Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Về Đối ngoại, quan hệ quốc tế (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.9 KB, 22 trang )

Nội dung văn bản:
1. VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC TRONG QUAN HỆ
QUỐC TẾ.
2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.
3. THỜI ĐẠI NGÀY NAY – THỜI ĐẠI QUÁ ĐỘ TỪ CNTB LÊN CNXH.
VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC
TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi năm 1917 đã khai sinh nhà nước
XHCN đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của CNXH hiện thực. Đây là bước đột
phá vĩ đại mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Với tầm vóc lịch
sử lớn lao đó, cách mạng Tháng Mười trở thành biểu tượng của niềm tin và sự cổ vũ
mãnh liệt đối với hàng ngàn triệu người bị áp bức trên hành tinh vùng lên đấu tranh tự
giải phóng, đặt nền móng hiện thực cho xu hướng đi lên CNXH như một tất yếu khách
quan, không thể đảo ngược.
Kể từ khi ra đời đến nay, CNXH đã trải qua những giai đoạn vận động khác nhau,
thậm chí phải đối diện trước những thử thách lớn, nhưng vẫn chứng tỏ khả năng tự đổi
mới để tồn tại và phát triển. Tuy chỉ mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và
phát triển, nhưng CNXH hiện thực đã thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội mới
bằng những thành tựu quan trọng đạt được trên nhiều lĩnh vực. Các nước XHCN với
mức độ khác nhau đã từng bước xác lập trên thực tế một chế độ xã hội dân chủ, ở đó
người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý sản xuất, quản lý xã hội. Nhà
nước XHCN không ngừng được củng cố, hoàn thiện, đáp ứng lợi ích chính đáng của đa
số nhân dân. Hàng loạt chính sách kinh tế - xã hội tiến bộ được thực hiện nhằm đưa các
giá trị dân chủ và nhân văn vào cuộc sống, không ngừng cải thiện và nâng cao điều kiện
sống của người lao động.
Trên lĩnh vực kinh tế, mặc dù đều có điểm xuất phát chưa cao, nhưng về cơ bản
trong thời kỳ đầu, các nước XHCN do khai thác được tính ưu việt của thể chế kinh tế
mới dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và tính kế hoạch hoá,
đồng thời biết khơi dậy nhiệt tình cách mạng của nhân dân lao động, nên đã tạo được
động lực cho sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế các nước XHCN đạt tốc độ tăng trưởng


nhanh và ổn định hơn các nước TBCN trong những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Chỉ
một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một cường quốc kinh tế, đủ sức đánh bại cuộc
xâm lược của chủ nghĩa phát xít, chi viện cho cách mạng thế giới, hỗ trợ quan trọng đối
với sự ra đời của hàng loạt nước XHCN. Đến năm 1987, các nước XHCN đã chiếm
43% tổng giá trị công nghiệp thế giới. Liên Xô còn vượt Mỹ trong nhiều ngành sản xuất
như khai thác dầu khí, khí đốt, phân hóa học, xi măng, v.v...
Do thực lực kinh tế được tăng cường, nên CNXH hiện thực đã đạt được thành tựu to
lớn về quân sự, vươn tới sự cân bằng về vũ khí hạt nhân chiến lược với CNTB, củng cố
vững chắc khả năng quốc phòng. Bên cạnh đó, về khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào
tạo, y tế,... CNXH hiện thực cũng có những bước tiến vượt bậc. Liên Xô đã đạt thành
tựu rực rỡ trong nhiều ngành khoa học và dẫn đầu về nghiên cứu, chinh phục vũ trụ
cũng như ứng dụng những thành tựu vật lý nguyên tử vào cuộc sống.
Sự trưởng thành và phát triển của CNXH hiện thực đã đưa tới một thành quả cực kỳ
quan trọng, đó là sự hình thành hệ thống XHCN thế giới - trụ cột của phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế. CNXH từ phạm vi một nước trở thành hệ thống thế giới hùng
mạnh bao gồm 15 nước, chiếm 26% diện tích và 30% dân số toàn cầu, đã thực sự chấm
1
dứt thời đại toàn thị CNTB. Hệ thống XHCN có những cống hiến rất to lớn đối với cuộc
đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản không thể phủ nhận, các nước XHCN
do nguyên nhân khách quan và chủ quan đã bộc lộ ngày càng rõ những khó khăn, hạn
chế. Các ĐCS, công nhân cầm quyền đều đã từng phạm sai lầm, thậm chí một số đảng
còn phạm cả sai lầm nghiêm trọng nhưng lại không được khắc phục kịp thời. Sự trì trệ
trong nhận thức lý luận và việc không tính đến một cách đầy đủ các quy luật khách quan
khiến cho không ít đảng chủ quan, duy ý chí, nóng vội trong thực tiễn xây dựng CNXH.
Toàn bộ điều đó lý giải vì sao công cuộc xây dựng CNXH từ cuối thập niên 70 bị chững
lại, hàng loạt nước XHCN đã trượt vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng
sâu sắc, toàn diện.
Sự phát triển kinh tế theo bề rộng, những bất cập và khiếm khuyết của cơ chế quản

lý tập trung quan liêu, bao cấp đã trở thành vật cản làm cho sản xuất bị ngưng trệ. Hầu
hết các nước XHCN đều chưa chú trọng đúng mức đến việc tiếp cận và ứng dụng kịp
thời thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất nhằm phát
triển kinh tế theo chiều sâu, nên chưa tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.
Đầu những năm 80, năng suất lao động của các nước XHCN bị giảm sút chỉ bằng
khoảng 1/2 đến 1/4 của các nước tư bản phát triển; mức sống của nhân dân bị sa sút lớn.
Mặt khác, tồn tại khá phổ biến những sai lầm, hạn chế trong thực hành và phát huy đầy
đủ cơ chế dân chủ trong sinh hoạt Đảng và xã hội; tình trạng tham nhũng, nhiều vấn đề
xã hội trở nên căng thẳng, chuẩn giá trị đạo đức, tinh thần bị sói mòn... Tình trạng lãng
phí và chưa sử dụng xứng đáng đội ngũ trí thức là một nguyên nhân gây ra nạn rò rỉ,
“chảy máu chất xám” sang các nước tư bản phát triển.
Về quan hệ kinh tế quốc tế, các nước XHCN chủ yếu phát triển các quan hệ hợp tác
trong nội bộ khối SEV, thậm chí tạo ra tình trạng “bao cấp quốc tế” trong hệ thống
XHCN, chưa coi trọng tác động của xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá và nhu cầu tất yếu
của phân công lao động quốc tế. Hơn nữa, trong quan hệ giữa các nước XHCN, giữa
các ĐCS cầm quyền cũng xảy ra sự thiếu dân chủ. Những biểu hiện của chủ nghĩa nước
lớn, sự áp đặt và độc đoán, tệ sùng bái kinh nghiệm của đảng lớn, những bất đồng về
đường lối chiến lược giữa một số đảng,...làm tổn hại đến khối đoàn kết, thống nhất của
hệ thống XHCN, gây tổn thất cho CNXH hiện thực cũng như phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế.
Những hạn chế, sai lầm nêu trên đã gây hậu quả rất tiêu cực đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội cũng như quan hệ quốc tế của CNXH hiện thực. Sự giảm sút lòng tin
vào ĐCS, vào bộ máy nhà nước diễn ra đồng thời với sự hoài nghi nhất định về chủ
nghĩa Mác - Lênin làm tổn thương nghiêm trọng đến hình ảnh của CNXH trong một bộ
phận nhân dân lao động ở cả trong nước và ngoài nước.
Quá trình vận động của lịch sử xã hội mang bản chất là không ngừng tự đổi mới để
phát triển, hoàn thiện. Đối với CNXH hiện thực - một chế độ xã hội chưa có tiền lệ lịch
sử - thì càng không thể là một ngoại lệ. Do vậy, đổi mới và hoàn thiện mọi mặt chế độ
XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS luôn là đòi hỏi tất yếu trong quá trình xây dựng và
phát triển CNXH hiện thực. Tiến trình cách mạng XHCN với mục tiêu thủ tiêu chế độ

người bóc lột người, sự bất bình đẳng xã hội, tiến tới giải phóng giai cấp, giải phóng
nhân loại là một sự nghiệp vĩ đại thì tất yếu cũng sẽ không chỉ có thuận lợi, mà còn xuất
hiện những thời kỳ khó khăn, trắc trở, thậm chí thoái trào. Chính Lênin đã từng vạch rõ
nếu hình dung lịch sử như một con đường thẳng tắp, trơn tru…thì không biện chứng,
không khoa học, không đúng về mặt lý luận. Nhãn quan biện chứng này có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đối với các ĐCS khi nhận thức về vận mệnh lịch sử và sự vận động của
2
CNXH hiện thực. Quá độ từ CNTB lên CNXH là một quá trình lịch sử lâu dài, gồm nhiều
thời kỳ vận động dích dắc, phức tạp. Do đó, nhất thiết phải đoạn tuyệt với những ảo tưởng
giản đơn, vốn đã từng tồn tại để không nóng vội, chủ quan; đồng thời cũng không hoài
nghi, dao động, bi quan trước những khó khăn, hạn chế, những sai lầm và biến động
phức tạp của CNXH hiện thực.
Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sai
lầm nảy sinh trong thực tiễn xây dựng CNXH, nhiều ĐCS cầm quyền đã tỏ rõ tính chủ
động lịch sử, phát động công cuộc cải cách, cải tổ, đổi mới. ĐCS Trung Quốc từ cuối
thập niên 70 đã tiến hành cải cách, mở cửa, đẩy mạnh “bốn hiện đại hoá”. Đến giữa thập
niên 80, ĐCS Liên Xô phát động cải tổ, ĐCS Việt Nam khởi xướng đổi mới cùng lúc
với tiến trình cải cách ở một số nước XHCN khác. ĐCS Cuba và Đảng Lao động Triều
Tiên cũng bắt đầu cải cách vào những thời điểm khác nhau của thập niên 90.
Tuy vậy, sau một thời gian thực hiện cải cách, cải tổ, đổi mới do nhiều nguyên nhân,
nên diễn biến và kết quả của nó ở mỗi nước XHCN không hoàn toàn giống nhau, thậm
chí trái ngược nhau. Cùng hướng tới mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, các nước XHCN đã phát động cải tổ, cải cách
và đổi mới. Vậy nhưng, cũng chính từ bước đi cấp thiết và có ý nghĩa quyết định này
đối với vận mệnh của CNXH, thì một số ĐCS lại tỏ ra lúng túng, không tìm ra bước đi
thích hợp, dao dộng hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
xây dựng CNXH, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của CNĐQ. Thậm chí, một
bộ phận lãnh đạo chóp bu trượt vào lập trường cơ hội phản bội đã đưa cải tổ, cải cách
lâm vào bế tắc và thất bại. Sự đổ vỡ chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cuối những
năm 80 - đầu 90 là bằng chứng sinh động nhất khẳng định cải cách, cải tổ, đổi mới mà

xa rời nguyên tắc, mục tiêu CNXH thì chẳng những khó tránh khỏi thất bại, mà còn tự
xoá bỏ những thành quả của CNXH.
Trái lại, tại một số nước XHCN khác, do có sự vững vàng về bản lĩnh chính trị và có
đường lối thích hợp, nên các ĐCS cầm quyền đã lãnh đạo cải cách, đổi mới thắng lợi,
vượt qua được thử thách khắc nghiệt nhất bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống XHCN
thế giới. Chế độ XHCN ở những nước này không chỉ trụ vững mà còn bước phát triển
mới.
Thành tựu mà Trung Quốc, Việt Nam, Cuba giành được trong cải cách mở cửa, đổi
mới là đóng góp rất đáng trân trọng vào quá trình phục hồi từng bước của phong trào
cộng sản quốc tế (PTCSQT) thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Ba lĩnh vực chủ yếu được các
nước này chú trọng tiến hành là: cải cách kinh tế; đổi mới hệ thống chính trị và hành
chính; cải cách mở cửa và đổi mới chính sách đối ngoại. Do đó, họ khắc phục được
khủng hoảng, duy trì tình hình chính trị-xã hội ổn định; phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống nhân dân; nâng cao được vị thế trên trường quốc tế; làm thất bại âm mưu chống
phá của các thế lực đế quốc thù địch thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình”.
Thực tiễn cải cách, đổi mới của những nước nêu trên đã và đang khẳng định sức
sống và tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng tiến bộ nhất của loài
người trong thời đại ngày nay. Các nước XHCN hiện nay trong tư cách bộ phận nòng
cốt của PTCSQT, đang năng động hoàn thiện mô hình, con đường đi lên xây dựng
CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước. Với thành tựu đạt được trong xây
dựng CNXH, họ tăng cường được sức mạnh quốc gia, trở thành các chủ thể quan hệ
quốc tế không thể không tính đến trong cán cân so sánh lực lượng thế giới, góp phần
to lớn vào cuộc đấu tranh vì những mục tiêu mang tính thời đại là hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các ĐCS cầm quyền cũng đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn xây dựng
và bảo vệ CNXH ở mỗi nước. Rút kinh nghiệm từ sự sụp đổ của một số nhà nước
3
XHCN và ĐCS, các ĐCS cầm quyền khẳng định kiên trì những nguyên tắc nền tảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới và phát triển sáng tạo lý luận về con đường đi lên
CNXH, tăng cường phát triển quan hệ giữa các nước XHCN trên nhiều lĩnh vực: chính

trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, an ninh quốc phòng. ĐCS Việt Nam cùng với ĐCS Trung
Quốc, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, ĐCS Cuba thường xuyên gặp gỡ cấp cao song
phương để trao đổi kinh nghiệm lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH, bày tỏ quan điểm
về nhiều vấn đề quốc tế cùng quan tâm...Sự lớn mạnh của các ĐCS cầm quyền trở thành
nhân tố hết sức quan trọng đối với tiến trình lịch sử của CNXH ở mỗi nước và trên thế
giới.
Trung Quốc sau ba thập kỷ cải cách, mở cửa và hiện đại hoá đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Với đường lối lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm và bắt đầu cải cách từ
lĩnhvực kinh tế, Trung Quốc liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao đứng đầu thế giới.
Thành công trong phát triển kinh tế đã tạo điều kiện tăng cường thực lực về mọi mặt.
Trên cơ sở tổng kết sâu sắc những thành tựu, kinh nghiệm cơ bản trong sự nghiệp cải
cách, mở cửa, ĐCS Trung Quốc trên quan điểm phát triển hài hòa, đẩy nhanh tiến trình
hiện đại hoá CNXH, phấn đấu mở ra cục diện mới cho sự nghiệp xây dựng CNXH
mang đặc sắc Trung Quốc.
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đã giành được thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Điều đó khẳng định sự lựa chọn mục tiêu, bước đi của đổi mới là thích hợp và sáng tạo.
Cùng với việc đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam không chỉ phát triển kinh tế nhanh,
mà còn giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng, mở rộng quan hệ quốc
tế. Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hướng tới
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Thêm một lần
nữa, bằng thành tựu của đổi mới, Việt Nam chứng tỏ tính đúng đắn của sự lựa chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Cách mạng và chế độ XHCN của Cuba tiếp tục được bảo vệ, củng cố bất chấp
những khó khăn thử thách do sự tan rã của hệ thống XHCN đưa lại. Từ năm 1993, ĐCS
Cuba tuyên bố và thực thi chính sách cải cách. Nhờ có bước đi thích hợp, cho nên trong
hoàn cảnh bị Mỹ xiết chặt bao vây cấm vận, nhưng Cuba vẫn thu được những kết quả
rất quan trọng, Nền kinh tế bắt đầu phát triển, những ưu việt vốn có của chế độ mới về
giáo dục, y tế, thể thao, khoa học - kỹ thuật,…được giữ vững; khả năng phòng thủ được
tăng cường, uy tín và ảnh hưởng trên trường quốc tế được nâng cao. Sự trụ vững và phát

triển của quốc đảo cách mạng Cuba đã và đang chứng minh sức sống của các giá trị
XHCN chính trong bước vận động phức tạp hiện nay của CNXH.
Mặc dù, CNXH hiện thực còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn sau sự sụp
đổ chế độ XHCN ở Đông Âu, Liên Xô, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất và
nội dung của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Nhìn từ xu thế
chung của sự phát triển của CNXH, thì thời kỳ khủng hoảng, thoái trào tuy đã diễn ra
gần hai thập niên và chưa được khắc phục hoàn toàn, song cũng chỉ là một giai đoạn có
tính tạm thời trong toàn bộ tiến trình cách mạng lâu dài của nhân loại đi lên xác lập chế
độ XHCN và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH hiện thực đã và đang
tiếp tục có những cống hiến xứng đáng, không thể phủ nhận đối với tiến bộ xã hội; đồng
thời trong tư cách một thực thể quốc tế, CNXH hiện thực đóng vai trò to lớn trong đời
sống quan hệ quốc tế.
Sự ra đời của CNXH hiện thực sau thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917 đã làm thay đổi sâu sắc bức tranh toàn cảnh của đời sống chính trị thế
giới hiện đại. Nước Nga Xô viết và sau đó là Liên Xô đã từng bước tham gia tích cực
vào hệ thống quan hệ quốc tế đương thời, đồng thời cũng khai sinh một kiểu quan hệ
4
quốc tế mới - quan hệ hoà bình, hữu nghị, độc lập, dân chủ, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác
bình đẳng cùng có lợi giữa các quốc gia dân tộc. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tiến
tới bình đẳng hoá hệ thống quan hệ quốc tế, công nhận quyền bình đẳng hoàn toàn của
tất cả các dân tộc, xây dựng một nền hoà bình thực sự chân chính, bền vững. Chính sách
đối ngoại và hoạt động ngoại giao hoà bình, hữu nghị của CNXH hiện thực được bắt
nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân (GCCN). Trên cơ sở này, các nước
XHCN có khả năng phát triển quan hệ quốc tế một cách đa dạng, đoàn kết quốc tế rộng
rãi, tập hợp lực lượng trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, sự trưởng thành và phát triển mọi mặt của
CNXH hiện thực đã đưa tới sự hình thành hệ thống XHCN làm thay đổi căn bản tương
quan so sánh lực lượng của thế giới nghiêng về phía có lợi cho hoà bình và cách mạng.
CNXH từ phạm vi một nước trở thành hệ thống thế giới hùng mạnh, xây dựng mối quan

hệ đoàn kết gắn bó mật thiết giữa các nước XHCN trên nền tảng của chủ nghĩa quốc tế
XHCN (thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế và khối Hiệp ước Vacsava), phát huy ảnh
hưởng ngày càng rộng khắp trên các châu lục. Với tương quan lực lượng này, CNXH
hiện thực đóng vai trò là lực lượng đối trọng trước CNTB, buộc CNTB và các thế lực đế
quốc phải thu hẹp trận địa, từng bước phải chấp nhận những nguyên tắc cơ bản trong
quan hệ quốc tế hiện đại là cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội khác
nhau, tôn trọng độc lập dân tộc, bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau… CNXH hiện thực trở thành lực lượng chủ yếu, là mũi tiến công quan trọng nhất
trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, tạo chỗ dựa vững chắc hậu thuẫn phong trào giải
phóng dân tộc và độc lập dân tộc; ủng hộ một cách hiệu quả phong trào đấu tranh của
GCCN và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa. Liên Xô vàc các nước
XHCN đã xác lập sự cân bằng lực lượng hạt nhân chiến lược, hình thành cấu trúc của hệ
thống quan hệ quốc tế theo hình thái trật tự thế giới hai cực, góp phần xứng đáng vào
cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới, ngăn chặn và làm thất bại những tham vọng
hiếu chiến của CNĐQ trên phạm vi toàn cầu.
Nếu như sự ra đời và phát triển của CNXH hiện thực đã tạo ra những thay đổi có ý
nghĩa bước ngoặt trọng đại đối với đời sống mọi mặt của thế giới, thì sự khủng hoảng
và thoái trào của nó từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX cũng tác động hết sức sâu sắc, toàn
diện đến thế giới và quan hệ quốc tế hiện đại. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh lạnh và trật tự thế giới hai cực chấm dứt khi chế
độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền
lực toàn cầu hoàn toàn bị đảo lộn. CNXH hiện thực lâm vào thoái trào đã đẩy cuộc
khủng hoảng của PTCSQT càng trở nên trầm trọng. Tương quan lực lượng thế giới
nghiêng hẳn về phía có lợi cho CNTB, CNĐQ; bất lợi đối với các lực lượng cách mạng
tiến bộ. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh lạnh diễn ra phức tạp
với nhiều yếu tố bất trắc, khó lường.
Trật tự thế giới hai cực mất đi làm giảm các cuộc xung đột bắt nguồn từ cuộc đối
đầu giữa CNXH và CNTB trước đây, nhưng đồng thời nó cũng làm mất đi cái giới hạn
kiềm chế đối với các xung đột khác, hoặc làm bộc lộ rõ nét và ngày càng gay gắt thêm
một số mâu thuẫn vốn tiềm ẩn. An ninh toàn cầu sau sự đổ vỡ của hệ thống XHCN trở

nên không chắc chắn. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu
thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra
ở nhiều nơi, nhất là tại khu vực các nước đang phát triển.
Triệt để lợi dụng ưu thế về so sánh lực lượng Mỹ tỏ rõ tham vọng độc tôn “lãnh
đạo” thế giới. Càng về những năm gần đây, đặc biệt từ khi G.W Bush trở thành tổng
thống, chính quyền Mỹ càng ráo riết thi hành một chính sách đơn phương mang nặng
5
tính vị kỷ, bất chấp sự phản đối của nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Mỹ cố tình
lảng tránh, thậm chí đã thẳng thừng chối bỏ hàng loạt cam kết quốc tế như: rút khỏi
Nghị định thư Kyoto về giảm thải khí gây “hiệu ứng nhà kính”; trì hoãn phê chuẩn Hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CBBT); ngăn cản thực thi Công ước cấm vũ khí
sinh học; đơn phương rút khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM) ký năm 1972 với
Liên Xô trước đây; tích cực xúc tiến kế hoạch xây dựng Hệ thống phòng thủ tên lửa
quốc gia (NMD), gây sức ép, khống chế Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác
phục vụ lợi ích của Mỹ v.v... Mặt khác, Mỹ đưa ra và thực thi chiến lược an ninh quốc
gia mới “đánh đòn phủ đầu”, lợi dụng chống khủng bố quốc tế để tăng cường hoạt động
áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia có chủ quyền.
Như vậy, hệ thống XHCN tan rã khiến cho CNTB chiếm lĩnh đa phần thế giới và
trong lúc không còn địch thủ đáng gờm phải đối mặt, CNĐQ đứng đầu là đế quốc Mỹ
càng ráo riết bành trướng thế lực, đẩy mạnh thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách
mạng, mưu toan thao túng hoàn toàn thế giới trong quỹ đạo của mình. Một mặt, Mỹ và
các thế lực đế quốc gia tăng “Diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ các nước XHCN còn
lại, tăng cường áp lực khống chế các nước thuộc “thế giới thứ ba”; mặt khác, đẩy mạnh
hoạt động chống phá các ĐCS và các phong trào dân chủ, tiến bộ ở các nước tư bản
phát triển (TBPT). Biểu hiện rõ nhất là sau chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ ngày càng tung
hoành ngang ngược với vị thế siêu cường duy nhất, can thiệp trắng trợn vào công việc
nội bộ nhiều nước. Mỹ đã phát động liên tiếp 3 cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa khác
nhau chống Liên bang Nam Tư, Apganistan và Irắc bất chấp Hiến chương Liên hợp
quốc, luật pháp quốc tế cũng như làn sóng phản đối mạnh mẽ của công luận quốc tế.
Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới đã thay

đổi nhanh chóng và cơ bản, bắt nguồn từ những biến đổi về so sánh lực lượng giữa
CNXH và CNTB. Hơn 4 thập niên kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cuộc đối đầu
giữa hai siêu cường Xô - Mỹ đã đưa nhân tố chính trị - quân sự, ý thức hệ tư tưởng trở
thành tiêu chí quan trọng hàng đầu, quy định cách thức tập hợp lực lượng thế giới. Quan
niệm “bạn - thù” cũng trở nên rạch ròi, lợi ích quốc gia - dân tộc phục tùng nghiêm ngặt
lợi ích của phe, của hệ thống mà quốc gia - dân tộc đó tham gia. Sau khi Liên Xô và hệ
thống XHCN tan rã, phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới trở nên đa đạng và linh
hoạt. Lợi ích quốc gia - dân tộc, trước tiên là lợi ích kinh tế, nổi lên hàng đầu chi phối
các quan hệ quốc tế hiện đại và quan điểm chính sách đối ngoại của các nước.
Trước đây, CNXH hiện thực với tư cách chế độ xã hội đối trọng với CNTB và
bằng thực lực hùng mạnh đã buộc CNTB phải thu hẹp vòng cương tỏa ở nhiều nơi trên
thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các ĐCS và nhân dân lao động
thế giới chống CNĐQ, vì hoà bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội, hình thành một
mặt trận rộng rãi chống đế quốc, bảo vệ hoà bình thế giới với nòng cốt là các nước
XHCN. Do đó. sự đổ vỡ của hệ thống XHCN làm cho CNTB không còn phải quá lo
ngại trước CNXH hiện thực trong vai trò một lực lượng đối địch chủ chốt, nên có điều
kiện tập trung đối phó với những thách thức bên trong, gia tăng cuộc phản kích chống
phá các ĐCS, phong trào độc lập dân tộc và phong trào dân chủ tiến bộ với những thủ
đoạn thâm độc, xảo quyệt hơn.
Trong bối cảnh mới của cục diện thế giới sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu
và Liên Xô, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong các nước đang
phát triển không còn nhận được sự ủng hộ, hậu thuẫn cả về vật chất và tinh thần từ
CNXH. Hầu hết các quốc gia lựa chọn định hướng XHCN đều rơi vào tình trạng xung
đột gay gắt về chính trị, nội chiến kéo dài. Còn các đảng phái có khuynh hướng tiến bộ
cầm quyền ở các nước chậm phát triển bị lung lay, chao đảo do sức ép ngày càng lớn
của các vấn đề kinh tế - xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch, thậm chí không ít
6
đảng bị gạt ra khỏi vị trí cầm quyền. Phong trào độc lập dân tộc đứng trước nhiều nguy
cơ tiềm tàng và bị đặt trước những thử thách khắc nghiệt. CNTB từ chỗ trước đây phải
ít nhiều tranh thủ các nước "ngoại vi" thuộc thế giới thứ ba, nay chuyển sang thi hành

chính sách tăng cường chi phối, áp đặt và thâm nhập trực tiếp về mọi mặt đối với những
nước này, đe doạ nghiêm trọng chủ quyền quốc gia và nền độc lập của họ trên mọi
phương diện.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay cùng với việc phải đối phó trước sự gia tăng
cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc và xu hướng hình thành các trung tâm quyền
lực quốc tế mới, Mỹ còn đứng trước những thách thức nan giải do sự bất ổn định ở một
số khu vực trên thế giới có ảnh hưởng đến lợi ích thiết yếu của họ, sự trỗi dậy của chủ
nghĩa khủng bố quốc tế và các mối đe dọa xuyên quốc gia khác. Quá trình triển khai
chiến lược toàn cầu của Mỹ đối với phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới sau
chiến tranh lạnh diễn ra không như Mỹ dự kiến. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
tuy chưa hoàn toàn vượt qua khủng hoảng, nhưng có những dấu hiệu phục hồi rõ nét.
Các nước xã hội chủ nghĩa không chỉ tiếp tục đứng vững, mà còn giành được nhiều
thành tựu quan trọng trong cải cách, đổi mới và nâng cao vị thế quốc tế. Các nước này
do nâng cao được vị thế quốc tế của mình ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng
của các quan hệ quốc tế hiện đại, chủ động đổi mới chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, hội nhập một cách hiệu quả
thiết thực với khu vực và thế giới. Mặt khác, làn sóng cánh tả lan rộng ngay tại khu vực
Mỹ Latinh vốn được coi là “sân sau” của Mỹ.
Những chuyển động tích cực của phong trào cộng sản, công nhân và cánh tả trên thế
giới, những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế đạt được của các
nước xã hội chủ nghĩa đang tác động nhiều mặt đến cấu trúc mới của hệ thống quan hệ
quốc tế hiện đại. Điều đó đang đóng góp vào quá trình hình thành một trật tự quốc tế
mới theo hướng thật sự dân chủ, công bằng và cùng phát triển, cũng như vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Toàn bộ tình hình nêu trên làm cho không gian địa- chính trị và ảnh hưởng của chủ
nghĩa xã hội được củng cố. Đây thực sự là một nhân tố có ý nghĩa quan trọng, không thể
không tính đến trong tương quan lực lượng thế giới hiện nay.
7
MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY


Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi,
trải nghiệm và liên tục đổi mới tư duy của Đảng trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới tư
duy đối ngoại để hoạch định và triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, có vị trí quan trọng nổi bật. Nhờ vậy, quan
hệ quốc tế của nước ta được mở rộng, vị thế của đất nước ta trên thế giới không ngừng
củng cố và nâng cao, tạo điều kiện kết hợp một cách hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong đổi mới đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Về tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc và nhiệm vụ đối ngoại
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng
ta được hoạch định là sự kết tinh của cả một quá trình trăn trở đổi mới tư duy về đối
ngoại trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc, sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối đó bao hàm nhiều nội dung
phong phú, thể hiện một hệ thống các chủ trương, quan điểm của Đảng để chỉ đạo toàn
bộ hoạt động trên lĩnh vực quốc tế của nước ta thời kỳ đổi mới.
Theo đó, quan điểm đa phương hóa được nhận thức là mở rộng quan hệ với nhiều
nước, nhiều đối tác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, không phụ
thuộc vào sự khác biệt về chính trị, xã hội. Đa dạng hóa hàm nghĩa, một mặt là mở rộng
quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực như: chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, khoa
học - kỹ thuật và các lĩnh vực khác; mặt khác là phát triển quan hệ theo nhiều kênh đối
ngoại: từ ngoại giao Nhà nước đến đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân, nhằm phát
huy cao nhất sức mạnh đối ngoại tổng hợp phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đổi mới thắng
lợi.
Trong hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại, Đảng ta và Nhà nước ta rất chú
trọng việc xác định và làm rõ tư tưởng chỉ đạo đối với hoạt động đối ngoại. Có tư tưởng
chỉ đạo đúng đắn, hoạt động đối ngoại sẽ được định hướng đúng để có thể đạt được lợi
ích đối ngoại và mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại. Do đó, tư tưởng chỉ đạo
đối ngoại trước hết phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế

và từ mục tiêu đối ngoại của đất nước. Mặt khác, tư tưởng chỉ đạo đối ngoại phải được
xác định sao cho vừa thể hiện được sự kiên định các vấn đề có tính nguyên tắc, vừa đảm
bảo tính linh hoạt nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong quá trình triển
khai thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại.
Đối với Việt Nam trong quá trình đổi mới, lợi ích quốc gia dân tộc cơ bản, chân
chính và cao nhất về đối ngoại, được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ là giữ vững hoà
bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho
sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Lợi ích đối ngoại của nước ta cũng
được thể hiện trong mục tiêu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đó
là: tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại đã được xác định, Đảng ta ngay từ Hội
nghị Trung ương 3 (khóa VII) đã đề ra tư tưởng chỉ đạo của đường lối đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa là: "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ
8

×