Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.42 KB, 104 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

1

Khoa Kế toán

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh,
hướng tới xu thế hội nhập khu vực và quốc tế đã tạo điều kiện cho sự ra đời và
phát triển của rất nhiều công ty mới trong lĩnh vực tài chính. Cùng với sự phát
triển này là yêu cầu ngày càng cao của công chúng về tính trung thực của các
thông tin tài chính và từ đó thúc đẩy nhu cầu sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập
trong xã hội. Sự thay đổi của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây thể
hiện rất rõ ở sự đa dạng hoá các thành phần kinh tế, mở cửa hội nhập, thu hút
vốn đầu tư và gần đây nhất là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại quốc tế WTO từ ngày 11 tháng 1 năm 2007. Những nhân tố
đó đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động kiểm toán ở nước ta.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, chu trình mua hàng - thanh toán là một
chu trình rất quan trọng, là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất và có ảnh
hưởng rất quan trọng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Hơn
nữa đây là chu trình có mật độ phát sinh các nghiệp vụ nhiều với số lượng và giá
trị lớn, liên quan tới nhiều đơn vị trong và ngoài doanh nghiệp, rủi ro phát sinh
các sai phạm trong chu trình này cao và từ đó phản ánh sai lệch các thông tin tài
chính của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của chu trình mua hàng - thanh toán, cùng
với tính cấp thiết của việc nâng cao hiệu quả công việc kiểm toán, trong quá
trình thực tập tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn ACPA, em đã quyết định lựa
chọn đề tài: “Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán chu trình mua
hàng - thanh toán do Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện”.

Lê Hà Vân



Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

2

Khoa Kế toán

Chuyên đề đã nghiên cứu cơ sở lý luận của việc vận dụng thử nghiệm cơ
bản trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài
chính, đồng thời tiến hành tìm hiểu thực tế quy trình vận dụng thử nghiệm cơ
bản trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán: việc vận dụng thủ tục phân
tích và thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết tại Công ty Kiểm toán và Tư vấn
ACPA. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện vận
dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán tại
Công ty.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung Đề tài của em bao gồm ba
chương:
Chương 1. Lý luận chung về vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán chu
trình mua hàng - thanh toán.
Chương 2. Thực trạng vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán chu trình
mua hàng - thanh toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn ACPA.
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm
toán chu trình mua hàng - thanh toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn
ACPA.

Lê Hà Vân


Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

3

Khoa Kế toán

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN DỤNG THỬ NGHIỆM CƠ
BẢN TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG - THANH TOÁN
1.1 CHU TRÌNH MUA HÀNG - THANH TOÁN VỚI THỬ NGHIỆM CƠ BẢN
1.1.1 Khái niệm và ý nghĩa của chu trình với thử nghiệm cơ bản
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, để duy trì các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình thì quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nối tiếp liên tục
và lặp đi lặp lại, tạo thành những chu trình kinh doanh. Thực tế các chu trình
kinh doanh có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành các chu trình nghiệp vụ cơ
bản. Chu trình kinh doanh tại một doanh nghiệp thường bắt đầu từ khi doanh
nghiệp tạo vốn, có thể bằng vốn tự có hoặc bằng vốn vay mượn để phục vụ cho
sản xuất, kết thúc giai đoạn tiêu thụ sản phẩm ra thị trường. Như vậy, quá trình
kinh doanh bao gồm các chu trình diễn ra liên tục và có mối quan hệ chặt chẽ và
mật thiết với nhau, mỗi chu trình đều là một mắt xích quan trọng đóng góp
không nhỏ vào sự thành công trong hoạt động của doanh nghiệp. Trong số các
mắt xích đó, chu trình mua hàng - thanh toán là phần quan trọng trong việc cung
cấp các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm (đối với doanh
nghiệp sản xuất), và cho quá trình tích trữ hàng trước khi đưa hàng hoá vào lưu
thông (đối với doanh nghiệp thương mại). Việc thực hiện tốt quá trình này sẽ bảo
đảm cho doanh nghiệp hạ thấp các chi phí đầu vào với chất lượng ổn định.
Chu trình mua hàng - thanh toán là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng
hoá giữa các thực thể kinh doanh thông qua quá trình trao đổi Tiền - Hàng. Theo

Chế độ Kế toán Việt Nam hiện hành, quá trình này được bắt đầu bằng việc lập
một đơn mặt hàng gửi cho nhà cung cấp và kết thúc bằng việc thanh toán hàng
hoá dịch vụ nhận được. Đây là một phần quan trọng trong dây chuyền hoạt động
kinh doanh của các công ty. Nó cung cấp yếu tố đầu vào quan trọng đóng góp

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

4

Khoa Kế toán

một phần không nhỏ vào kết quả thu được. Việc thực hiện hiệu quả quá trình này
sẽ giúp công ty vừa tiết kiệm được chi phí đầu vào đồng thời sử dụng được các
hàng hoá có chất lượng cao.
Dưới góc độ kiểm toán, chu trình mua hàng - thanh toán liên quan đến một
số chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán bên tài sản, nguồn vốn có ảnh hưởng tới
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng như cho thấy khả năng hoạt động của
doanh nghiệp trong tương lai.
Kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán có liên quan đến nhiều đối
tượng bên ngoài cũng như kết luận về chu trình này có thể ảnh hưởng tới quyền
và nghĩa vụ của công ty. Do đó để có được những kết luận chính xác nhất, không
thể không xem xét những đặc điểm cơ bản của chu trình và các ảnh hưởng của
nó tới phương pháp kiểm toán.
1.1.2 Chức năng của chu trình
1.1.2.1 Xử lý đơn đặt hàng

Điểm khởi đầu của chu trình mua hàng - thanh toán là đơn đặt mua hàng.
Khi công ty có nhu cầu về bất cứ loại hàng hoá, nguyên vật liệu hoặc loại hình
dịch vụ nào, công ty lập các đơn đặt mua hàng hoặc các yêu cầu về cung cấp
dịch vụ. Giai đoạn này đòi hỏi một sự phê chuẩn đúng đắn đối với các nghiệp vụ
mua hàng, đảm bảo hàng hoá và dịch vụ được mua đúng chủng loại và chất
lượng theo mục đích của công ty. Sau khi việc mua đã được phê chuẩn thì phải
có đơn để đặt mua hàng hoá hoặc dịch vụ. Một đơn đặt hàng được gửi cho người
bán ghi rõ mặt hàng cụ thể ở một mức giá nhất định, được giao vào một ngày
quy định với các đặc tính sản phẩm cụ thể. Đơn đặt hàng được xem như một đề
nghị chính thức của bên mua hàng đối với bên bán hàng. Trong một số trường
hợp khác, nếu người mua và người bán mới giao dịch lần đầu hoặc thực hiện các

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

5

Khoa Kế toán

giao dịch phức tạp, giá trị hợp đồng lớn thì đòi hỏi cả hai bên phải ký hợp đồng
cung ứng hàng hoá hay dịch vụ nhằm đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên tham gia hợp đồng.
1.1.2.2 Nhận hàng hoá hay dịch vụ
Nhận hàng hóa hay dịch vụ từ người bán là điểm then chốt trong chu trình
mua hàng - thanh toán. Đây là một thời điểm quan trọng trong chu kỳ vì nó đánh
dấu việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá gắn liền với các rủi ro đi kèm cũng

như đó là thời điểm mà tại đó bên mua thừa nhận khoản nợ liên quan đối với bên
bán trên sổ sách của họ. Khi hàng hoá nhận được, quá trình kiểm soát thích hợp
là kiểm tra mẫu mã, số lượng, thời gian đến và các điều kiện khác có liên quan.
Sau đó, một bản sao về báo cáo nhận hàng sẽ được gửi tới thủ kho và một bản tới
phòng kế toán để hạch toán nghiệp vụ. Rủi ro gắn liền với hàng hoá, vật liệu
nhập vào là tình trạng mất mát, thất thoát có thể diễn ra. Để ngăn ngừa các rủi ro
này, điều quan trọng là hàng hoá phải được kiểm soát chặt chẽ từ lúc nhận vào,
bảo quản và cho đến khi hàng hoá được đưa vào sử dụng hoặc chuyển đi. Nhân
viên phòng tiếp nhận phải độc lập với thủ kho và nhân viên phòng kế toán. Cuối
cùng, sổ sách kế toán (kế toán vật tư và kế toán chi phí) sẽ phản ánh việc chuyển
giao trách nhiệm đối với hàng hoá khi hàng hoá được chuyển từ phòng tiếp nhận
qua kho và từ kho vào quá trình sản xuất hay đưa đi tiêu thụ.
1.1.2.3 Ghi nhận khoản nợ người bán
Việc xác nhận và ghi sổ ban đầu đối với các hàng hóa, dịch vụ nhận được
có ảnh hưởng quan trọng tới các BCTC. Sự ghi nhận đúng đắn khoản nợ về hàng
hoá hay dịch vụ nhận được đòi hỏi việc ghi sổ chính xác và nhanh chóng. Kế
toán chỉ được phép ghi nhận dựa trên các lần mua có cơ sở hợp lý về thời gian,
số tiền, nhà cung cấp. Để bảo đảm việc ghi nhận đúng đắn các khoản thanh toán,

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

6

Khoa Kế toán


kế toán các khoản phải trả thường có trách nhiệm kiểm tra tính đúng đắn của các
lần mua vào, ghi chúng vào sổ nhật ký và sổ hạch toán chi tiết các khoản phải
trả. Khi kế toán các khoản phải trả nhận được hoá đơn của người bán thì phải so
sánh mẫu mã, giá cả, số lượng, phương thức và chi phí vận chuyển ghi trên hoá
đơn với thông tin trên đơn đặt hàng và khi nào áp dụng được, với báo cáo nhận
hàng. Trong quá trình kiểm tra, đối chiếu kế toán thường kiểm tra lại các phép
nhân và phép cộng tổng để đảm bảo độ chính xác của số liệu và thực hiện việc
chuyển số liệu vào sổ hạch toán chi tiết các khoản phải trả.
1.1.2.4 Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán
Để giúp cho việc ghi sổ các khoản thanh toán dễ kiểm tra, đối chiếu dễ
dàng, các hoá đơn liên quan đến việc mua hàng sẽ được lưu giữ bởi kế toán cho
đến khi thanh toán. Việc thanh toán thường được thực hiện bằng uỷ nhiệm chi,
séc hoặc phiếu chi làm thành nhiều bản mà một bản được gửi cho người được
thanh toán, một bản sao lưu lại trong hồ sơ theo người thanh toán . Các quá trình
kiểm soát quan trọng đối với chức năng này là việc ký duyệt các chứng từ thanh
toán phải do đúng cá nhân có trách nhiệm. Trước khi ký các chứng từ thanh toán
phải xem xét kỹ lưỡng các chứng từ chứng minh chi cho nghiệp vụ mua hàng đã
phát sinh.
Bốn chức năng trên là toàn bộ công việc mà doanh nghiệp cần tiến hành
đối với chu trình mua hàng - thanh toán. Mỗi chức năng trong chu trình sẽ phải
tuân theo những quy tắc nhất định và có những biện pháp kiểm soát riêng. Việc
nắm vững các chức năng của chu trình mua hàng - thanh toán đã nêu ở trên là cơ
sở để kiểm toán viên tiến hành cuộc kiểm toán có hiệu quả.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp


7

Khoa Kế toán

1.1.3 Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chu trình
1.1.3.1 Khái quát chung về hệ thống kiểm soát nội bộ
Để đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như đảm bảo hiệu quả trong hoạt động
kinh doanh của mình, hầu hết các công ty hiện nay đều cần xây dựng và không
ngừng củng cố hệ thống KSNB với bốn yếu tố chính: môi trường, kiểm soát, hệ
thống thông tin kế toán, các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ đã nêu: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát
do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân
thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện
gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ,
quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”. Theo quan niệm này, hệ
thống kiểm soát nội bộ của một doanh nghiệp bao gồm ba nhân tố là môi trường
kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát. Theo đó, môi trường kiểm
soát là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên
Hội đồng quản trị, Ban giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị.
Môi trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ tục kiểm
soát. Tuy nhiên, môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống
kiểm soát nội bộ mạnh vì môi trường kiểm soát tự nó chưa đủ đảm bảo tính hiệu
quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ. Hệ thống kế toán là các quy định về
kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng để thực hiện
ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính. Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ
tục cho Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt
được mục tiêu quản lý cụ thể.


Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

8

Khoa Kế toán

Quan niệm về hệ thống kiểm soát nội bộ của Liên đoàn Kế toán Quốc tế
được thể hiện qua khái niệm mới về hệ thống kiểm soát nội bộ trong Chuẩn mực
Kiểm toán Quốc tế số 315 - Tìm hiểu đơn vị được kiểm toán và môi trường của
đơn vị, và đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu - có hiệu lực cho các cuộc
kiểm toán cho các kỳ bắt đầu từ hoặc sau ngày 15 tháng 12 năm 2004: “Kiểm
soát nội bộ là một quá trình do Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và các nhân
viên của đơn vị thiết lập và chi phối, nó được thiết lập nhằm thực hiện ba mục
tiêu của đơn vị bao gồm tính tin cậy của báo cáo tài chính, tính hữu hiệu và hiệu
quả của hoạt động, và tính tuân thủ các luật lệ và quy định”. Trong định nghĩa
này, bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ được biểu hiện trên bốn khía cạnh
chủ yếu sau:
Kiểm soát nội bộ là quá trình hòa nhập vào trong cơ cấu tổ chức hoạt động
của một đơn vị tạo thành một thể thống nhất, không phải là một quá trình được
bổ sung thêm. Kiểm soát nội bộ mang tính môi trường, thể hiện cách thức mà
các nhà quản lý điều hành đơn vị.
Con người là nhân tố thiết kế và vận hành kiểm soát nội bộ: Tất cả các cá
nhân trong đơn vị đều đóng vai trò nhất định đối với hệ thống kiểm soát nội bộ,
thể hiện ở hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đang diễn ra cũng như cách
mà họ thực hiện các công việc của mình. Mỗi cá nhân trong đơn vị đều có hoàn

cảnh và trình độ khác nhau, đạo đức nghề nghiệp khác nhau, tính cách, nhu cầu
và sự phấn đấu khác nhau. Những sự khác nhau đó trong mỗi cá nhân đều ảnh
hưởng đến hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống
kiểm soát nội bộ.
Kiểm soát nội bộ chỉ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý là các mục tiêu của
đơn vị sẽ được thực hiện, không phải sự đảm bảo tuyệt đối do những hạn chế

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

9

Khoa Kế toán

tiềm tàng của hệ thống kiểm soát nội bộ, cho dù kiểm soát nội bộ được thiết kế
và vận hành hiệu quả đến đâu.
Kiểm soát nội bộ có hiệu quả trợ giúp cho đơn vị đạt được các mục tiêu
liên quan đến hoạt động, BCTC và tuân thủ: Kiểm soát nội bộ giữ cho đơn vị
luôn hướng tới các mục tiêu đã định và đạt được các mục đích đề ra, giảm thiểu
những biến động ngoài mong đợi trong quá trình đó. Kiểm soát nội bộ nâng cao
tính hiệu quả của các hoạt động, giảm rủi ro mất tài sản, và trợ giúp đảm bảo độ
tin cậy của các báo cáo tài chính, tuân thủ luật pháp và các quy định liên quan.
Như vậy, qua phân tích có thể thấy tính ưu việt của quan niệm mới về hệ
thống kiểm soát nội bộ theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế so với quan niệm theo
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam hiện hành, thể hiện ở những điểm sau:
- Mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ bao quát hơn, bao gồm các mục

tiêu liên quan đến tính hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động, phù hợp với thực
tế hoạt động của các đơn vị.
- Quy định về kiểm soát nội bộ mang tính chất tài chính đã được mở rộng,
hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ bao gồm các kiểm soát “cứng” như nguyên
tắc bất kiêm nhiệm, mà còn đề cập đến các kiểm soát “mềm” như trình độ
chuyên môn cũng như tính chuyên nghiệp của nhân tố con người.
- Khái niệm mới về kiểm soát nội bộ này cung cấp một bức tranh toàn diện
và cân đối về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, giúp cho các nhà quản lý
cũng như các KTV có thể dễ dàng tìm hiểu, xác định được các điểm mạnh, điểm
yếu của hệ thống kiểm soát nội bộ hiện hành để đưa ra các đánh giá, các đề xuất
sửa đổi phù hợp nhằm xây dựng và duy trì một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu
quả.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

10

Khoa Kế toán

1.1.3.2 Tổ chức kế toán chu trình mua hàng - thanh toán
Trong chu trình mua hàng - thanh toán, các loại chứng từ sổ sách sau
thường được sử dụng:
- Yêu cầu mua: tài liệu được lập bởi bộ phận sử dụng (như bộ phận sản
xuất) để đề nghị mua hàng hoá và dịch vụ. Trong một số trường hợp, các bộ phận
trong doanh nghiệp có thể trực tiếp lập đơn đặt hàng, trình phê duyệt và gửi cho

nhà cung cấp.
- Đơn đặt hàng: lặp lại các chi tiết có trong đề nghị mua, được gửi cho nhà
cung cấp hàng hoá hay dịch vụ.
- Phiếu giao hàng (biên bản giao nhận hàng hoá hoặc nghiệm thu dịch vụ):
tài liệu được chuẩn bị bởi nhà cung cấp. Phiếu giao nhận phải được ký nhận bởi
khách hàng để chứng minh sự chuyển giao hàng hoá (hay dịch vụ) thực tế.
- Báo cáo nhận hàng: được bộ phận nhận hàng lập như một bằng chứng
của việc nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá (dấu hiệu của một thủ tục kiểm
soát).
- Hoá đơn người bán: chứng từ nhận được từ người cung cấp hàng, đề
nghị thanh toán cho các hàng hoá dịch vụ đã được chuyển giao.
- Nhật ký mua hàng: đây là những ghi chép đầu tiên về hàng hoá mua vào
trong hệ thống kế toán. Nhật ký phải liệt kê danh sách các hoá đơn, cùng với việc
chỉ ra tên nhà cung cấp, ngày ghi trên hoá đơn và khoản tiền của các hoá đơn đó.
- Sổ hạch toán chi tiết công nợ phải trả: Sổ này dùng để ghi nhận, theo dõi
chi tiết cho từng nhà cung cấp với số tiền phải trả cho mỗi nhà cung cấp cũng
như số lần mua hàng trong kỳ. Tổng số dư tài khoản thanh toán với các nhà cung
cấp trên sổ chi tiết phải bằng khoản tiền ghi trên khoản mục phải trả người bán.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

11

Khoa Kế toán


- Bảng đối chiếu của nhà cung cấp: báo cáo nhận được của nhà cung cấp
hàng (thường là hàng tháng) chỉ ra các hoá đơn chưa thanh toán vào một ngày
đối chiếu nhất định.
Thông tin thu được từ các chứng từ vào sổ sách kế toán thông qua hệ
thống tài khoản. Đối với chu trình mua hàng - thanh toán, các tài khoản chịu ảnh
hưởng của chu trình gồm có các tài khoản trong các khoản mục vốn bằng tiền,
hàng tồn kho, nợ phải trả. Nhìn chung đa số các tài khoản chịu ảnh hưởng trong
chu trình mua hàng thanh toán có liên quan đến chu trình nghiệp vụ khác.
Căn cứ vào các chứng từ, sổ sách liên quan, kế toán tiến hành hạch toán
các nghiệp vụ thu mua, ghi nhận khoản nợ và các nghiệp vụ thanh toán. Việc
hạch toán kế toán đối với chu trình mua hàng - thanh toán được thực hiện theo
quy trình như sau (Sơ đồ 1.1):
Sơ đồ 1.1 Quy trình hạch toán tổng hợp chu trình mua hàng - thanh toán
TK111, 112

TK 152,153,156
Mua hàng trả tiền ngay
TK133
TK338,331

Thanh toán
chi phí mua

Mua hàng thanh toán sau

hàng phải trả

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B



Chuyên đề tốt nghiệp

12

Khoa Kế toán

Quá trình tổ chức hạch toán kế toán đối với chu trình mua hàng - thanh
toán thực hiện trong các doanh nghiệp thông thường trải qua các bước sau (Sơ đồ
1.2):
Sơ đồ 1.2 Quy trình tổ chức trong chu trình mua hàng - thanh toán
Đối với quá trình mua hàng
Người có
nhu cầu về
hàng hóa,
vật tư

Phòng
cung
ứng

Cán bộ
thu mua
hàng hóa,
vật tư

Trưởng
phòng
cung

ứng

Thủ
kho

Nhu cầu về
hàng hóa,
vật tư

Kế toán

Lưu trữ,
bảo quản

Đơn đặt
hàng

Đơn đề
nghị
mua
hàng

Lập
phiếu
nhập
kho


duyệt
chứng

từ

Nhập hàng,
ghi sổ thực
nhập vào
chứng từ

Ghi sổ

Đối với quá trình thanh toán
Cán bộ
thu mua

Kế toán
tiền mặt

Kế toán
trưởng

Thủ
quỹ

Kế toán
tiền mặt

Nhu cầu
về hàng
hóa vật tư

Lưu

trữ, bảo
quản

Hóa
đơn bán
hàng
(liên 1)

Lập phiếu
chi

Lê Hà Vân


duyệt

Xuất
quỹ, kí,
ghi sổ
quỹ

Ghi sổ

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

13


Khoa Kế toán

1.1.3.3 Kiểm soát nội bộ đối với quá trình mua hàng - thanh toán
Đối với quá trình mua hàng, kiểm soát nội bộ chủ yếu tập trung vào ba
chức năng đầu tiên của chu trình: Xử lý đơn đặt mua hàng, nhận hàng hoá dịch
vụ, ghi nhận các khoản nợ người bán. Các thủ tục KSNB đuợc thực hiện đối với
quá trình mua hàng như sau:
Bảng 1.1. Quá trình kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ mua hàng
Mục tiêu kiểm toán
Quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu
- Các nghiệp vụ mua hàng ghi sổ là Sự thật của các yêu cầu mua hàng,
hàng hoá dịch vụ nhận được

đơn đặt mua hàng, báo cáo nhận
hàng và hoá đơn của người bán.
- Sự phê chuẩn các nghiệp vụ mua
hàng ở đúng cấp có thẩm quyền
- Huỷ bỏ các chứng từ để phòng
ngừa việc sử dụng lại
- Kiểm soát nội bộ hoá đơn của
người bán, báo cáo nhận hàng, đơn
đặt mua hàng và các yêu cầu mua
hàng.

- Các nghiệp vụ mua hàng được phê - Sự phê chuẩn các nghiệp vụ mua
chuẩn

hàng ở cấp có thẩm quyền

- Các nghiệp vụ mua hàng được ghi - Các đơn đặt mua đều được đánh số


Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

sổ và được vào sổ

14

Khoa Kế toán

trước và theo dõi.
- Các báo cáo nhận hàng đều được

đánh số trước và theo dõi
- Các nghiệp vụ mua hàng đều được - Kiểm tra nội bộ các quá trình tính
ghi sổ và đều được đánh giá đúng toán và các số tiền
(tính giá)
- Các nghiệp vụ mua hàng được phân - Doanh nghiệp có sơ đồ tài khoản
loại đúng đắn (sự phân loại )

đầy đủ

- Kiểm tra nội bộ quá trình phân loại
- Các nghiệp vụ mua hàng được phân - Doanh nghiệp có các thủ tục quy
loại đúng lúc (tính thời gian )


định việc ghi sổ nghiệp vụ càng sớm
càng tốt sau khi nhận được hàng hoá
dịch vụ.

- Quá trình kiểm tra nội bộ
- Các nghiệp vụ mua hàng được ghi - Xem xét dựa trên quá trình kiểm tra
sổ đúng đắn trên sổ hạch toán chi tiết nội bộ
các khoản phải trả và sổ kho; chúng
được tổng hợp đúng đắn (chuyển sổ
và tổng hợp)
Đối với quá trình thanh toán, việc thực hiện KSNB cũng được thực hiện căn cứ
vào các mục tiêu kiểm toán cụ thể được xây dựng đối với chu trình.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

15

Khoa Kế toán

Bảng 1.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với quá trình thanh toán
Mục tiêu kiểm toán
Quá trình kiểm soát nội bộ
- Các khoản thanh toán ghi sổ là của - Sự tách biệt thích hợp trách nhiệm
hàng hoá và dịch vụ thực tế nhận giữa nhân viên ghi sổ các khoản phải
được (tính có căn cứ hợp lý)


trả với người ký phiếu chi và các
chứng từ thanh toán
- Kiểm tra các chứng từ chứng minh
trước khi lập phiếu chi và các chứng
từ thanh toán do một nhân viên có
thẩm quyền thực hiện.
- Sự KSNB đối với quá trình

- Nghiệp vụ thanh toán được ghi sổ - Sự phê chuẩn các khoản chi trên
và được phê chuẩn đúng đắn (sự phê chứng từ vào thời điểm lập phiếu chi
chuẩn)

và các chứng từ thanh toán

- Các nghiệp vụ thanh toán hiện có - Các chứng từ thanh toán như séc,
đều được ghi sổ (tính đầy đủ)

uỷ nhiệm chi được đánh số trước và
theo dõi.
- Bảng đối chiếu với ngân hàng được
lập hàng tháng bởi một nhân viên
độc lập với việc ghi sổ các khoản chi
tiền mặt hoặc thanh toán

- Các nghiệp vụ thanh toán được - Thực hiện kiểm tra nội bộ các quá

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B



Chuyên đề tốt nghiệp

16

Khoa Kế toán

đánh giá đúng đắn (mục tiêu tính giá) trình tính toán và các số tiền
- Hàng tháng, một nhân viên độc lập
sẽ lập các bảng đối chiếu với ngân
hàng
- Các nghiệp vụ thanh toán được - Doanh nghiệp có sơ đồ tài khoản
phân loại đúng (sự phân loại)

đầy đủ và có duy trì kiểm soát đối

với quá trình phân loại.
- Các nghiệp vụ thanh toán được ghi - Doanh nghiệp có đầy đủ các thủ tục
sổ đúng lúc (sự kịp thời)

quy định về việc ghi sổ ngay sau khi
thực hiện quá trình thanh toán.
- Kiểm tra nội bộ đối với quá trình
ghi sổ đảm bảo chính xác về thời

gian
- Các nghiệp vụ thanh toán được - Kiểm tra nội bộ đối với quá trình
cộng sổ và chuyển sổ chính xác vào hạch toán chi tiết và tổng hợp đối với
các sổ liên quan (chuyển sổ và tổng các khoản thanh toán

hợp)
1.2 ĐẶC ĐIỂM VẬN DỤNG THỬ NGHIỆM CƠ BẢN ĐỐI VỚI CHU TRÌNH
KIỂM TOÁN MUA HÀNG - THANH TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1 Các rủi ro và hệ thống mục tiêu kiểm toán đối với chu trình mua hàng
- thanh toán
Đối tượng của kiểm toán nói chung và đối tượng của kiểm toán tài chính
nói riêng luôn chứa đựng nhiều mối quan hệ về kinh tế và về pháp lý phong phú,
đa dạng. Đối với chu trình mua hàng - thanh toán, đối tượng nghiên cứu có thể

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

17

Khoa Kế toán

được phân thành hai phần là quá trình mua hàng và quá trình thanh toán với các
rủi ro tiềm ẩn và đặc điểm riêng.
Với một công ty lớn, quá trình mua hàng thường diễn ra rất đa dạng.
Trong một thời kỳ nhất định để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình, các
công ty phải thực hiện rất nhiều các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ khac
nhau vì vậy các rủi ro dễ dàng có thể xảy ra. Hàng hoá, dịch vụ có thể bị ghi
trùng lắp vào chi phí hoặc ghi giá không đúng do gian lận hay sai sót. Sự phối
hợp không hiệu quả hay thiếu độc lập giữa các bộ phận có liên quan trong khi hệ
thống kiểm soát của công ty yếu kém cũng có thể dẫn đến mất mát, thất thoát đối

với hàng hoá, vật liệu nh ập mua. Mặt khác, đối với các công ty sản xuất, chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm một tỷ trọng lớn trong giá vốn hàng bán
và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh. Do đó một số công ty
tìm cách khai khống hoặc khai thiếu giá trị hàng nhập mua nhằm phục vụ cho
một số mục đích công khai tài chính riêng, nhằm che đậy những thông tin tài
chính yếu kém.
Quá trình thanh toán trực tiếp hay ghi nhận và theo dõi các khoản phải trả
đối với nhà cung cấp có thể xuất hiện các rủi ro như: việc ghi nhận các khoản nợ
không đầy đủ, ghi nhận không chính xác, thanh toán hai lần cho một hoá đơn
hoặc không ghi nhận các khoản đã thanh toán cũng như ghi nhận không đúng kỳ
phát sinh. Đối với các công ty có nhiều giao dịch liên quan đến một số lượng lớn
các nhà cung cấp trong khi hệ thống kiểm soát không hữu hiệu sẽ khiến các sai
phạm đối với nghiệp vụ thanh toán dễ xảy ra. Đôi khi để phục vụ mục đích công
khai tài chính của doanh nghiệp, các khoản phải trả thương mại hay các khoản
thanh toán đối với các bên có liên quan (như công ty mẹ, công ty thành viên) có
thể bị ghi nhận và công bố sai lệch, không phù hợp.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

18

Khoa Kế toán

Các rủi ro cơ bản liên quan đến khoản phải trả: Các khoản nợ phải trả nói
chung và các khoản nợ phải trả người bán nói riêng đều là những khoản mục

quan trọng trên BCTC thể hiện nghĩa vụ của công ty và là nguồn tài trợ chính
cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xảy ra sai phạm với các
khoản mục này sẽ làm sai lệch các tỷ suất quan trọng cũng như các chi tiêu trên
BCTC. Do yếu tố quan trọng của mình, đôi khi vì các mục tiêu của doanh nghiệp
hay vì các sơ suất các khoản trả này bị phản ánh một cách sai lệch thường là bị
ghi giảm xuống và làm tăng một cách giả tạo khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Ngoài ra, nợ phải trả cũng có khả năng bị khai khống là dấu hiệu của
hành vi gian lận, rút tiền công quỹ hoặc ghi nhận không đúng kỳ kế toán (khoản
nợ kỳ này lại ghi nhận sang kỳ khác) cũng là những rủi ro có thể xuất hiện khi
kiểm toán các quá trình thanh toán và số dư khoản phải trả.
Với các rủi ro tiềm ẩn trên, việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán
khoa học trên cơ sở các mối quan hệ vốn có của đối tượng và của khách thể kiểm
toán sẽ giúp KTV thực hiện đúng hướng và có hiệu quả đối với toàn cuộc kiểm
toán nói chung và đối với từng chu trình nói riêng.
Mục đích của kiểm toán BCTC là xác minh và bày tỏ ý kiến về độ tin cậy
của các thông tin và tính tuân thủ các nguyên tắc trong việc lập và trình bày
BCTC. Do vậy mục tiêu chung của chu trình mua hàng - thanh toán là đánh giá
xem các số dư tài khoản có liên quan có được trình bày trung thực và phù hợp
với các nguyên tắc kế toán hiện hành hoặc được thừa nhận rộng rãi không. Từ
mục tiêu chung của chu trình, các mục tiêu kiểm toán cụ thể đối với chu trình
bao gồm các mục tiêu được trình bày như sau:
Thứ nhất là tính có thực của hàng hoá hay dịch vụ mua vào cũng như các
khoản nợ người bán. Mục tiêu này hướng tới việc đảm bảo các nghiệp vụ mua

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp


19

Khoa Kế toán

hàng hoá dịch vụ và các khoản phải trả nhà cung cấp được kế toán ghi nhận trên
sổ sách thực sự tồn tại và phát sinh trên thực tế.
Thứ hai là tính đầy đủ của việc ghi nhận các nghiệp vụ của chu trình,
hướng tới việc đảm bảo mọi hoạt động mua nhận hàng hoá và khoản phải trả nhà
cung cấp đã phát sinh trên thực tế đều được ghi sổ đầy đủ, không bỏ sót.
Thứ ba là tính đúng đắn của việc tính giá: với hàng hoá, dịch vụ mua vào
việc tính toán giá cả, phân bổ chi phí phải phù hợp với các khoản phí thực sự
phát sinh đồng thời việc tính toán các khoản phải trả nhà cung cấp phù hợp với
các hợp đồng giao dịch, hoá đơn, biên bản giao nhận hàng hoá và dịch vụ.
Thứ tư là mục tiêu phân loại và trình bày: đối với các khoản phải trả người
bán và đặc biệt là đối với hàng hoá dịch vụ mua vào, KTV cần quan tâm tới việc
phân loại đúng đắn các nghiệp vụ phát sinh công nợ và tài sản cùng việc thể hiện
chúng qua hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết.
Bên cạnh các mục tiêu trên, chu trình mua hàng - thanh toán còn gắn liền
với mục tiêu quyền và nghĩa vụ, bảo đảm tài sản thuộc quyền sở hữu cũng như
các công nợ mà công ty có trách nhiệm phải thanh toán trên báo cáo tài chính.
Thứ sáu là mục tiêu chính xác về mặt số học được thể hiện trong việc tính
toán, cộng dồn, chuyển sổ, đối với các nghiệp vụ mua hàng - thanh toán.
Các mục tiêu kiểm toán trên là cái đích hướng tới và là cơ sở cho KTV
trong quá trình thu thập bằng chứng hỗ trợ cho việc đưa ra ý kiến của mình về
toàn bộ chu trình. Căn cứ vào các mục tiêu đó, KTV phải thiết kế các thủ nghiệm
tuân thủ để nhận diện được các cơ cấu, các quá trình kiểm soát chủ yếu theo từng
mục tiêu và phục vụ cho việc xây dựng thủ tục kiểm tra chi tiết tương ứng.
1.2.2 Chuẩn bị kiểm toán
1.2.2.1 Khái quát chung về chuẩn bị kiểm toán


Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

20

Khoa Kế toán

Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các KTV cần thực hiện
trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều
kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300
về "Kế hoạch kiểm toán”: “Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích
hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán,
đảm bảo phát hiện những vấn đề tiểm ẩn và cuộc kiểm toán được hoàn thành
đúng hạn”. Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm ba bước: lập kế hoạch kiểm toán
chiến lược, lập kế hoạch kiểm toán tổng quát và lập kế hoạch kiểm toán chi tiết
(chương trình kiểm toán). Trình tự của giai đoạn chuẩn bị kiểm toán được khái
quát qua Sơ đồ 1.3.
1.2.2.2 Lập kế hoạch kiểm toán chiến lược
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA số 300, “Kế hoạch kiểm toán
chiến lược là những nội dung trọng tâm chung của mọi cuộc kiểm toán do cấp
chỉ đạo vạch ra dựa trên sự hiểu biết về tình hình hoạt động và môi trường kinh
doanh của đơn vị được kiểm toán”.
Kế hoạch kiểm toán chiến lược được lập cho một cuộc kiểm toán đối với
khách hàng có quy mô lớn, có tính phức tạp, có địa bàn hoạt động rộng hoặc
kiểm toán BCTC trong nhiều năm như một cuộc kiểm toán tài chính tổng hợp

của một tổng công ty, cuộc kiểm toán có dấu hiệu tranh chấp, kiện tụng.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

21

Khoa Kế toán

Sơ đồ 1.3 Khái quát chung về chuẩn bị kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán chiến lược

Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán

Thu thập thông tin cơ sở

Thực hiện các thủ tục phân tích

Đánh giá trọng yếu và rủi ro

Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát

Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết và thiết kế chương trình kiểm toán

1.2.2.3 Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
a. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán

Quy trình kiểm toán được bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán
thu nhận một khách hàng. Trên cơ sở xác định được đối tượng khách hàng có thể
phục vụ trong tương lai, công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết
để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm:
Thứ nhất là đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán: KTV phải đánh giá
xem việc chấp nhận một khách hàng mới hay tiếp tục kiểm toán cho các khách

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

22

Khoa Kế toán

hàng cũ có làm tăng rủi ro kiểm toán cũng như có làm hại đến uy tín của công ty
hay không? Để đưa ra các quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng,
Công ty kiểm toán cần tiến hành các công việc như: Xem xét hệ thống kiểm soát
chất lượng; Tính liêm chính của Ban Giám đốc của công ty khách hàng; Liên lạc
với KTV tiền nhiệm.
Thứ hai là nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng: Đây là
việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng của họ. Để biết được
điều đó, KTV có thể thực hiện phỏng vấn Ban Giám đốc khách hàng (đối với
khách hàng mới) hoặc dựa vào kinh nghiệm của một cuộc kiểm toán đã thực hiện
trước đó. Đồng thời trong quá trình thực hiện kiểm toán sau này, KTV sẽ thu
thập thêm thông tin để hiểu biết thêm về lý do kiểm toán của công ty khách
hàng. Việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng của họ là hai yếu

tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng cần thu thập và mức độ chính xác
của các ý kiến mà KTV đưa ra trong báo cáo kiểm toán.
Thứ ba là lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kế toán: Lựa chọn đội ngũ
KTV thích hợp cho cuộc kiểm toán không chỉ hướng tới hiệu quả của cuộc kiểm
toán mà còn tuân thủ những Chuẩn mực kiểm toán chung được thừa nhận
(GAAS). Chuẩn mực kiểm toán chung đầu tiên nêu rõ “Quá trình kiểm toán phải
được thực hiện bởi một hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo như
một KTV”.
Thứ tư là hợp đồng kiểm toán: Bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị
cho kế hoạch kiểm toán mà Công ty kiểm toán phải thực hiện là ký kết hợp đồng
kiểm toán. Đây là sự thoả thuận chính thức giữa công ty kiểm toán và khách
hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

23

Khoa Kế toán

b. Thu thập thông tin cơ sở
Để thu thập đầy đủ các thông tin cơ sở, KTV cần thực hiện các công việc sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 310 về “Hiểu biết về tình hình kinh
doanh”: “Để thực hiện được kiểm toán báo cáo tài chính,kiểm toán viên phải có
hiểu biết về tình hình kinh doanh đủ để nhận và xác định các dữ kiện, nghiệp vụ

và thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà theo đánh giá của kiểm
toán viên, chúng có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chinh, đến việc
kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến Báo cáo kiểm toán”. Để đạt được điều đó
KTV cần thực hiện xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước; tham quan nhà
xưởng; nhận diện các bên có liên quan; dự kiến nhu cầu chuyên gia từ bên ngoài.
Thứ hai: Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. Các
thông tin về nghĩa vụ pháp lý giúp cho KTV nắm bắt được các quy trình mang
tính pháp lý có ảnh hưởng tới các mặt hoạt động kinh doanh. Các thông tin này
bao gồm các loại sau: Giấy phép thành lập công ty; Các BCTC, báo cáo kiểm
toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành hay trong vài năm trước; Biên
bản các cuộc họp cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám đốc; Các hợp đồng và
cam kết quan trọng.
c. Thực hiện các thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích là một trong các công cụ rất hữu hiệu và được thực hiện
cho tất cả các cuộc kiểm toán. Thủ tục phân tích theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt
Nam số 520: “Thủ tục phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ
suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng biến động và tìm ra những mối
quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch
lớn so với dự kiến”.

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


Chuyên đề tốt nghiệp

24

Khoa Kế toán


Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV tiến hành thực hiện các thủ
tục phân tích đối với các thông tin tổng quan và pháp lý đã thu được hỗ trợ cho
việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ
được sử dụng. Mức độ, phạm vi và thời gian áp dụng các thủ tục phân tích thay
đổi tuỳ thuộc vào quy mô và tính phức tạp trong hoạt động kinh doanh của khách
hàng.
d. Đánh giá trọng yếu và rủi ro
Đánh giá trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay quy mô) và
bản chất của các sai phạm của các thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc là từng
nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì
không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm. Trọng yếu là một
khái niệm tương đối hơn là một khái niệm tuyệt đối, được nhắc tới với hai yếu tố
ảnh hưởng chính: yếu tố định tính và yếu tố định lượng.
Trước tiên, KTV cần ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Mức ước lượng
ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở mức độ đó các
BCTC có thể bị sai lệch nhưng chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử
dụng thông tin tài chính. Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho
KTV lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp.
Sau đó, KTV tiến hành phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các
khoản mục dựa trên bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát được đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục, kinh nghiệm của KTV và chi
phí kiểm toán. Mục đích của việc phân bổ này là để giúp KTV xác định được số
lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập cho từng khoản mục.
Đánh giá rủi ro: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về “Đánh
giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do công ty kiểm toán

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B



Chuyên đề tốt nghiệp

25

Khoa Kế toán

và KTV đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán
còn chứa đựng những sai phạm trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán gồm ba loại rủi ro thành phần: rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát và rủi ro phát hiện.
“Rủi ro tiềm tàng: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu
khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội
bộ.
Rủi ro kiểm soát: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không
phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Rủi ro phát hiện: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong
quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được.”
Trong giai đoạn lập kế hoạch KTV cần phải xác định rủi ro kiểm toán
mong muốn cho toàn bộ cuộc kiểm toán từ đó xác định mức rủi ro phát hiện cần
đạt được để đảm bảo rủi ro của cuộc kiểm tra ở mức chấp nhận được qua công
thức:
AR = IR x CR x DR
DR =


AR

AR: Rủi ro kiểm toán

IR x CR
IR: Rủi ro tiềm tàng

DR: Rủi ro phát hiện

CR: Rủi ro kiểm soát

Lê Hà Vân

Kiểm toán 45 B


×