Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tính hai mặt của không gian truyện cổ tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.23 KB, 14 trang )

TÍNH HAI MẶT CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRUYỆN CỔ TÍCH
Nguyễn Việt Hùng
Không gian nghệ thuật (KGNT) là khái niệm của thi pháp học chỉ “hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, là sự mô hình hoá thế giới của tác giả. KGNT trong tác phẩm mang
tính biểu trưng và quan niệm” [6/120]. Do đó, thông qua việc tìm hiểu KGNT, chúng ta có
thể hiểu được quan niệm thẩm mĩ, trình độ tư duy cũng như tâm lí sáng tạo của con người ở
những thời điểm và địa điểm mà tác phẩm ra đời.
Khái niệm KGNT đã được ứng dụng để tìm hiểu nhiều loại hình văn học khác nhau,
trong đó có truyện cổ tích (TCT). Việc áp dụng một phương diện tiêu biểu của thi pháp học
vào một đối tượng lớn và quen thuộc như truyện cổ tích đã đem lại nhiều thành tựu. Những
nhà nghiên cứu, nhà thi pháp học đã đưa ra nhiều nhận định về đặc điểm của KGNT truyện
cổ tích và quan đó phần nào tìm hiểu được tư tưởng, quan niệm của nhân dân về thế giới,
về cuộc sống và về chính bản thân con người.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu người Nga - Likhchep đã dành nhiều công sức cho việc
khảo sát tư liệu văn học Nga cổ, trong đó có phần lớn TCT. Ông đã đưa ra nhận xét
“KGNT của TCT Nga mang tính không chống đối (cản trở) của môi trường vật chất, tức là
tính siêu dẫn của KG [6/124]. Trong KGNT đó “nhân vật di chuyển, giao tiếp không bị trở
ngại”, kể cả “những trở ngại về mặt tâm lí”. Các nhà nhiên cứu văn học dân gian (VHDG)
Việt Nam, bằng con đường thi pháp học (qua các công trình cụ thể của Đỗ Bình Trị, Lê
Trường Phát [3/40] đều thống nhất ở quan niệm: TCT xây dựng hai loại không gian chủ
yếu là “không gian trần thế và không gian kì ảo”. Đây là hai khái niệm cơ bản và được ứng
dụng nhiều nhất khi nghiên cứu về KGNT truyện cổ tích (các luận văn, luận án tìm hiểu về
KGNT truyện cổ tích thường khai thác theo hướng “Không gian kì ảo…”) Có thể nói rằng,
những nhà nghiên cứu quan tâm đến truyện cổ tích đã đưa ra những khái niệm của riêng
mình, hoặc dựa vào khái niệm của người đi trước để chứng minh những đặc điểm của
KGNT truyện cổ tích. Sự mở rộng các khái niệm KGNT của TCT là cần thiết nhưng thiết
nghĩ chúng ta cũng nên nhìn lại để có sự đánh giá khái quát hơn, xây dựng một quan niệm
chung trong một chừng mực nhất định có thể bao trùm lên phạm vi nghiên cứu (KGNT
TCT).
Chính vì vậy, chúng tôi muốn đặt vấn đề khái quát đặc điểm của KGNT truyện cổ tích
dựa trên thành quả nghiên cứu của những tác giả đi trước, đặc biệt là từ gợi ý trong công


trình của V.Ia. Prôp [5/235]. Bằng cái nhìn biện chứng xem xét đối tượng, chúng tôi đưa ra
nhận định như sau: KGNT của truyện cổ tích mang tính chất hai mặt. Các đặc điểm của
KHNT truyện cổ tích là những đặc điểm vừa thống nhất vừa đối lập với nhau, ví dụ như :
- Không gian kì ảo và không gian hiện thực
- Không gian cản trở và không gian phi cản trở
- Không gian điểm và không gian tuyến tính
Trong mỗi cặp không gian trên đều có sự đối lập với nhau nhưng đồng thời chúng lại
thống nhất với nhau. Bởi vì đó là các phương diện của không gian nghệ thuật, làm nên
chỉnh thể không gian truyện cổ tích mà thiếu đi một trong hai vế thì đối tượng không toàn
vẹn và không còn là “mô hình về thế giới” của thể loại, đồng thời, chúng ta cũng không có
cái nhìn đầy đủ về KGNT của truyện cổ tích. Chúng tôi xem xét vấn đề dựa trên tư liệu
TCT thần kì người Việt. Sau đây, chúng tôi trình bày những quan niệm cơ bản về các loại
hình không gian đã đề cập ở trên:
1. Không gian kì ảo và không gian hiện thực
Không gian hiện thực là không gian của cuộc sống trần thế, biểu hiện cụ thể trong
truyện cổ tích người Việt là không gian làng quê. Dấu ấn làng quê Việt Nam in đậm trong
nhiều truyện cổ tích, “đem lại cho thế giới cổ tích hơi ấm nhân sinh, màu sắc dân tộc, dân
dã” [3/45]. Đặc điểm này cho thấy, truyện cổ tích người Việt là sản phẩm tinh thần đích
thực của nhân dân lao động, mang đậm thế giới quan, cách nhìn của người nông dân. Màu
sắc cung đình, những dấu hiệu của triều đại phong kiến ít có mặt trong truyện cổ tích người
Việt. Khi khảo sát cấu trúc TCT người Việt theo lí thuyết hình thái học TCT của Prôp, hai
tác giả Trần Đức Ngôn và Tăng Kim Ngân gặp gỡ nhau ở nhận định: TCT người Việt ít có
loại nhân vật vua, công chúa, hoàng tử (nếu có thì cũng không phải là nhân vật chính)
[2/141]. Điều này khác với tư liệu TCT dân tộc Chăm (có lẽ do dấu ấn của các vương triều
Chămpa cổ). Thậm chí, ở TCT người Việt, những dấu hiệu của cung đình cũng bị dân dã
hoá một cách triệt để: cung vua có sào, bờ rào phơi quần áo, khung cửi, xoan đào mắc
võng, nhà vua ghé quán nước ăn trầu (“Tấm Cám”); ông vua gánh hành rao bán (“Lọ nước
thần”)… Đó là khung cảnh của làng quê Việt Nam mà ai cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Trong TCT người Việt, ít có sự lộng lẫy tráng lệ màu sắc của không gian cung đình mà
nổi bật lên vẫn là không gian làng quê. Thậm chí trong những truyện có nhiều chặng thử

thách đặt ra với nhân vật như Người lấy cóc thì anh học trò và vợ trải qua rất nhiều thử
thách nhưng bối cảnh chỉ diễn ra trong làng quê của nhân vật: từ nhà đến cánh đồng, đến
trường học. Với kiểu truyện về cuộc hành trình đi tìm hôn nhân của nhân vật thì TCT
thường có xu hướng mở rộng không gian để thấy được tính chất li kì hấp dẫn cũng như
những khó khăn, trở ngại trên con đường tìm kiếm hạnh phúc của con người. Trong ví dụ
trên và nhiều TCT người Việt, chúng ta không thấy có những biểu hiện đó.
Nhưng dù đó là không gian làng quê mang tính hiện thực thì đó cũng không phải là bản
thân hiện thực. Bởi vì, khi đi vào tác phẩm văn học, những chi tiết đã trở thành những tín
hiệu thẩm mĩ; không gian xác định bằng toạ độ, bằng kích thước, vị trí cụ thể ngoài cuộc
sống trở thành KGNT và do đó nó mang tính biểu trưng và ước lệ. Không gian hiện thực đó
cũng có nghĩa là KG của sự sống, nơi diễn ra các hoạt động của con người. Dù trong không
gian ấy có đau khổ, áp bức, bất công và nhân dân không thực hiện được ước mơ của mình
(thường là không gian kì ảo mới là nơi gửi gắm và thực hiện những ước mơ của con người
– sẽ trình bày ở phần sau) nhưng con người phải chấp nhận. Và ở đây chúng ta thấy một
khía cạnh thú vị trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm của thời đại truyện cổ tích: con
người chấp nhận thực tại, đấu tranh với hiện thực khốc liệt để khẳng định bản chất
“NGƯỜI” của mình. Đó là trường hợp Từ Thức từ cõi tiên về trần thế, chấp nhận tuổi già
và cô đơn vì nơi đó có gia đình, làng xóm, có cuộc đời thực của anh ta; là chàng Ngưu dẫn con
về trần gian; là những nhân vật thần tiên chấp nhận đánh đổi sự trường sinh ở trên trời để làm con
người bình thường nơi trần thế. Thậm chí, người vợ trong “Sự tích con sam” không giấu nổi nỗi
vui sướng khi tìm được chồng, đưa về quê nhà, để đến nỗi vi phạm điều cấm kị khiến hai vợ
chồng đều chết… Nhưng vượt qua những đau khổ, mất mát, họ hướng tới cuộc sống thực tại, trở
về không gian đời thường vì ở đó có tình yêu thương của con người. Đó là quan niệm hết sức sâu
sắc và giàu giá trị nhân văn của TCT.
Tính quan niệm của không gian làng quê trong TCT cũng được khẳng định ở một
phương diện khác: không gian làng quê gắn với sự sống, yên ổn (dù là tạm thời). Bởi vì
không gian xa xôi cũng gắn với sự bất trắc, là dấu hiệu của tai họa và cái chết: ba anh em
trong “Trầu cau” ra đi khỏi nhà dẫn tới cái chết; Thủ Huồn ra đi đến Âm phủ; Thạch Sanh
đi khỏi gốc đa là đối diện với nguy hiểm, lừa lọc; Cuội đi làm xa nhà dặn vợ những bất trắc
có thể xay ra ở nhà; Sọ Dừa ra đi dự cảm được những tai họa sắp đến; con quạ mang bức

tranh đi xa (sang KG khác) gây tai họa cho hai vợ chồng (Lọ nước thần)… Nhân vật của
TCT dường như thuộc về một không gian nhất định mà KG đó quy định đặc điểm, tính
cách cũng như quyết định số phận của nhân vật. Con người có sự hài hoà với KG thân
thuộc. Cho nên, sau khi gặp nhiều tai họa ở trong cung, Tấm trở về quán nước bà lão và tìm
thấy sự yên bình trong cuộc sống nơi thôn dã đó.
Bên cạnh không gian hiện thực, TCT xây dựng một kiểu KG mang tính đặc trưng là
KG kì ảo. Không gian kì ảo là sự sáng tạo mang tính nghệ thuật của con người nhưng chịu
sự chi phối của những quan niệm tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là quan niệm về tính nhiều tầng
của thế giới: Thế giới Thiên đình, Thuỷ phủ, Âm phủ… Những hình thức không gian đó
không tồn tại trong thực tế nhưng nó tồn tại trong ý thức, trong quan niệm của con người,
nó mang tính chất biểu trưng, đúng như Gurevich đã nhận xét: “Đôi khi chúng ta không ý
thức được rằng thời gian và không gian không chỉ tồn tại một cách khách quan, chúng còn
được con người ý thức và thể nghiệm một cách chủ quan”… Những khái niệm không gian
bao giờ cũng bị quy định bởi nền văn hoá của nó” [1/31]. Do đó, bên cạnh KG hiện thực,
KG kì ảo cũng thể hiện được những yếu tố về tư duy, quan niệm và ước mơ của nhân dân
lao động.
Thứ nhất, KG kì ảo là những ước mơ, khát vọng của con người. Ở đó có hạnh phúc và
sự bất tử (Từ Thức), có những vật báu kì diệu đem lại hạnh phúc (cây đàn trong Thạch
Sanh), có vàng bạc châu báu đem lại sự giàu sang (hòn đảo trong “Cây khế”)… Nói chung
là ở thế giới kì ảo con người có thể tìm được tất cả những điều tốt đẹp, sung sướng mà họ
không bao giờ có được ở thế giới hiện thực.
Thứ hai, KG kì ảo là thước đo phẩm chất của con người. Chính vì KG kì ảo là nơi chứa
đựng những ước mơ giàu sang, hạnh phúc của con người cho nên không phải ai cũng có thể
đến được KG đó. Chỉ có những người đã qua thử thách, bộc lộ được phẩm chất tốt đẹp,

×