Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân loại tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.48 KB, 14 trang )

I.

Mở đầu
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và phải

chịu hình phạt. Với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm khác nhau là khác
nhau thì việc phân chia tội phạm ra từng loại riêng có vai trò rất quan trọng
trong lý luận và cũng là căn cứ để xác định đúng tội danh trong thực tiễn xét xử.
Nhận thấy được tầm quan trọng của việc phân loại tội phạm, em xin chọn chủ
đề: “Phân loại tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam” nhằm
phần nào đi vào tìm hiểu các vấn đề lý luận chung về tội phạm và cách phân loại
tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Trong quá trình tìm hiểu, thu thập kiến thức và làm bài thì bài viết của em
vẫn còn nhiều thiếu sót, bất cập, mong thầy cô có thể có những ý kiến đóng góp
để giúp bài viết được hoàn thiện hơn.

1


II.

Nội dung

1.

Khái niệm
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực xuất hiện trong xã hội, cùng với sự

ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội có sự phân hóa giàu
nghèo, giai cấp. Mỗi chế độ xã hội đều có một cách hiểu và có những định nghĩa
khác nhau về tội phạm nhưng đều có nhận thức chung là tội phạm là hành vi


nguy hiểm cho xã hội và phải chịu sự trừng phạt.
Ở Việt Nam, Bộ luật Hình sự 2015 đã đưa ra khái niệm tội phạm tại Điều 8 như
sau:
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện
pháp khác.
Theo định nghĩa trên thì tội phạm là hành vi gây ra nguy hiểm cho xã hội
mà chủ thể thực hiện ở đây là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại. Đây là một điểm mới của BLHS 2015 so với bộ luật cũ khi
quy định cả chủ thể là pháp nhân thương mại. Định nghĩa về tội phạm trên thể
hiện quan điểm của nhà nước ta về tội phạm, là cơ sở để xác định hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự, trong xây dựng
2


pháp luật và áp dụng luật hình sự, đồng thời là cơ sở để phân hóa và cá thể hóa
trách nhiệm hình sự.
2.
2.1.

Các đặc điểm của tội phạm.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tội phạm trước hết phải là hành vi của con người hoặc của pháp nhân

thương mại. Tại sao ở đây lại nói là hành vi nguy hiểm cho xã hội của cả pháp
nhân thương mại vì pháp nhân thương mại là một tổ chức, vì vậy không thể có
hành vi cụ thể. Tuy nhiên, khi hoạt động thì pháp nhân thương mại phải hoạt
động dựa trên hành động của cá nhân hay nói cách khác, cá nhân sẽ là người đại
diện cho pháp nhân thương mại, nhân danh pháp nhân thương mại tham gia vào
quan hệ xã hội. Do vậy, tội phạm bao gồm cả hành vi của pháp nhân thương
mại. Hành vi là cách xử sự của con người, có thể là hành động phạm tội hoặc
không hành động phạm tội, tác động ra bên ngoài thế giới khách quan, gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi đó. Hành vi của con người phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức xã hội thì không có tính nguy hiểm cho xã hội và không phải là tội
phạm.
Nguy hiểm cho xã hội có nghĩa là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
đáng kể cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Thiệt hại do tội
phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe của con người),
về vật chất (tài sản) hoặc các thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, những tác hại gây
ra cho an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội,…
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có tính khách quan, tồn tại độc
lập, không phụ thuộc vào sự áp đặt chủ quan của con người. Để đánh giá hành vi
nào đó có tính nguy hiểm cho xã hội có là tội phạm hay không thì nhà làm luật
cũng như người áp dụng pháp luật phải dựa vào những tình tiết của hành vi
khách quan hoặc liên quan đến hành vi khách quan như tính chất, tầm quan
trọng của các quan hệ xã hội bị hành vi xâm hại, tính chất mức độ thực hiện
3


hành vi, thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại do hành vi gây ra, phương thức, thủ đoạn,

thời gian, đặc điểm, hoàn cảnh thực hiện hành vi, tính chất và mức độ lỗi, động
cơ, mục đích thực hiện hành vi, nhân thân người thực hiện hành vi, những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm của người thực hiện hành vi,…
Trong luật hình sự quy định nhiều tội phạm mà bản thân việc thực hiện
hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự đã là nguy hiểm đáng kể cho xã hội
và bị coi là tội phạm. Ví dụ như hành vi giết người, cướp tài sản, …Trong một
số trường hợp, để cụ thể hóa thế nào là nguy hiểm đáng kể cho xã hội mà bị coi
là tội phạm, nhà làm luật đã đặt ra những tiêu chí nhất định ngay trong điều luật
về tội phạm như Điều 123 BLHS 2015 quy định về tội giết người:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;…”
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì điều luật lại không quy định cụ thể
các tiêu chí để xác định hành vi như thế nào là nguy hiểm đáng kể cho xã hội mà
chỉ quy định những dấu hiệu định tính. Ví dụ như Điều 155 BLHS 2015 quy
định về tội làm nhục người khác:
“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì
bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
Trong những trường hợp trên, chúng ta không thể biết được chính xác hành
vi như thế nào mà được coi là xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của
người khác nên khi xem xét giải quyết thì các cơ quan có thẩm quyền phải căn
cứ vào tổng hợp các tình tiết của hành vi hoặc liên quan đến hành vi đã thực
4


hiện khi giải quyết vấn đề truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi. Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan

trọng nhất vì nó quyết định các dấu hiệu khác của tội phạm. Tính nguy hiểm cho
xã hội là mặt nội dung, quy định tính trái pháp luật còn tình phải chịu hình phạt
là hậu quả của nội dung, là mặt hình thức.
2.2.

Tính có lỗi
Tại khoản 1 Điều 8 BLHS quy định tội phạm là hình vi nguy hiểm cho xã

hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Như vậy, để được xem xét là có lỗi thì ở đây, chủ
thể phải tự lựa chọn hành vi phạm tội và quyết định thực hiện hành vi đó khi có
đủ mọi điều kiện để có thể lựa chọn một cách xử lý phù hợp khác (như một
người có đầy đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, anh ta không bị ai bắt
ép, đe dọa phải giết người mà việc anh ta cầm dao đâm người khác là ý chí chủ
quan của anh ta, với mục đích gây thương tích cho nạn nhân hoặc giết nạn
nhân .Anh ta biết hành vi của mình là có lỗi, có đầy đủ các điều kiện để anh ta
dừng việc gây thương tích lại nhưng anh ta không muốn thì đây là lỗi cố ý của
người phạm tội). Tính có lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người không có lỗi thực hiện thì không thể coi là tội phạm
(một người nhìn thấy người khác sắp chết đuối nhưng vì dòng nước xoáy, sâu
cộng thêm việc anh ta không biết bơi mà không còn cách nào khác thì việc
người kia chết đuối không phải là lỗi của anh ta). Việc thừa nhận nguyên tắc
trách nhiệm có lỗi là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự xuất
phát từ việc coi lỗi là thái độ phủ định chủ quan của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trước các yêu cầu và đòi hỏi của xã hội và coi mục đích
của trách nhiệm hình sự, hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội.
2.3.

Tính trái pháp luật hình sự.
Tại Khoản 1 Điều 2 BLHS 2015: “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được


Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
5


Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015: “1.Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự…”
Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có
mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau về mặt hình thức pháp lý và nội dụng
chính trị- xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện nội dung có
tính chính trị- xã hội của tội phạm còn tính trái pháp luật hình sự thể hiện mặt
hình thức pháp lý của tội phạm. Trong mối quan hệ đó, tính nguy hiểm cho xã
hội là thuộc tính bên trong của tội phạm quy định tính trái pháp luật hình sự của
tội phạm. Tính trái pháp luật hình sự của tội pháp thể hiện hình thức pháp lý của
tội pháp, là thuộc tính bên ngoài biểu hiện tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm.
Trên thực tế, để đánh giá hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không thì
trước hết người áp dụng phải xem xét hành vi đó có được quy định trong luật
hình sự hay không rồi sau đó mới xem xét đến việc hành vi đó có nguy hiểm
đáng kể hay không. Khoản 2 Điều 8 BLHS 2015 “2. Những hành vi tuy có dấu
hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì
không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
2.4.

Tính phải chịu hình phạt.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước để áp

dụng đối với người phạm tội. Không có tội phạm thì không có hình phạt. Hình
phạt chỉ có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội
phạm. Đó là hệ quả của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái

pháp luật hình sự, bị coi là có tội. Tuy nhiên, tội phạm vẫn có thể không phải
chịu hình phạt nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn
hình phạt. Trong luật hình sự, các quy định về tội phạm cụ thể luôn đi kèm với
quy định về hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội. Tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là cơ sở để phân hóa hình phạt khi nhà
làm luật quy định các điều khoản về tội phạm trong Bộ luật hình sự và là cơ sở
6


để cá thể hóa hình phạt khi áp dụng đối với người phạm tội trong từng trường
hợp cụ thể.
3.

Phân loại tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại tội phạm như lỗi thì tội phạm

được chia thành tội pham do lỗi cố ý và tội phạm do lỗi vô ý. Dựa trên độ tuổi
của người thực hiện tội phạm thì tội phạm được phân loại thành tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện và tội phạm do người thành niên thực hiện. Căn
cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
quy định trong BLHS 2015 thì nhà làm luật đã chia tội phạm ra thành 4 loại: tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình”. (Điều 9 BLHS 2015).
7


Việc căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm để phân chia tội phạm
thành các loại như trên thì nhà làm luật chỉ căn cứ vào định tính. Thực tế, để
xem xét hành vi nào mà tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là lớn hay
không thì rất khó để xem xét, chẳng hạn như thế nào là nguy hiểm đáng kể cho
xã hội, mức độ nguy hiểm đặc biệt lớn là lớn tới mức nào thì không có một
thang tiêu chuẩn nào có thể đo được những tính chất định tính như vậy được và
việc căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội chỉ có ý nghĩa trong
lý luận.
Thực tế, đối với người áp dụng pháp luật thì để xác định xem tội phạm đã
thực hiện thuộc loại tội phạm nào thì phải căn cứ vào mức cao nhất của khung
hình phạt đối với từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, tại Điều 123 BLHS 2015 về tội
giết người:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
8


l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm”.
Tội phạm thuộc khoản 1 điều này có mức cao nhất của khung hình phạt là 20
năm, chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm
thuộc khoản 2 điều này có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm thuộc
tội phạm rất nghiêm trọng. Tội phạm thuộc khoản 3 điều này có mức cao nhất
của khung hình phạt là 5 năm thuộc tội phạm nghiêm trọng và khoản 4 cũng
thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng.
4.
4.1.


Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm
Ý nghĩa lý luận
Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp lý

hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính
sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể.
Mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển
khai chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với
các tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác
9


nhau. Nó chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố
tụng hình sự về tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử
Trong hoạt động lập pháp, phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế
định về tội phạm và hình phạt, là cơ sở thống nhất để xây dựng các khung hình
phạt cho tội phạm cụ thể.
Ngoài ra, phân loại tội phạm còn là cơ sở để xác định đường lối đấu tranh
với các tội phạm khác nhau cũng như các thuộc tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, mà yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và trở thành
nguyên tắc của Luật hình sự.
Phân loại tội phạm thành các nhóm khác nhau là biểu hiện của sự phân
hóa trách nhiệm hình sự ở góc độ lập pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu chế định
phân loại tội phạm trong mối quan hệ thống nhất các chế định khác sẽ tạo tiền đề
cho việc nhận thực đúng bản chất của tội phạm, đánh giá đúng tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự.
4.2.

Ý nghĩa thực tiễn
Phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy


phạm phần chung và phần các tội phạm Bộ luật hình sự, như: chế định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành,
những người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ
chuẩn bị phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp
dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời
10


hạn đưa vụ án ra xét xử hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm
cụ thể.

11


III.

Kết luận
Trên đây là một số vấn đề khái quát chung về tội phạm và đặc biệt là cách

phân loại tội phạm ra thành từng loại tội phạm cụ thể như tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 BLHS 2015 dựa trên tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm. Việc phân loại tội phạm trên có ý nghĩa to lớn trong cả

lý luận và thực tiễn xét xử, giúp cho việc áp dụng pháp luật được diễn ra đúng
theo quy định, chính xác, đảm bảo đúng người đúng tội, tránh làm oan người vô
tội.

12


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,
Nxb. Chính trị Quốc gia.
2. Bộ luật Hình sự 2015, Nxb. Lao động.
3. />4. Danh mục các cụm từ viết tắt
BLHS: Bộ luật hình sự

13


Mục Lục
I.
Mở đầu............................................................................1
II.Nội dung.....................................................................2
1.Khái niệm..................................................................2
2.Các đặc điểm của tội phạm.......................................3
3.Phân loại tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam.......7
4.Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm........................9
III.Kết luận...................................................................12
Danh mục tài liệu tham khảo........................................13

14




×