Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận Cao học môn Phương pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.14 KB, 21 trang )

1
MỞ ĐẨU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ thiên tài, một chiến sĩ cộng sản,
một danh nhân văn hóa thế giới. Người ra đi nhưng đã để lại cho chúng ta một
tấm gương sáng ngời về tình yêu đất nước và tinh thần quốc tế trong sáng, về
đạo đức cách mạng và lối sống, tác phong làm việc, sinh hoạt. Đối với phong
cách Hồ Chí Minh, ngay những người nước ngoài, dù Phương Đông hay
Phương Tây cũng đều không cảm thấy xa lạ. Trong phong cách Hồ Chí Minh,
không phải chỉ có những gì thuộc về dân tộc và truyền thống mà còn có cả
tính hiện đại và tổng hợp tinh hoa các nền văn hoá; không phải chỉ có quá
khứ, hiện tại, mà còn có cả tương lai.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong
cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ. Theo Người, phong cách làm việc
của đội ngũ cán bộ có vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước thấm sâu vào “tâm lý quốc dân” và đi vào cuộc sống. Biến
nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hành động của quần chúng,
tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Phong cách làm việc là tổng hợp
những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để vận
dụng các kiến thức, tri thức khoa học vào thực tiễn đem lại hiệu quả. Đây là
yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về phong cách làm việc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, em lựa chọn đề tài: “Vận dụng phong cách làm việc Hồ
Chí Minh vào việc xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” làm tiểu luận kết thúc môn học Phương
pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí Minh, Chương trình Cao học chuyên
ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.


2
B. NỘI DUNG


1. Một số vấn đề chung về phong cách làm việc Hồ Chí Minh
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm phong cách
Phong cách là khái niệm đã được bàn đến từ lâu ở phương Đông và
phương Tây. Phong cách được hiểu theo hai nghĩa sau:
Thứ nhất, hiểu theo nghĩa hẹp phong cách là đặc điểm, cách thức sáng
tạo riêng thể hiện ở các tác phẩm (công trình) văn hoá, nghệ thuật của một tác
giả, một nghệ sĩ, một thời đại một xứ sở.
Thứ hai, hiểu theo nghĩa rộng phong cách gắn với toàn bộ con người,
còn được gọi là phong cách con người được thể hiện qua phong độ, phong
thái, phẩm cách của con người, được hiểu như là các nguyên tắc điều chỉnh
hành vi của mỗi con người hoặc một lớp người và trở thành thói quen, nề
nếp ổn định khi suy nghĩ, diễn đạt và hành động trong thực tế. Phong độ là
dáng vẻ, sắc thái bề ngoài. Phẩm cách là cách ứng xử, giao tiếp, cung cách
hoạt động, thể hiện những phẩm chất về tư tưởng, tình cảm, nội tâm bên
trong của con người.
Phong cách hình thành và chịu tác động của các điều kiện tự nhiên, môi
trường, văn hoá, xã hội và kinh tế... qua các thời kỳ phát triển của lịch sử,
phong cách người Việt Nam không giống phong cách người Trung Hoa và
khác với phong cách người Pháp, người Mỹ. Ngay trong một quốc gia cũng
có thể có phong cách khác nhau.
Phong cách cũng được hình thành và chịu tác động của truyền thống,
tập quán, thói quen do hoàn cảnh sống của người đó quy định, đồng thời nó
mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Con người có thể tiếp thu những truyền thống tốt,
tập quán đẹp và khắc phục thói quen xấu ở mức độ như thế nào hoàn toàn phụ
thuộc vào trình độ và khí chất của người đó. Cùng một hoàn cảnh sống như
nhau nhưng ở từng người có phong cách không hoàn toàn giống nhau.


3

Phong cách có liên quan chặt chẽ với đạo đức, song phong cách không
phải là đạo đức mà là những phẩm chất đạo đức được nhận thức và được thể
hiện ra trong hoạt động sống của con người. Nói phong cách khiêm tốn, giản
dị chính là phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính được con người nhận
thức và thể hiện trong cuộc sống đời thường. Song mức độ khiêm tốn giản dị
cũng khác nhau ở những con người khác nhau.
Phong cách của mỗi người còn chịu ảnh hưởng của các điều kiện về tư
chất cá nhân; thế giới quan, nhân sinh quan; hệ tư tưởng. Với người cộng sản
thì đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng cầm quyền cũng ảnh hưởng
đến phong cách của họ.
1.1.2. Khái niệm phong cách Hồ Chí Minh
Khi tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà
nghiên cứu đã khái quát phong cách Hồ Chí Minh ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam
điển hình nhất với cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí mẫn tuệ, cái
hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ, một chiến sĩ cộng sản chân
chính, công dân số một của Việt Nam.
Thứ hai, phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người anh hùng
giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại.
Phong cách Hồ Chí Minh không phải chỉ để cho mọi người ca ngợi,
chiêm ngưỡng, sùng bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập.
Không phải chỉ người Việt Nam, từ lao động chân tay đến người lao động trí
óc, từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các
chính khách, thương gia đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính
mình, mà cả người nước ngoài ở phương Đông hay phương Tây cũng cảm
thấy gần gũi, không xa lạ với phong cách Hồ Chí Minh.
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng, giá trị phong phú trong
toàn bộ cuộc sống và hoạt động của Người. Phong cách Hồ Chí Minh mang



4
đậm dấu ấn cá nhân Hồ Chí Minh và gắn liền với giá trị tư tưởng, đạo đức của
Người. Đó là phong cách của một nhân cách lớn, siêu việt, với trí tuệ lỗi lạc,
đạo đức trong sáng; là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản lỗi
lạc, một nhà văn hoá lớn. Phong cách Hồ Chí Minh có nội hàm rộng lớn,
được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một
chỉnh thể nhất quán, có giá trị to lớn về khoa học, đạo đức, thẩm mỹ và mang
giá trị nhân văn rộng lớn.
Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, phát triển theo lôgíc đi từ
suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện
ra qua hoạt động sống hàng ngày (phong cách làm việc, phong cách ứng xử,
phong cách sinh hoạt).
1.1.3. Khái niệm phong cách làm việc Hồ Chí Minh
Khi nói đến phong cách làm việc, ta thường hiểu đó là tổng hợp những
phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để vận dụng các
kiến thức, tri thức khoa học vào thực tiễn đem lại hiệu quả.
Trong cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh đã từng làm nhiều
việc để sống và hoạt động cách mạng, đảm nhận những trọng trách, công việc
khác nhau của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Điều mà Hồ Chí
Minh quan tâm là lối làm việc của người cách mạng, của chiến sĩ cộng sản
suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách thức
làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là
quần chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã tác động
vào quần chúng nhân dân bằng một tác phong rất sâu sát, với cách thức phù
hợp để phát huy cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự
thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân lãnh
tụ và quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ phẩm chất đạo
đức cách mạng trọn đời vì dân của Hồ Chí Minh.



5
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (viết năm 1947), Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần
chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào
không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi
hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có
sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo
cáo sau, miễn là được việc"1. Người nhấn mạnh: "Cách làm việc, cách tổ
chức... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ trong quần
chúng ra. Về sâu trong quần chúng"2.
1.2. Nội dung phong cách làm việc Hồ Chí Minh
Trong phong ách làm việc của mình, Hồ Chí Minh lưu tâm trước hết
đến phong cách công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Về
mặt này, Người đã để lại cho chúng ta nhiều giáo huấn quan trọng với những
nội dung phong phú thể hiện ở các nội dung sau:
1.2.1. Phong cách làm việc quần chúng
Đây là nội dung quan trong hàng đầu của phong cách làm việc Hồ Chí
Minh, được thể hiện bằng những hành động cụ thể như: Sâu sát quần chúng,
chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt
đời sống của quần chúng; Tin vào nhân dân, tôn trọng nhân dân, chú ý lắng
nghe những kiến nghị chính đáng của nhân dân, sẵn sàng tiếp thu ý kiến nhân
dân phê bình và kịp thời sửa chữa những khuyết điểm thiếu sót; Giáo dục lãnh
đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần chúng, tôn trọng quyền
làm chủ của quần chúng theo tinh thần cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân; Tự mình phải mẫu mực để xứng đáng
với sự tin cậy của nhân dân.
Với phong cách đó, Hồ Chí Minh đến với nhân dân một cách tự nhiên,
bình dị, quần chúng đến với Người cũng bình dị, tự nhiên, không chút e ngại

1
2

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 246.
Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 248.


6
như họ vẫn sống hàng ngày. Tác phong quần chúng đã làm cho Hồ Chí Minh
và nhân dân, lãnh tụ và quần chúng hoà nhập, đồng cảm sâu sắc. Nhân dân có
thể nói hết suy nghĩ, trăn trở của mình với lãnh tụ, còn lãnh tụ có thể nghe
được, hiểu được những gì và cuộc sống đang đòi hỏi, mong chờ.
Theo Hồ Chí Minh, không chỉ quan hệ giữa cán bộ với nhân dân mà
quan hệ giữa cán bộ với cán bộ, cấp trên với cấp dưới cũng cần thiết phải có
tác phong quần chúng. Đối với người lãnh đạo cấp trên, việc hiểu dân và hiểu
cấp dưới đều quan trọng như nhau. Hiểu được dân và hiểu được cấp dưới,
người lãnh đạo cấp trên càng hiểu được chính mình. Theo đó, Bác luôn nhắc
nhở cán bộ cần học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng, tránh
việc quần chúng nói gì ta cũng nghe, cũng quyết định và nhắm mắt làm theo.
Do đó, người cán bộ phải thực sự hòa mình với quần chúng, lắng nghe, thấu
hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng; đồng thời, phải nắm
chắc đặc điểm, tình hình, điều kiện của cơ quan, đơn vị mình để giải quyết
cho thấu tình, đạt lý và có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng
sát, đúng, tránh sa vào quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt, hành chính.
1.2.2. Phong cách làm việc tập thể, dân chủ
Phong cách làm việc tập thể, dân chủ là một điểm nổi bật trong phong
cách làm việc Hồ Chí Minh. Là một người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng
đầu Nhà nước, ở đỉnh cao của quyền lực nhưng Hồ Chí Minh thường xuyên
có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Gắn bó với tập thể, tôn trọng tập
thể, phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo suy nghĩ và hành

động của Hồ Chí Minh.
Người cho rằng, thực hành dân chủ là luôn tuân thủ nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách; tôn trọng
quyết định của tập thể và biết lắng nghe, tiếp thu những ý kiến hợp lý của cá
nhân. Đó là phong cách làm việc thống nhất, khoa học của người cán bộ để
quy tụ sức mạnh tổng hợp, sự đoàn kết, thống nhất trong thực hiện chức trách,


7
nhiệm vụ; nếu không làm được như vậy thì tất nhiên sẽ có kết quả ngược lại.
Tuân thủ quyết định của tập thể, nhưng đòi hỏi người cán bộ phải năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tức là phải có dũng khí,
quyết đoán thì mới tổ chức thực hiện tốt công việc được giao.
Phong cách làm việc dân chủ đối lập hoàn toàn với kiểu làm việc áp
đặt, mệnh lệnh hành chính, độc đoán, chuyên quyền, chủ quan duy ý chí hoặc
dân chủ hình thức, cực đoan, tùy tiện, tự do vô tổ chức. Hồ Chí Minh đã cảnh
báo rõ hiện tượng mất dân chủ, không tôn trọng tập thể của cán bộ, nhất là
người đảm nhiệm chức vụ, quyền hạn cao trong hệ thống chính trị: “Lãnh
đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả
là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ dẫn đến cái tệ bừa bãi lộn
xộn, vô chính phủ. Kết quả là cũng hỏng việc”3.
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi cán bộ, đảng viên trước hết là những người
lãnh đạo phải có tác phong tập thể dân chủ thực sự. Bởi vì, mọi sự giả tạo đều
làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn
sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.
1.2.3. Phong cách làm việc khoa học.
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình “cách
làm việc khoa học” trong công tác, trong lãnh đạo. Bởi vì họ đều xuất thân từ
một nước với những tàn dư của một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu,
làm việc theo lối “thủ công nghiệp”, với hàng loạt thói quen thiếu khoa học.

Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu ở
những điểm như: Làm việc cần phải “đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên cứu”
nắm việc, nắm người, nắm tình hình cụ thể; Làm việc phải có mục đích rõ
dáng, tập trung, chương trình kế hoạch đặt ra phải sát hợp; Làm việc phải
kiểm tra việc thực hiện của cáp dưới và quần chúng; Lãnh đạo phải cụ thể,
phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm, phải nắm điển hình và cần
3

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 505.


8
phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể; Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm,
tổng kết thực tiễn.
Hồ Chí Minh căn dặn: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có
vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ
hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều, chớ gặp sao làm vậy” 4. Người còn nhắc
nhở: “Con mắt ta nhìn xã hội cũng phải khoa học”5; cần sử dụng phương pháp
so sánh sự việc, hiện tượng theo thời gian, không gian, tính chất để làm rõ bản
chất, có như vậy mới xây dựng được giải pháp thực hiện phù hợp.
Phong cách làm khoa học của Hồ Chí Minh, đối lập hoàn toàn với lối
làm việc chủ quan, cảm tính, tự do, tùy tiện, mắc “bệnh cận thị”, không thấy
xa trông rộng; những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những
việc cụ thể, dẫn đến giải quyết công việc kém hiệu quả. Những người như
vậy, theo Bác, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ mà không thấy sự lợi hại lớn; chỉ
thấy nhiệm vụ trước mắt mà không thấy tính lâu dài của công việc.
1.2.4. Phong cách làm việc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi
đôi với làm, nêu gương trước cấp dưới.
Về điều này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Mọi lời nói, việc
làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm

nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành
động”6. Trong xử lý công việc, Người thường phê phán những cán bộ chỉ
biết nói là nói, nói “tràng giang đại hải”, nhưng một việc gì thiết thực cũng
không làm được.
Vì vậy, Người yêu cầu cán bộ “nói ít, bắt đầu bằng hành động”, “tốt
nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”. Đồng thời,
luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời đã nói, việc đã làm, để phát triển
điều hay, sửa đổi khuyết điểm; phải hoan nghênh người khác phê bình mình,
4

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 239.
Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 298.
6
Phạm Văn Đồng - Hồ Chí Minh - Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà
Nội 1990, tr. 64-65.
5


9
kiên quyết loại trừ bệnh “hữu danh, vô thực” và chính Người là hiện thân “nói
đi đôi với làm”, nêu gương trước quần chúng.
2. Yêu cầu khách quan phải xây dựng phong cách làm việc cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới
2.1. Bối cảnh của việc xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý
2.1.1. Bối cảnh quốc tế
Tình hình thế giới hiện có nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh
tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước

lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt
trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh
hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh
tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và
các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ
quốc tế. Các thể chế đa phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước
đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội
và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập
hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và
khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra rất phức tạp.
Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an
ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có
nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết
liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là
an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.


10
Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn
có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất
ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất
lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc
gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều
chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại,
tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng

cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh
tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song
phương, đa phương thế hệ mới.
2.1.2. Bối cảnh trong nước
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới thế và lực, sức mạnh tổng
hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng
cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong những năm tới, nước ta phải thực hiện đầy đủ các cam kết
trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng
thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập.
Hiện nay, tuy kinh tế nước ta từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy
lại đà tăng trưởng, “nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức”, xuất hiện
những vấn đề phức tạp mới, ảnh hưởng và gây khó khăn nhất định đến yêu
cầu tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo không những không giảm
mà có mặt còn trầm trọng hơn. “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn
tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực


11
và trên thế giới, nguy cơ "diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm
chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng
tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước”7.
2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay
Nói về vai trò của đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ:
Cán bộ là cầu nối giữa Ðảng, Chính phủ và nhân dân; “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”8. Hồ Chí Minh khẳng định cán bộ giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng và chỉ ra rằng “Công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”. Qua nhưng quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và thực
tiễn cách mạng Việt Nam, cho thấy vai trò to lớn của cán bộ trong xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội. Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay thì cán bộ càng có vai trò quan trọng, nhất là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Vai trò đó thể hiện ở một số nội dung sau:
Đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo quản
lý là lực lượng tham mưu cho Đảng trong hoạch định chiến lược, kế hoạch,
chủ trương, chính sách, bước đi, giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta. Đồng thời, chính đây là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 74-75.
8
Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 267.


12
Từ mục đích, đặc điểm của nền kinh tế thị trường, Đảng ta khẳng định
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhà nước lại
càng có vai trò quan trọng để xây dựng thể chế, cơ chế và tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Đây cũng là đội ngũ tham mưu cho Đảng và Chính phủ về đổi mới các
công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, như: đổi mới công
tác kế hoạch hóa, dự báo chiến lược, cải tiến hệ thống thuế, xây dựng hệ
thống ngân hàng thương mại, tín dụng…
Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thể hiện ở việc đề xuất
các chủ trương, chính sách, pháp luật để thực hiện xã hội hóa các hoạt động
sự nghiệp, dịch vụ công, những vấn đề xã hội, đồng thời giúp Nhà nước tổ
chức kiểm tra, kiểm soát, tạo điều kiện để các hoạt động xã hội hóa sự nghiệp,
dịch vụ công phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung, nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế rất phong phú, sâu rộng
và phức tạp, bao gồm nhiều lĩnh vực, lại có sự khác biệt giữa nước ta với các
nước trên thế giới, nên rất cần phải có sự tham mưu, đề xuất của đội ngũ cán
bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý trong việc xây
dựng thể chế, chế độ, chính sách khi đất nước hội nhập sâu vào đời sống
kinh tế quốc tế.
2.3. Một số hạn chế trong phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay
Sinh thành trong xã hội tiểu nông, chưa được rèn luyện qua xã hội công
nghiệp và nền công vụ chuyên nghiệp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, nên một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nước ta chưa quen với lề lối, phong cách làm việc hiện đại, dân chủ,
khoa học, chuyên nghiệp. Hiện nay, trong một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế như sau:


13
Thứ nhất, tính qua loa, đại khái, nặng kinh nghiệm chủ nghĩa, thiếu tư

duy hệ thống; làm việc thiếu sắp đặt thành kế hoạch khoa học, ít coi trọng
kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm kế hoạch được vận hành thông suốt, tối ưu
hóa hiệu quả công tác theo mục tiêu dự kiến; xem nhẹ sơ - tổng kết, hoặc tiến
hành thường qua loa, chiếu lệ. Vì thiếu tư duy hệ thống nên không chọn được
các vấn đề trọng điểm để tập trung chỉ đạo quyết liệt tạo đột phá, mà thường
dàn trải các vấn đề “cùng tiến” làm phân tán nguồn lực, không đạt được kết
quả như mong muốn, gây lãng phí cả tài chính, thời gian và nhân lực. Mặt
khác, khi gặp các ý kiến mâu thuẫn trong tập thể lãnh đạo thường ít khi truy
đến tận cùng căn nguyên vấn đề, mà ở nơi này hay nơi khác rất phổ biến
kiểu chiết trung, dung hòa các ý kiến để có “đồng thuận” về mặt hình thức
nhưng không giải quyết được bản chất của vấn đề.
Thứ hai, làm việc theo lối “duy tình”, đặt quan hệ tình cảm, thân quen
lên trên các nguyên tắc, kỷ cương, kỷ luật. Không làm hết trách nhiệm của
mình, dễ làm, khó bỏ, nhưng lại thường lấn sang thẩm quyền của người khác,
đơn vị khác, khi thấy có lợi ích. Kinh nghiệm các vụ án lớn, nhỏ gần đây đều
cho thấy hệ lụy của căn bệnh buông lỏng kỷ luật, kỷ cương trong lãnh đạo,
quản lý hoặc làm việc theo lối để quan hệ tình cảm, thân quen phá vỡ các
nguyên tắc, kỷ luật của tổ chức.
Thứ ba, ban hành quyết định lãnh đạo, quản lý thường ít dựa trên dữ
liệu, bằng chứng khoa học, phản biện của chuyên gia và sự tham gia của
người dân để lựa chọn phương án tối ưu. Khi triển khai thực hiện thì không
xác định rõ nguồn lực cần và đủ, nguồn lực cơ bản và nguồn lực dự phòng (tài
lực, vật lực, thời gian…), đầu mối chịu trách nhiệm chính, lực lượng phối
hợp, cơ chế và phương thức tổ chức, dự kiến thách thức cần phải vượt qua, cơ
hội phải tận dụng. Thiếu ý thức tiết kiệm, tận dụng thời gian, nên thường bỏ
lỡ các cơ hội phát triển, thậm chí dành quá nhiều thời gian cho những công
việc trung gian, không tập trung được thời gian cho nhiệm vụ chính yếu.


14

Thứ tư, tinh thần hợp tác, hiệp quản, làm việc nhóm yếu; ít chú ý sử
dụng chuyên gia tư vấn đối với những vấn đề chuyên sâu hay cần tư duy tổng
hợp. Khi làm việc theo “nhóm” thì dễ vận hành theo kiểu ê-kíp không lành
mạnh, dễ dãi, xuề xòa, không nhìn trực diện các vấn đề có mâu thuẫn về quan
điểm, cách tiếp cận, phương pháp giải quyết. Trong khi đó, làm việc nhóm,
tăng tính hợp tác, kết nối và sử dụng chuyên gia tư vấn là một phong cách cần
có của một nhà lãnh đạo chuyên nghiệp trong xã hội hiện đại, giúp thu thập và
xử lý thông tin đa chiều, phức tạp, giải quyết các tình huống khó khăn.
Thứ năm, ít có thói quen đối thoại với những ý kiến khác với chủ kiến
của mình, thậm chí còn có biểu hiện quy chụp, định kiến. Đó chính là hiện
tượng “độc quyền chân lý”, bắt người khác phục tùng hơn là thuyết phục để
họ thực thi quyết định một cách tự nguyện, tự giác. Hệ lụy của phong cách
lãnh đạo, quản lý này là hạn chế thu thập thông tin; khó đoàn kết, tập hợp
được lực lượng đông đảo để thực hiện các mục tiêu đã định; thậm chí đẩy một
bộ phận vào tình trạng chống đối hoặc “lãn công” trước quyết sách của người
lãnh đạo. Lãnh đạo ở cấp độ càng cao thì đối tượng lãnh đạo càng phong phú,
sự khác biệt ý kiến trong xã hội càng đa dạng, không chỉ do lợi ích chi phối
mà còn bao gồm cả giá trị theo đuổi. Vì vậy, xây dựng phong cách đối thoại,
tôn trọng ý kiến khác biệt là vấn đề rất cơ bản của văn hóa lãnh đạo, quản lý.
Thứ sáu, nặng phong cách quan liêu, bàn giấy, xa rời thực tế, thiếu dân
chủ, nguồn “đầu vào” cho ban hành các quyết định hành chính là ý chí chủ
quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, những người này chỉ biết “khai
hội”, viết nghị quyết, ra chỉ thị mà ít chú ý đến ý kiến của tập thể, nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân, không điều tra, nghiên cứu cẩn thận, không quan
tâm đến phản ứng của người dân chịu tác động của quyết định chính trị, hành
chính. Khi ban hành quyết định rồi thì chỉ hô hào mà không có kiểm tra, đôn
đốc, không giải thích cho nhân dân hiểu, không quan tâm đến tính khả thi của
quyết định trong thực tiễn. Khi gặp khó khăn trong thực tiễn thì không truy



15
tìm căn nguyên để điều chỉnh kế hoạch, thậm chí vẫn dồn nguồn lực kiểu “cố
đấm ăn xôi” gây tổn thất lớn. Khi gặp thất bại thì không nhìn thẳng vào sự
thật để kiểm điểm, đánh giá nghiêm túc, rút ra bài học mà thường “lý sự”
vòng vo, tìm cách đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan.
3. Một số giải pháp xây dựng phong cách làm việc
quần chúng, khoa học, dân chủ cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay
Để xây dựng lề lối, phong cách làm việc quần chúng, khoa học, dân
chủ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, bên cạnh những giải pháp chung, như
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tăng cường tự phê bình và phê
bình... cần quan tâm đến một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng và hệ thống chính trị,
toàn xã hội, mọi cơ quan, đơn vị về yêu cầu cấp bách đổi mới, chỉnh đốn lề
lối, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên.
Phải xem công việc này không chỉ nhằm hoàn thiện nhân cách của từng
cá nhân con người mà còn là một giải pháp cơ bản xây dựng tổ chức, cơ quan,
đơn vị vững mạnh. Bởi lẽ, lề lối, phong cách của mỗi con người là biểu hiện
cụ thể, sinh động phương pháp công tác của tập thể, quyết định hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, là biểu hiện chất lượng cán bộ mà
người dân hằng ngày có thể đo lường bằng sự hài lòng hay không hài lòng,
đồng tình hưởng ứng hay phản ứng, xung đột.
Đổi mới lề lối, phong cách làm việc không đồng nghĩa với chỉ tập trung
sửa chữa khuyết điểm, mà đó là một quá trình cán bộ phải luôn làm mới chính
mình, không ngừng hoàn thiện nhân cách. Những cán bộ có thái độ công tác
chưa đúng mực, hành vi và tác phong quan liêu, cách làm thiếu dân chủ phải
xem đây là cơ hội để tự chỉnh đốn, sửa chữa khuyết điểm, đem lại hình ảnh
mới trước công chúng, rèn luyện nhân cách và tăng hiệu suất công việc.



16
Những cán bộ đã có lề lối, phong cách công tác phù hợp, được tập thể, đồng
nghiệp và nhân dân ghi nhận, không được chủ quan tự mãn, vẫn phải có trách
nhiệm hoàn thiện, không ngừng hiện đại hóa, cập nhật hóa xu thế mới của
thời đại, trở thành bộ phận tiên tiến dẫn dắt những bộ phận chậm tiến, tạo hiệu
ứng lan tỏa trong xã hội.
Từng cấp ủy, đơn vị nhất thiết phải kết hợp giữa đẩy mạnh giáo dục với
tăng cường kiểm tra, giám sát, uốn nắn, xử lý kịp thời những biểu hiện lệch
lạc về lề lối, phong cách làm việc đang gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và
niềm tin của quần chúng nhân dân. Cao hơn nữa là phải định hình được văn
hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý, văn hóa cầm quyền, mà ở đó lề lối, phong cách
lãnh đạo, quản lý là bộ phận rất cơ bản, được mọi tổ chức và cá nhân quan
tâm chăm lo xây dựng, đổi mới với ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm
cao để khẳng định nhân cách văn hóa, lẽ sống và khát vọng cống hiến, phụng
sự trong thể chế dân chủ và xã hội văn minh.
Hai là, hoàn thiện hệ thống thể chế, quy định chuẩn mực về lề lối,
phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý từng cấp, từng ngành,
từng đơn vị... làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã có nhiều nỗ lực
ban hành thể chế, quy định về vấn đề này, đặc biệt là Quy định khung tiêu
chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp (Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017) đã làm rõ các tiêu chí của
tác phong, lề lối làm việc. Quy định này phải tiếp tục cụ thể hóa để đo lường
được lề lối, phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng cấp, từng
ngành, từng đơn vị một cách phù hợp, làm cơ sở cho đánh giá, phân loại và
giám sát cán bộ.
Hệ thống thể chế phải được cụ thể hóa một cách tường minh dựa trên
các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; các cơ
chế phân quyền, trao quyền, ủy quyền, tản quyền,... phù hợp với từng cấp,



17
từng ngành, từng loại hình hoạt động lãnh đạo và quản lý. Quy định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, cấp trên và cấp dưới, người chủ
trì và người phối hợp, người chịu trách nhiệm chính và người hiệp quản, trình
tự, thủ tục, thời gian... khi giải quyết một công việc cụ thể, đặc biệt là những
công việc đòi hỏi phải phối hợp nhiều người, nhiều đơn vị tham gia. Hệ thống
thể chế đó phải bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng với luật
pháp của Nhà nước.
Ba là, đổi mới các khâu của công tác cán bộ hướng vào hoàn thiện lề
lối, phong cách làm việc của cán bộ, đặc biệt là xây dựng phong cách làm
việc quần chúng, khoa học, dân chủ.
Mỗi khâu khác nhau của công tác cán bộ đều tham dự trực tiếp hoặc
gián tiếp vào hình thành và điều chỉnh lề lối làm việc, phong cách lãnh đạo,
quản lý của cán bộ. Ở khâu tuyển dụng cán bộ, vấn đề đặt ra không chỉ để sát
hạch trình độ, kiến thức, kỹ năng xử lý các công việc chuyên môn mà còn
phải coi trọng cả tác phong công vụ, cách thức xây dựng và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, khả năng đề ra và tuân thủ quy trình giải quyết công việc, năng lực
làm việc nhóm và hợp tác, khả năng huy động và phân bổ nguồn lực cho tổ
chức thực hiện, khả năng đối thoại với người có ý kiến khác... Ở khâu đánh
giá cán bộ, phải thường xuyên đối chiếu thái độ, hành vi, phương pháp công
tác trong thực tế hằng ngày với các tiêu chí được xây dựng trên khung lý
thuyết làm công cụ đo lường để phân loại cán bộ sát đúng. Chính ở hành vi,
thái độ, lề lối, tác phong, phương pháp công tác mới biểu hiện rõ nét chất
lượng cán bộ, kiểm chứng tính nhất quán giữa tư tưởng và hành động, lời nói
và việc làm... nhờ đó khắc phục được tình trạng đánh giá “định tính” trừu
tượng đối với các tiêu chuẩn thuộc về phẩm chất chính trị tư tưởng.
Đổi mới công tác bầu cử và mở rộng hình thức thi tuyển cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, mà ở đó chương trình hành động là vấn đề trung tâm của

cơ chế sát hạch, thể hiện được cam kết chính trị của ứng viên về mặt lề lối,


18
phong cách công tác. Công khai chương trình hành động là một dạng sát hạch
không chỉ về tầm nhìn, mục tiêu, nội dung mà còn cả kế hoạch, phương châm
hoàn thiện nhân cách, lối sống, phong cách của ứng viên để tối ưu hóa khả
năng thực hiện các mục tiêu khi trúng cử. Coi trọng giám sát cán bộ lãnh đạo
- quản lý, trong đó bao hàm cả giám sát lề lối, phong cách làm việc, đặc biệt
là quan hệ với người dân, với cấp dưới, với đồng cấp, với công việc, với
chính bản thân cán bộ về những cam kết chính trị trước đó.
Bốn là, hoàn thiện mô hình đào tạo hướng tới xây dựng lề lối, phong
cách làm việc quần chúng, khoa học, dân chủ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Lề lối, phong cách làm việc quần chúng, khoa học, dân chủ được hình
thành không chỉ nhờ thể chế và môi trường công tác, mà còn có phần quan
trọng thông qua mô hình đào tạo khoa học để can thiệp có hiệu quả vào điều
chỉnh hành vi, nhân cách, thái độ, nhân phẩm con người. Vì vậy, phải sớm đổi
mới căn bản mô hình đào tạo cán bộ lãnh đạo - quản lý, bao gồm cả đào tạo
học đường và đào tạo phi học đường, đào tạo ở nơi làm việc và đào tạo ở
ngoài nơi làm việc. Chương trình, nội dung đào tạo cần tập trung hơn cho xây
dựng thái độ, hành vi, tác phong chuẩn mực trong các quan hệ cơ bản; định
hình phương pháp công tác khoa học; rèn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý
hiện đại... để áp dụng cho từng vị trí lãnh đạo, quản lý, khắc phục tình trạng lý
thuyết xa rời thực tiễn.
Cần coi trọng phương pháp đào tạo tại hiện trường, đào tạo trên thực
địa, đào tạo dựa trên bằng chứng, đào tạo gắn liền với giải quyết các tình
huống thực tiễn bức xúc mà cuộc sống đang đòi hỏi. Cùng với tích cực đổi
mới mô hình đào tạo học đường cần coi trọng đào tạo phi học đường, đặc biệt
đào tạo thông qua luân chuyển, rèn luyện trong thực tiễn công tác hằng ngày,
như xử lý các tình huống liên quan đến xây dựng thái độ, hành vi đúng mực

trước nhân dân và công việc, rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, tạo lập
phương pháp công tác khoa học và giải quyết các vấn đề lãnh đạo công một


19
cách chuyên nghiệp. Trong đó, có những phong cách làm việc phải được rèn
luyện dạng bài tập thực hành, như phương pháp chủ trì công việc bảo đảm
tính dân chủ, chuyên nghiệp; tinh thần hợp tác, tương trợ lẫn nhau; quan hệ
công chúng, đặc biệt là thái độ ứng xử với báo chí, truyền thông; tác phong
làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế, đa văn hóa.
Năm là, phát huy vai trò của người dân, báo chí và tăng cường áp
dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong lãnh đạo, quản lý, hiện đại hóa lề
lối, phong cách làm việc của cán bộ.
Huy động nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công
tác cán bộ; lấy ý kiến của quần chúng bằng nhiều cách khác nhau đối với các
khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá, phân loại cán bộ; phát huy
nhân dân rộng rãi tham gia giám sát lề lối, phong cách của cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp. Định hướng cho báo chí tham gia nhiều hơn vào tổng kết các
mô hình nhân cách, gương điển hình tiên tiến có lề lối, phong cách làm việc
khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp để cổ vũ, phổ biến, nhân rộng.
Cùng với phát huy vai trò của báo chí cần phải ứng dụng tốt hơn thành
tựu khoa học - công nghệ và công nghệ thông tin để minh bạch hóa thái độ và
hành vi công vụ của cán bộ, công chức khi thực hiện các quy trình giải quyết
công việc, nhờ đó mà người dân có điều kiện giám sát cụ thể. Ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý còn giúp cho cán bộ, công chức có điều kiện
giao tiếp, nắm bắt được thông tin phản hồi từ người dân một cách tốt hơn, trên
cơ sở đó tự điều chỉnh hành vi, tác phong lãnh đạo, quản lý. Trong bối cảnh
truyền thông kỹ thuật số phát triển nhanh chóng, cán bộ lãnh đạo còn phải biết
sử dụng mạng xã hội một cách thành thục để tuyên truyền đường lối của
Đảng, pháp luật của nhà nước, thu nhận các phản hồi xã hội và đấu tranh với

các ý kiến sai trái, xuyên tạc, phản động.


20
C. KẾT LUẬN
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân
chủ và tác phong khoa học gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một phong
cách làm việc rất hiện đại, mang đến hiệu quả công việc cao.
Hiện nay chúng ta đã xây dựng được phong cách làm việc khoa học
cho cán bộ, đảng viên. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức cần cù làm việc
với tinh thần trách nhiệm cao; các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà
nước đã chú ý áp dụng các biện pháp tổ chức lao động một cách khoa học, sử
dụng hợp lý thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhằm hoàn
thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, việc quản lý lao
động trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều
hạn chế và yếu kém, dẫn đến lãng phí thời gian lao động, làm cho năng suất,
chất lượng hiệu quả công tác chưa cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức, viên chức Nhà nước chưa đề cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ,
công vụ; ý thức kỷ luật lao động kém; vi phạm các quy định của pháp luật về
sử dụng thời giờ làm việc như làm việc riêng, đi muộn, về sớm, chơi games,
đánh bài, uống rượu, bia trong giờ làm việc, ảnh hưởng đến hiệu quả, chất
lượng công tác và tác phong, uy tín của cán bộ, công chức, viên chức.
Chính vì vậy, học tập phong cách làm việc của Người có ý nghĩa rất
quan trọng đối với cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp. Chúng ta cần đẩy mạnh hơn
nữa việc học tập, vận dụng phong cách làm việc của Người một cách thiết thực
và có hiệu quả hơn trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để tạo nên sự chuyển
biến mạnh mẽ, góp phần làm nên thắng lợi sự nghiệp của đất nước./.



21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị, Hà Nội, 2017.
3. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011.
4. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011.
5. Phạm Văn Đồng - Hồ Chí Minh - Một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1990.
6. Đoàn Minh Huấn, Lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ, chuyên
nghiệp của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
/>


×