã mở đường
cho Mỹ hành động và chỉ đưa ra một khung pháp lí rất chung chung. Mỹ nhanh
chóng triển khai quân tại Afghanistan, với các chiến dịch không kích cũng như trên
10


bộ với cường độ đặc biệt cao tại một số khu vực, lực lượng Tailiban nhanh chóng
bị mất quyền kiểm soát ở các vùng dân cư rộng lớn nhưng không bị đập tan hoàn
toàn. Sau đó, HĐABA với tư cách là trung tâm hỗ trợ nhân dân Afghanistan nhanh
chóng lập ra một chính quyền lâm thời mới có nhiệm vụ thành lập chính phủ mới
cho Afghanistan.
Triều Tiên đe dọa sử dụng vũ lực:
Hôm 13/6, CHDCND Triều Tiên dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu Mỹ cố tình cô
lập họ sau khi HĐBA áp đặt lệnh trừng phạt mở rộng với quốc gia này từ sau vụ
thử hạt nhân lần thứ hai từ tháng 5. Theo lời phát ngôn viên ngoai giao của nước
này, CHDCND Triều Tiên tuyên bố sẽ bắt đầu chương trình làm giàu Uranium và
vũ khí hóa plutonium tại nhà mày vũ khí hạt nhân của họ. Nghị quyết của HĐBA

cho phép các quốc gia thành viên có quyền kiểm tra hàng hóavận chuyển bằng
đường thủy, đường bộ và hàng không của Triều Tiên, yêu cầu họ tịch thu và phá
hủy bất cứ hàng hóa nào vận chuyến vi phạm nghị quyết của HĐBA.
CHDCND Triều Tiên đã khiến cho tình hình căng thăng leo thang trong vài
tháng qua khi họ tiến hành một loạt các vụ thử tên lửa, tái khởi động nhà máy sản
xuất plutonium cấp độ vũ khí và thực hiện vụ thử hạt nhân lần hai. Hai nhà ngoại
giao cấp cao tham gia đàm phán về nghị quyết trừng phạt của Liên hợp quốc phát
biểu rằng, Trung Quốc không bao giờ nói rõ thực sự họ có ý định thực hiện nghị
quyết trùng phạt mới hay không. Đại sứ trung Quốc, Zhang Yesui phát biểu nghị
quyết này cho thấy sự phản đối gay gắt của cộng đồng quốc tế đối với tham vọng
hạt nhân của Triều Tiên, đồng thời ông cũng thúc giục các nước thận trọng khi
kiểm tra hàng hóa của Triều Tiên và ông còn nhấn mạnh “dù trong hoàn cảnh nào
cũng không nên đe dọa sử dụng vũ lực”.
2. Vai trò của Liên hợp quốc đối với việc thực hiện nguyên tắc cấm sử dụng vũ
lực và đe dọa sử dụng vũ lức trong quan hệ quốc tế.
11


Sự ra đời của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trong trong việc duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế từ sau chiến tranh thế giới II cho đến nay, đồng thời chi phối các
nguyên tắc khác của luật pháp quốc tế như nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia nguyên tắc quyền tự quyết dân tộc, nguyên tắc giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế … Nguyên tắc thể hiện sự đồng thuận của các quốc gia
thành viên trong việc lựa chọn biện pháp hòa bình khi giải quyết tranh chấp giữa
các bên, là bước tiến mới trong thực hiện nguyện vọng của nhân loại trong việc
“phòng ngừa cho thế hệ tương lại khỏi thảm họa chiến tranh”.
Khi có tranh chấp quốc tế xảy ra, nguyên tắc này mang tính chất “phối hợp
giúp đỡ” các quốc gia trong việc gìn giữ hòa bình, thường được áp dụng ở giai
đoạn đầu khi mà tranh chấp mới phát sinh, được coi là giai đoạn tranh chấp nảy

lửa. Bên cạnh đó, luật quốc tế hiện đại thừa nhận các quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ,
giàu hay nghèo đều có chủ quyền tuyệt đối đối với tài nguyên thiên nhiên của họ.
Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia, nguyên tắc
cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực giúp bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ và nền
độc lập chính trị của các quốc gia khi có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, vai trò trong lĩnh vực hoạt động gìn giữ hoà bình vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế mà hiện nay cộng đồng quốc tế vẫn đang tìm cách khắc phục. Tại
khoản 4 điều 2 của Hiến chương này quy định rằng: "Trong quan hệ quốc tế, các
hội viên Liên hợp quốc không được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ
lực để chống lại quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị của
bất cứ một nước nào, hoặc bằng cách này hay cách khác làm trái với những mục
đích của Liên hợp quốc". Với quy định trên đây, Hiến chương Liên hợp quốc mới
chỉ dừng lại ở việc đưa ra tên gọi của nguyên tắc này, còn việc giải thích định
nghĩa như thế nào là "vũ lực" và "đe dọa dùng vũ lực" trong quan hệ quốc tế lại
12


phụ thuộc đặt ra"vào cách hiểu của các quốc gia . Điều này tạo ra sự giải thích
khác nhau yêu cầu phải xây dựng hệ thống các nguyên tắc và có sự giải thích thống
nhất nguyên tắc trong cộng đồng quốc tế.
C. KẾT LUẬN
Sự ra đời của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế từ sau chiến tranh thế giới II cho đến nay. Việc cụ thể hóa nguyên tắc
này trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong một số văn bản pháp lí quốc tế
khác đã tạo ra khuôn khổ pháp lí để từ đó trừng trị các hành vi xâm hại đến các qui
định của luật quốc tế. Điều cốt lõi nhất trong giải quyết xung đột giữa các quốc gia
là việc sử dụng vũ lực chỉ có thể được coi là biện pháp cuối cùng, khi tất cả các
biện pháp khác đều tỏ ra không có hiệu quả và phải tuân thủ những qui định
nghiêm ngặt của luật quốc tế về điều kiện và mức độ đáp trả quân sự. Khi các quốc

gia tôn trọng triệt để các nguyên tắc của luật quốc tế trong đó có nguyên tắc này thì
khi đó thế giới sẽ tránh khỏi thảm họa chiến tranh thế giới III với mức độ khốc liệt
và nguy hiểm hơn nhiều lần so với các cuộc chiến tranh trong quá khứ.

13



×