Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Liên hệ văn hóa chính trị trong giới trẻ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.2 KB, 30 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

Qua hơn 17 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu cao độ của toàn Đảng, toàn dân,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội và đang đứng trước
yêu cầu phát triển ở tầm cao hơn nữa. Trong thời kỳ phát triển mới, bên cạnh những cơ
hội, thuận lợi, đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Tình
hình đó đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực cao độ nhằm nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ đưa sự
nghiệp cách mạng tiếp tục vững bước tiến lên.
Hệ thống chính trị là một phạm trù cơ bản của khoa học chính trị bởi nó là tổng
hợp những vấn đề thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị. Hệ thống chính trị tác động
như một chính thể trong việc tổ chức mối quan hệ qua lại với những hệ thống khác: hệ
thống kinh tế, văn hóa, sắc tộc, tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn phát triển
mới, đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta phải được kiện toàn, đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động. Nhưng muốn kiện toàn, đỏi mới thì chúng ta phải hiểu được
thực trạng của hệ thống chính trị nước ta hiện nay. Chính vì vậy, nhóm 4 đã lựa chọn đề
tài: “PHÂN TÍCH CẤU TRÚC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY.
LIÊN HỆ VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG GIỚI TRẺ HIỆN NAY” để làm rõ
những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị nước ta, qua đó liên hệ với văn hóa chính trị
trong giới trẻ Việt Nam, chỉ ra những hạn chế trong công tác giáo dục văn hóa chính trị
cho giới trẻ đồng thời đề xuất một số giải pháp về văn hóa chính trị trong nhân dân nói
chung cũng như trong giới trẻ nói riêng.

2


Phần 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.


Khái niệm hệ thống chính trị, văn hóa chính trị
Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ

chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong việc thực hiện,
tham gia thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính trị.
Văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị được hình thành trong thực tiễn chính
trị, thể hiện ở sự hiểu biết về chính trị, ở lý tưởng, niềm tin và ở cách thức tham gia vào
đời sống chính trị theo chuẩn mực đã thành truyền thống mà mọi người được tiếp nhận từ
gia đình và xã hội.
1.2.

Cấu trúc của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị được tạo thành từ nhiều bộ phận, mỗi bộ phận đó lại là một kết

cấu phức tạp gồm nhiều bộ phận nhỏ khác có thể coi là các “tiểu hệ thống”. Đó là:
- Các thể chế chính trị (các tổ chức) – tiểu hệ thống thể chế
- Các quan hệ chính trị – tiểu hệ thống quan hệ
- Các cơ chế hoạt động – tiểu hệ thống cơ chế
- Các nguyên tắc vận hành – tiểu hệ thống các nguyên tắc vận hành
Như vậy cấu trúc của hệ thống chính trị gồm bốn bộ phận chủ yếu. Các tổ chức
đây là cốt vật chất của hệ thống chính trị, các quan hệ chính trị là bộ phận kết nối các tổ
chức và đảm bảo các vai trò chức năng nhất định của chúng, các cơ chế và nguyên tắc
vận hành đảm bảo cho hệ thống chính trị vận hành thông suốt và đúng đắn.

3


Phần 2. CẤU TRÚC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1.


Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Một là, hệ thống chính trị Việt Nam có một chính Đảng duy nhất lãnh đạo và cầm

quyền đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền.
Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng
Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những
đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí
cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể
chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản
Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà
nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần
chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó
Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể
bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy,
Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời
kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ,
Đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính
sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo
của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị – xã hội. Ngoài ra,
4


Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận

động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ…
Hai là, có tính thống nhất cao.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể
thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương
thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp
và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam;
sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; sự thống
nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ; sự thống nhất
của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp
thành.
Ba là, mang bản chất dân chủ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự
kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm
này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính
trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng,
Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội,
tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc
lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống
chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các
yếu tố: Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
5


cầm quyền; nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mặt trận Tổ

quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp
nhân dân; hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ
thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, có sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện
cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và
tính dân tộc sâu sắc.
Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc
đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển.
Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ
thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của
từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân
biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
Năm là, có tổ chức và hoạt động được đảm bảo bằng nguồn ngân sách Nhà nước.
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức và hoạt động từ nguồn ngân sách nhà
nước nhằm thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xây dựng cơ
sở hạ tầng, chi trả lương cho cán bộ, công chức.

6


2.2.


Cấu trúc hệ thống chính trị Việt Nam
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực

hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các Đảng
chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng
cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm
quyền. Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực
hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản chất
giai cấp của giai cấp cầm quyền. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định
nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính
trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: nhà nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, ngoài ra
còn có các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp khác của nhân dân.
Chức năng của các bộ phận trong cấu trúc hệ thống chính trị Việt Nam:
- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước là trụ cột của hệ
thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân,
thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời
sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác,
Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của
Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân
7



dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính
trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Quốc hội: là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp
bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và
lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi
là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sơ đồ cơ cấu chức văn phòng
Quốc Hội:
Chính phủ: Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ
quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là
những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và
cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính
xác. Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ
quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm
sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm
8



quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố,
kiểm soát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm
sát được gọi là cơ quan tư pháp. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một
bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính
trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ
trương phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể
bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy,
Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời
kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ,
Đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính
sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo
của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổchức chính trị – xã hội. Ngoài ra,
Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận
động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: đây là tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được tổ
chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại
diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ,
mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt
9



Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công
dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi
mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý
chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân;
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;
thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục
đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về
mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,
phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có
chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân
viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia kiểm
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công
nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân,
xây dựng và bảo vệ Tổquốc.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: là tổ chức chính trị – xã hội tập hợp
tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức
Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức
từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành
mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho Đoàn viên, thanh niên.
- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: là tổ chức chính trị – xã hội của giới nữ, có chức
năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ,
tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ chức,

10


hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
- Hội Nông dân Việt Nam: là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ
sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội nông dân Việt Nam
vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao
trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và
Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam: là đoàn thể chính trị – xã hội, thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ
thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.
Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ
gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền,
chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ
nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu. Hệ thống chính
trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế

– xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
- Các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp khác của nhân dân: có nhiệm vụ giáo
dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp
pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững
và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực


11


hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị-xã hội Việt Nam, các tổ
chức chính trị – xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực
lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền
nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước. Sovới các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức chính trị –
xã hội có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị – xã
hội truyền thống, còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang
ngày càng nhiều và gồm các hình thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội
nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động
tương trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã
hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này hoạt động
trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển lợi ích chung của các
thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải để trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được
xác định một cách đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ mà từ
rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về chức năng của các tổ
chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện đại cũng cần phải như vậy, với tư
duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội được mô hình hoá như
một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà
nước. Gốc có to, cây mới vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với
hệ thống chính trị – xã hội Việt Nam.

Tóm lại, trong hệ thống chính trị – xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội đóng vai
trò năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Hệ thống chính trị
12


đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội
đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội, cả hai hệ thống chính trị và
hệ thống xã hội hòa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị – xã hội. Tuy
nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống
chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi hoạt động vì
mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu và mong muốn tác động
đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống
nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.
2.3.

Các quan hệ chính trị, nguyên tắc hoạt động và cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị Việt Nam

2.3.1. Các quan hệ chính trị
Trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do một cơ chế
chủ đạo (cũng là quan hệ chủ đạo): Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
- Đảng lãnh đạo:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn

bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức
13


Đảng và Đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ
trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo
và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
- Nhân dân làm chủ:
Trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực Nhà nước, chỉ nhân dân mới
có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng nhân dân ủy quyền cho các đại biểu
của mình và giám sát đại biểu đó trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Nhân dân
còn làm chủ bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ
quan dân cử và các đoàn thể của dân). Ngày nay quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta
không chỉ được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống truyền thông, các
phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thông qua vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn trọng và bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của

mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông
qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện”.

14


- Nhà nước quản lý:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền
dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương” - Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm
pháp luật, bằng hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ các bộ đến các cơ sở, trong đó
không loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh của pháp
luật. Nhà nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quản lý
theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô. Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng
cả chính sách, các công cụ đòn bẩy khác... Mục tiêu của quản lý Nhà nước là phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo
cho nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, phát huy sức mạnh tổng

hợp của các thành phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất
của đất nước.
- Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: là quan hệ phối hợp
hành động, được thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cơ quan hữu quan ở từng cấp ban ngành. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên của Mặt trận. Vì vậy quan hệ giữa Đảng và
15


Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối hợp
và thống nhất hành động: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện,
tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể.
Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Các thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong khi tuân theo điều lệ của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể chính trị – xã hội của nhân dân lao động có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên;
thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước;
giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối
liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”.
2.3.2. Nguyên tắc hoạt động
Hệ thống chính trị (HTCT) nước ta hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của
Hệ thống chính trị Xã hội Chủ nghĩa (XHCN), vừa tuân thủ những nguyên tắc có tính
“đặc thù” khác:
(1) Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi:
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân

thực hiện chủ quyền ấy bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực như Quốc hội, Hội đồng
nhân dân... Những cơ quan này thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước. Ở nước
ta các đại biểu của dân được ủy quyền theo nguyên tắc tự do và một thời hạn nhất định
(nhiệm kỳ).
(2) Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã
hội.
16


(3) Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt động chủ yếu của HTCT,
trong đó có Đảng và Nhà nước. Riêng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ
phận của HTCT, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vừa phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân
chủ vừa thực hiện nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối hợp
hành động.
(4) Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nướctrong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; thực hiện sự phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, cơ
sở...
(5) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2.3.3. Cơ chế vận hành
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước phải tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt
động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành
chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp.
2.4.


Sự đổi mới trong đường lối, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay
- Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới: bao gồm thực hiện tốt hơn

dân chủ Xã hội Chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
- Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới:
17


Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước làm đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Xét trên tổng thể, Đảng ta
bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các
chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác.
Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi
mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế – xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và
tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo
điều kiện thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không
phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho
hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi
mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với kinh tế
tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội
phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
- Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới:
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị. Trước Đại hội X, Đảng ta xác
định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung
một số nội dung quan trọng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
18


Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”. Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định:
“Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên
hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hành động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”. Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh năm 1991 xác định:
“Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các
đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết trung ương 5 khoá X về “Tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ
các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa
Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm
chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho
nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng
thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của
công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi
hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công
việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần
thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở
19


kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân
cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi
ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu,
nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
Hai là, xây dựng nhà máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền
là một tất yếu lịch sử. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước. Nhà nước pháp
quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực của nhà nước.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống
chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh
tế, văn hoá xã hội; an ninh, quốc phòng. Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ
chức chính trị – xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Đổi mới hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, khắc phục tình trạng hành

chính hoá, nhà nước hoá, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng hoạt động; làm tốt
công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
2.5.

Hạn chế của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Một là, những yếu kém của hệ thống chính trị được Đại hội đại biểu Đảng toàn

quốc lần thứ XII chỉ rõ:
Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu.
20


Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi,
phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển
kinh tế – xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của
Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011; phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội
dung và phương thức cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức Đảng,
Đảng viên cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị – xã hội; một bộ phận cán bộ, Đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân.
Chưa khắc phục được tình trạng ban hành nhiều nghị quyết; một số nghị quyết nội dung
thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện. Chưa thật tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị

quyết; một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền,
chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít
chậm được khắc phục.
Hai là, các quốc gia theo chế độ nhất nguyên chính trị, Đảng chính trị sau khi
giành được chính quyền dễ có xu hướng quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là căn bệnh phổ
biến mà trước đây các Đảng cộng sản các nước thường mắc phải. Chế độ một Đảng cầm
quyền mà không thực hiện dân chủ đầy đủ, vi phạm dân chủ thì cũng tiềm ẩn nguy cơ, trở
ngại. Đó là chủ quan duy ý chí và quan liêu trong xác định chủ trương, đường lối... Đảng
dễ áp đặt ý chí của mình vào nhà nước và xã hội, áp đặt không hợp lý người của Đảng,
không đủ các tiêu chuẩn vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể, tự đặt Đảng lên trên nhà
nước và pháp luật. Đảng bao biện, làm thay công việc nhà nước mà không chịu trách
nhiệm pháp lý về các quyết định của mình. Người dân khó kiểm soát, giám sát được các
cơ quan quyền lực và cán bộ trong hệ thống quyền lực. Đảng và nhà nước không bị thúc

21


bách, tìm tòi, thực hiện các hình thức dân chủ linh hoạt, cởi mở trong khi vẫn đảm bảo
nguyên tắc cơ bản của chế độ.
Các nước XHCN đều theo chế độ một Đảng nhất nguyên chính trị là do xuất phát
từ điều kiện lịch sử. Từ khi phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ra đời cho đến
nay, thực tế cho thấy chưa có Đảng Cộng sản nào giành thắng lợi thông qua con đường
nghị trường dù đã tranh thủ tối đa khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh các Đảng Cộng
sản giành chính quyền thắng lợi chỉ bằng bạo lực cách mạng và sau khi giành chính
quyền thắng lợi sẽ thiết lập hệ thống chính trị trong đó Đảng Cộng sản giữ vai trò duy
nhất lãnh đạo xây dựng chế độ mới. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như
trong xây dựng chế độ mới, không có một giai cấp nào, một lực lượng nào có thực lực, có
tín nhiệm với nhân dân để có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản.
Ba là, một số nơi cấp ủy cấp trên chưa có biện pháp cụ thể, sát thực xây dựng
HTCT ở cơ sở, chưa xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa bí thư cấp ủy với chủ

tịch HĐND, chủ tịch UBND, chủ tịch mặt trận Tổ quốc, trưởng các đoàn thể nhân dân.
Phân cấp quản lý của cấp huyện cho cấp xã còn nhiều nội dung chưa cụ thể; thẩm quyền,
trách nhiệm người đứng đầu các cấp nhiều nơi chưa có quy định dẫn tới tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm trong giải quyết công việc...
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng còn yếu, nhất là việc
vận dụng, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng vào tình hình cụ thể của địa
phương, sinh hoạt chi bộ không ít nơi còn đơn điệu, hình thức. Công tác bồi dưỡng, tạo
nguồn kết nạp Đảng viên ở địa bàn dân cư gặp nhiều khó khăn.
Hoạt động của Hội đồng Nhân dân (HĐND) ở cấp xã nhìn chung còn hạn chế,
chất lượng các nghị quyết của HĐND chưa cao. Quản lý, điều hành của Ủy ban Nhân dân
cấp xã một số nơi hiệu quả thấp, nhất là việc thực hiện các chương trình, dự án phát triển
kinh tế –- xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng và cải cách thủ tục hành chính. Tình trạng vi
phạm Luật đất đai xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được giải quyết dứt điểm. Công tác
quản lý xây dựng, quản lý đô thị ở các phường còn nhiều tiêu cực; việc phòng, chống các
22


tội phạm, tệ nạn và hành vi vi phạm pháp luật chưa hiệu quả; vấn đề tà đạo, tôn giáo trái
phép còn xảy ra ở một số nơi nhưng cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ở cơ
sở chưa kịp thời nắm bắt thông tin. Một bộ phận cán bộ, công chức cơ sở quan liêu, tham
nhũng, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn yếu, nhất là
tổ chức đoàn thanh niên, tình trạng hành chính hóa khá phổ biến. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể ở cơ sở chưa nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên nên ở
một số nơi bị kẻ xấu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để truyền đạo trái phép, kích động
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc...
Đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn quá đông, số cán bộ được hưởng
lương, phụ cấp, trợ cấp, bồi dưỡng... từ ngân sách nhà nước trong cả nước là hơn 1,2 triệu
người (cả chuyên trách và không chuyên trách), bình quân 114 người/xã. Số cán bộ hoạt
động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố theo quy định là 3 người nhưng trên thực tế

có từ 5 đến 7 người/thôn, tổ dân phố; có nơi lên tới 17 người. Qua khảo sát thực tế tại cơ
sở mỗi xã khoảng 200 người (cả ở thôn), có phường trên 600 người. Trình độ, kiến thức
và năng lực cán bộ cấp xã nhiều mặt còn hạn chế; tỷ lệ cán bộ chưa đạt chuẩn về chuyên
môn còn cao (chiếm 35,28%), riêng tỷ lệ công chức chưa đạt chuẩn về chuyên môn là
10,72%. Số lượng cán bộ hoạt động không chuyên trách tăng nhanh đang là gánh nặng
cho ngân sách nhà nước.

23


Phần 3. LIÊN HỆ VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG GIỚI TRẺ
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.

Vai trò của giới trẻ trong việc xây dựng văn hóa chính trị
Sinh viên là những người có tri thức và nhiệt huyết, là tinh hoa trong giới trẻ nói

chung. Chính vì lẽ đó, sinh viên luôn là những người có khả năng nhận thức tốt hơn,
đồng thời nếu có định hướng tốt chắc chắn sẽ trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng
trong mọi thời kỳ cách mạng. Muốn vậy, tất yếu phải xây dựng văn hóa chính trị cho sinh
viên Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới và phù hợp với đặc thù nền
chính trị Việt Nam.
Thông thường khi nói đến văn hóa chính trị, mọi người quan tâm hàng đầu đến
trình độ văn hóa chính trị của giai cấp trên – giai cấp cầm quyền trong xã hội. Nhưng trên
thực tế, với sự phát triển của xã hội hiện nay, xu thế dân chủ hóa đã thu hút sự tham gia
của nhân dân vào công việc của nhà nước đòi hỏi chúng ta phải xây dựng, nâng cao trình
độ văn hóa chính trị của mọi tầng lớp nhân dân. Hơn thế nữa, sự phát triển của kinh tế trí
thức khiến cho sự đóng góp của tầng lớp trí thức vào đời sống chính trị ngày càng to lớn.
Trong tầng lớp trí thức, sinh viên đóng một vai trò quan trọng. Họ là tiền thân của
lực lượng lao động có chất lượng trong tương lai. Một phần trong số họ sẽ trở thành

những cán bộ, công chức nhà nước, thậm chí sẽ là lực lượng lãnh đạo nòng cốt. Đất nước
có trở nên giàu đẹp, văn minh hay không chính là nhờ phần lớn sự đóng góp của lực
lượng này – lực lượng có sức khỏe, có trí tuệ, có nhiệt huyết. Tuy nhiên từ trước tới giờ,
24


chúng ta thường coi sinh viên là lực lượng chính của lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
chứ chưa nhìn nhận vai trò của sinh viên đối với lĩnh vực chính trị.
Văn hóa chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay bao gồm những hiểu biết của
sinh viên về đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, về thế giới quan khoa
học theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chính sách pháp luật của Nhà
nước; truyền thống văn hóa chính trị quý báu của dân tộc Việt Nam và những tri thức
khoa học chính trị tiên tiến trên thế giới. Từ đó hình thành thế giới quan, lập trường tư
tưởng, niềm tin, tình cảm và thái độ của sinh viên đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, tính tự
giác và tích cực tham gia các hoạt động chính trị của đất nước phục vụ lợi ích của sinh
viên và toàn xã hội. Giáo dục văn hóa chính trị cho sinh viên là giáo dục lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội; giáo dục vai trò và sứ mệnh lịch sử của sinh viên Việt Nam trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cụ thể là góp phần tích cực vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2.

Thực trạng văn hóa chính trị trong giới trẻ Việt Nam hiện nay
Văn hoá chính trị, với tư cách là một loại hình của văn hoá là khái niệm nói về sự

thẩm thấu của văn hoá vào chính trị, là chính trị có tính văn hoá. Như vậy, văn hoá chính
trị không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hoá, hay là sự cộng gộp giản đơn hai
lĩnh vực này, mà đó là chính trị bao hàm tính văn hoá từ bản chất bên trong của nó. Biểu
hiện của văn hoá chính trị thể hiện ở hai phương diện cơ bản:
Một là, chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ phải hướng tới mục đích
cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo điều kiện

cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Đây là tính nhân văn sâu sắc của một
nền chính trị có văn hoá.
Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp không phải là những ý niệm trừu tượng
mà phải thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc sống. Nghĩa là nó phải thấu triệt trong
hệ tư tưởng chính trị, thể hiện qua đường lối chính sách của đảng cầm quyền và nhà nước

25


×