Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT về PHÁT TRIỂN NĂNG NƯỢNG SẠCH và NĂNG LƯỢNG tái tạo ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.89 KB, 107 trang )

THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN
NĂNG NƯỢNG SẠCH VÀ
NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO Ở
VIỆT NAM


-Tổng quan pháp luật về phát triển năng lượng sạch và
năng lượng tái tạo
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hình thành và
phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu của phát triển
năng lượng mới. Phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương,
chính sách của Nhà nước và được lồng ghép, thể hiện rõ trong
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án (đề
án) phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của Chính
phủ, các Bộ, ngành, địa phương. Nhiều chính sách có liên
quan đã được ban hành nhằm phục vụ phát triển bền vững đất
nước và thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia.
Quan điểm phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo của Việt Nam đã được đề cập trong Hiến pháp năm 2013
“Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường,
phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo”
(khoản 2, Điều 63).
Theo dự báo, chúng ta có thể kỳ vọng vào các dạng năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo, là nguồn năng lượng thân
thiện với môi trường, có thể khai thác vô tận như: Năng lượng


mặt trời, gió, sinh khối, năng lượng từ đại dương, địa nhiệt,


thủy năng và các dạng năng lượng khác.
Việt Nam, đã và đang tập trung đầu tư nghiên cứu và
ứng dụng các nguồn năng lượng mới này. Với điều kiện thuận
lợi về địa lý và khí hậu, Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có tiềm năng để phát triển nguồn năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo.
Trong 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm gần đây, Nhà
nước đã có chủ trương phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo để tăng cường năng lượng quốc gia; đồng thời
hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực khai thác và sử dụng
năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; lồng ghép chương
trình phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo với các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác. Trong bối cảnh
mới hội nhập, Nhà nước đã có chính sách bước đầu khuyến
khích phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo như:
Nghị định số 102/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày
03/9/2003 về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Phát
triển sừ dụng các nguồn năng lượng tái tạo để tiết kiệm các
nguồn năng lượng không tái tạo được như than đá, sản phẩm
dầu, khí đốt là một trong những biện pháp công nghệ mà các
cơ sở sản xuất phải áp dụng để thực hiện sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả đã được quy định rõ trong Nghị định


này.
Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường đến năm
2010 và tầm nhìn đến 2020 theo Quyết định số 256/2003/QĐTTg cùa Thủ tướng Chinh phủ ngày 02/12/2003. Theo đó,
đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ sạch, dây chuyền sản xuất
sạch hơn, sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu ít gây ô nhiễm và
thân thiện với môi trường là một trong những biện pháp để

phòng ngừa ô nhiễm, một trong những quan điểm được thể
hiện rõ trong Chiến lược. Chiến lược đã đặt ra mục tiêu cụ thể
là đến năm 2010 sẽ đạt 5% tổng năng lượng tiêu thụ hàng
năm. Đồng thời Chiến lược cũng khuyến khích việc sử dụng
tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng sach, sử dụng các
nguyên liệu thay thế ít chất thải.
Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 14/4/2006 về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Trong đó
mục tiêu phấn đấu tiết kiệm từ 5% đến 8% tổng mức tiêu thụ
năng lượng trong giai đoạn 2011 - 2015 so với dự báo về phát
triển năng lượng và phát triển kinh tế - xã hội theo phương án
phát triển bình thường.
Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn
2004 - 2010, định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số
176/2004/QĐ-TTg ngày 05/10/2004 của Thủ tướng Chính
phủ. Trong quan điểm phát triển ngành điện của Chiến lược


này đã nêu bật lên vai trò của việc nghiên cứu phát triển các
dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng
điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Với
quan điểm này, Chiến lược về phát triển nguồn điện đã được
đưa ra với việc ưu tiên phải triển thuỷ điện trong đó khuyến
khích đầu tư các nguồn thủy điện nhỏ với nhiều hình thức để
tận dụng nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái sinh này.
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) theo
Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05/12/2011 của Thủ tướng
Chính phủ đặt mục tiêu: Nền kinh tế các-bon thấp, tăng
trưởng xanh trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển bền

vững; giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tăng khả năng hấp
thụ khí nhà kính dần trở thành một chỉ tiêu bắt buộc trong
phát triển kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ chiến lược: Giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính; Phát triển các nguồn năng lượng tái
tạo, năng lượng mới; Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng;
Áp dụng các công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu suất phát
điện và giảm phát thải khí nhà kính tại tất cả các nhà máy
nhiệt điện xây mới; triển khai ứng dụng hệ thống phát điện cỡ
nhỏ dùng khí mêtan thu hồi từ các bãi chôn lấp rác và các
nguồn khác; Nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm và bảo tồn
năng lượng. Sản xuất công nghiệp và xây dựng: Đến năm
2020, khoảng 50% cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng công


nghệ sản xuất sạch hơn, tiết kiệm 8 - 13% mức tiêu thụ năng
lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; Đến năm 2050, hầu
hết các cơ sở sản xuât công nghiệp áp dụng công nghê ̣ sản
xuất sạch hơn và tiết kiệm năng lượng. Giao thông vận tải: Sử
dụng nhiên liệu ít phát thải khí nhà kính trong các phương
tiện giao thông; Việc chuyển đổi sử dụng năng lượng mới, ít
phát thải đạt 40% vào 2020 và 80% đến 2050. Nông nghiệp:
Thay đổi phương thức canh tác nông nghiêp, quản lý và xử lý
chất thải trong chăn nuôi, sử dung khí sinh học làm nhiên liệu
để giảm thiểu ô nhiễm và giảm phát thải khí nhà kính. Triển
khai, phổ biến, thực hiện rộng rãi vào năm 2020 và hoàn thiện
đến năm 2050.
Đẩy nhanh tiến trình chống biến đổi khí hậu, ngày
30/8/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
1183/2012/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 - 2015 trong

đó nêu rõ sử dụng có hiệu quả và hợp lý các dạng năng lượng
trên cơ sở một hệ thống chính sách quản lý nhu cầu năng
lượng; giảm các tác động môi trường của ngành năng lượng
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trên cơ sở các chiến lược đã đề ra, tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư tham gia vào việc phát triển năng lượng sạch và
năng lượng tái tạo, Nhà nước đã có những chủ trương, chính


sách ưu đãi để khuyến khích những dự án đầu tư theo cơ chế
phát triển sạch, được đưa vào các văn bản Luật như:
Luật Điện lực năm 2004 và Luật Điện lực năm 2012.
Luật Điện lực năm 2004, được thực thi từ tháng
01/7/2005, đã có những quy định về chính sách phát triển
điện lực thông qua ứng dụng khai thác năng lượng tái tạo như
đẩy mạnh việc khai thác vả sử dụng các nguồn năng lượng tái
tạo để phát điện (Điều 4); các đự án đầu tư phát triển nhà máy
phát điện sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo được hưởng
ưu đãi về đầu tư, giá điện và thuế (Điều 16). Đồng thời cũng
quy định tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác nhau
đầu tư vào việc phát triển, sử dụng các năng lượng tái tạo
không gây ô nhiễm môi trường trong các hoạt động sản xuất
điện, đặc biệt ờ khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo và
khuyến khích các tổ chức và cá nhân đầu tư xây dựng mạng
lưới điện hoặc các trạm phát điện sử dụng năng lượng tái tạo
[85]; Đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng các nguồn năng
lượng mới, năng lượng tái tạo để phát điện; có chính sách ưu
đãi đối với dự án đầu tư phát triển nhà máy phát điện sử dụng
các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Quy hoạch
phát triển điện lực “phát triển điện nông thôn, phát triển

nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo” [90].
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.


Theo quy đinh của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005,
Nhà nước khuyến khích sử dụng chất thải để sản xuất năng
lượng sạch; sản xuất, nhập khẩu, sử dụng máy móc, thiết bị,
phương tiện giao thông dùng năng lượng sach, năng lượng tái
tạo. Chính phù xây dựng, thực hiện chiến lược phát triển năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo nhằm tăng cường năng lực
quốc gia về sử dụng năng lương sạch, năng lượng tái tạo; hợp
tác quốc tế, huy động nguồn lực khai thác và sử dụng năng
lượng tái tạo; nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tồng sản
lượng năng lượng quốc gia; lồng ghép chương trình phát triển
năng lượng tái tạo với chương trình phát triền kinh tế xã hội
khác. Luật cũng có những quy đinh khuyến khích tổ chức, cá
nhân đầu tư pháỉ triển, sử dụng năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo, sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi
trường được Nhả nước ưu đãi về thuế, hỗ trợ vốn, đất đai để
xây dựng cơ sở sản xuất (Điều 33).
Luật bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định rõ hơn
trách nhiệm và hoạt động của tổ chức, cá nhân trong ứng phó
với biến đổi khí hậu như: lồng ghép nội dung thích ứng với
biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; quản lý phát thải khí nhà kính; các chất
làm suy giảm tầng ôzôn; phát triển năng lượng tái tạo; sản
xuất và tiêu thụ thân thiện với môi trường; tái sử dụng, tái chế


chất thải và thu hồi năng lượng từ chất thả; quyền và trách

nhiệm của cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu;
phát triển, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ ứng
phó với biến đổi khí hậu và tăng cường hợp tác quốc tế nhằm
ứng phó với biến đổi khí hậu và xây dựng nền kinh tế các-bon
thấp, tăng trưởng xanh. Đây cũng là một minh chứng xác định
vị trí, tầm quan trọng của hoạt động này trên phạm vi quốc
gia và quốc tế.
Bảo vệ môi trường luôn được xác định là chủ trương,
chính sách lớn, nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta. Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có
quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ
bảo vệ môi trường”. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 của Bộ Chính Trị nêu rõ quan điểm về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước như sau: “Bảo vệ môi trường là một trong những
vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ
và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng
vào việc phát triển kinh tế- xã hội, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế cửa nước ta”
(điểm 1, phần A, mục II).
Luật Thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội Khóa XII,
Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành


từ ngày 01/01/2012, là văn bản duy nhất điều chỉnh một cách
trực tiếp vào các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường. Thuế bảo
vệ môi trường được coi là một trong những công cụ kinh tế
mang lại hiệu quả cao trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Thuế bảo vệ môi trường được xây dựng trên nguyên tắc người
nào sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm phải nộp thuế. Đây là một

loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hoá khi sử dụng
gây tác động xấu đến môi trường. Hơn nữa, thuế bảo vệ môi
trường cấu thành vào giá hàng hoá, dịch vụ nên có tác dụng
kích thích và điều chỉnh sản xuất, tiêu dùng theo hướng bảo
vệ môi trường, thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn
năng lượng sạch nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
con người hoặc có thể dẫn tới việc ra đời của các công nghệ,
chu trình sản xuất và sản phẩm mới giảm thiểu tác hại tới môi
trường.
Luật đầu tư năm 2005 và Luật đầu tư năm 2014.
Nhà nước đã có rất nhiều ưu đãi và hỗ trợ để phát triển
năng lượng, đặc biệt là năng lượng sạch. “Chính phủ bảo đảm
cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với một số dự án quan
trọng trong lĩnh vực năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông, xử
lý chất thải” (Khoản 2, Điều 16); các lĩnh vực được ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư “Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản
xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ


thông tin; cơ khí chế tạo” (khoản 1, Điều 27); đồng thời hỗ trợ
cả về chuyển giao công nghệ nếu có nhu cầu phát triển (khoản
2, Điều 40). Ngay cả Luật đầu tư năm 2014 vẫn dành những
ưu đãi lớn trong lĩnh vực “Sản xuất vật liệu mới, năng lượng
mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất sản phẩm
có giá trị gia tăng từ 30% trở lên, sản phẩm tiết kiệm năng
lượng (mục b, khoản 1, Điều 16).
Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả số
50/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 đã
nêu rõ nguyên tắc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể về năng

lượng, chính sách an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Tại khoản 3 Điều 5 Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả năm 2010 quy đinh:
Tăng đầu tư, áp dụng đa dạng hình thức huy động
các nguồn lực để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát
triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển năng lượng tái
tạo phù hợp với tiềm năng, điều kiện của Việt Nam góp
phần bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường.
Điểm c, khoản 1, Điều 6 Luật sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả năm 2010 quy định: “Thúc đẩy sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, ưu tiên phát triển hợp lý
công nghệ năng lượng sạch, nâng cao tỷ trọng sử dụng năng


lượng tái tạo". Ngoài ra, còn quy định các tổ chức, cá nhân
phải ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo trong các hoạt động
công như: chiếu sáng đô thị, xuât - nhập khẩu, sản xuất nông
nghiệp, nông thôn và hộ gia đình.
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số
1855/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/12/2007,
một điểm quan trọng là phát triển đồng bộ và hợp lý hệ thống
năng lượng bao gồm điện, dầu, khí, than năng lượng mới và
tái tạo; trong đó quan tâm phát triển năng lượng sạch, năng
lượng mới và tái tạo. Định hướng phát triển nguồn năng
lượng mới thay thế cho nguồn năng lượng truyền thống với
mục tiêu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo lên 5% vào
năm 2020 và 11% vào năm 2050 [43]. Mục tiêu thúc đẩy sự
phát triển của công nghệ năng lượng tái tạo và các ngành công

nghiệp, xây dựng hệ thống công nghiệp năng lượng tái tạo:
Đạt khoảng 30% vào năm 2020; nâng lên 60% vào năm 2050,
đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước, một phần dành cho
xuất khẩu đến các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực
hiện điều tra quy hoạch các dạng năng lượng mới và tái tạo
chưa được đánh giá đầy đủ, tiến tới quy hoạch, phân vùng các
dạng năng lượng này để có kế hoạch đầu tư, khai thác hợp lý;


tăng cường tuyên truyền sử dụng các nguồn năng lượng mới
và tái tạo để cấp cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo. Hỗ trợ đầu tư cho các chương trình điều tra,
nghiên cứu, chế tạo thử, xây dựng các điểm điển hình sử dụng
năng lượng mới và tái tạo; ưu đãi thuế nhập thiết bị, công
nghệ mới, thuế sản xuất, lưu thông các thiết bị; bảo hộ quyền
tác giả cho các phát minh, cải tiến kỹ thuật có giá trị. Các cá
nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước được Nhà nước cho
phép phối hợp đầu tư khai thác nguồn năng lượng mới và tái
tạo, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Chiến lược phát triển năng
lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2050 đã định hướng về việc thành lập quỹ phát triển
năng lượng để hỗ trợ đầu tư cho phát triển năng lượng mới và
tái tạo, thực hiện các dự án công ích.
So với các nguồn năng lượng truyền thống khác như
dầu mỏ và than đá, năng lượng tái tạo còn tương đối mới ở
Việt Nam. Năng lượng tái tạo xuất hiện nhờ sự định hướng
mạnh mẽ từ các chính sách của chính phủ và được đặt trong
khung chương trình giảm phát thải khí nhà kính (greenhouse
gas - GHG) và phát triển bền vững.
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu theo Quyết định

số 2139/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/12/2011
nhấn mạnh.


Đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai các công nghệ
sản xuất năng lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo và
năng lượng mới, bao gồm năng lượng gió, năng lượng
mặt trời, thủy triều, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học, năng
lượng vũ trụ; xây dựng và triển khai rộng rãi các chính
sách huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế xã hội trong ứng dụng và nhân rộng sử dụng các nguồn
năng lượng tái tạo là con đường giúp giảm nhẹ phát khí
nhà kính góp phần bảo vệ hệ thống khí hậu Trái đất.
Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020
theo Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 12/4/2012 cũng nhận định việc phát triển năng lượng tái
tạo và việc gia tăng tỷ trọng của loại năng lượng này trong
tổng thể năng lượng tiêu dùng tại Việt Nam là các ưu tiên để
phát triển một nền kinh tế bền vững. Tương tự, kế hoạch hành
động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 theo
Quyết định số 403/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
20/3/2014 thúc đẩy năng lượng tái tạo sạch để giảm phát thải
khí nhà kính. Nhà nước ưu tiên và dành kinh phí thỏa đáng từ
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương để thực hiện
Kế hoạch, đặc biệt cho nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
và phát triển năng lượng tái tạo.


Đặc biệt, trước buổi khai mạc Hội nghị lần thứ 21 Công
ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu ở Paris,
Pháp (Đây được xem là hội nghị quốc tế lớn nhất từ trước tới

nay về biến đổi khí hậu) - gọi tắt là COP 21. Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số
2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015. Mục tiêu tổng quát bảo đảm
an ninh năng lượng quốc gia; đẩy mạnh phát triển nguồn năng
lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân để
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; phát triển bền
vững ngành năng lượng đi đôi với bảo vệ môi trường; Phát
triển và sử dụng năng lượng tái tạo kết hợp với phát triển
công nghiệp năng lượng tái tạo; kết hợp chính sách ưu đãi, hỗ
trợ với cơ chế thị trường và kết hợp tái cơ cấu với nâng cao
năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Mục tiêu “Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong các hoạt
động năng lượng so với phương án phát triển bình thường”.
Tỷ lệ đóng góp của nguồn điện năng lượng tái tạo như sau:
“Khoảng 5% vào năm 2020; khoảng 25% vào năm 2030 và
khoảng 45% vào năm 2050” (mục 2, phần II, Điều 1).
Việc nỗ lực cố gắng phát triển năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo cũng đã được đặt ra mục tiêu rất cụ thể tại


Quyết định số 110/QĐ-TTg ngày 18/7/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc
gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025 (gọi tắt 1à
Quy hoạch điện VI), trong đó Thủ tướng đã đưa ra vêu cầu rất
rõ ràng về lộ trình phát triển năng lượng tái tạo từng thời kỳ
(2006 - 2015 và 2016 - 2025), từng năm đối với các miền,
từng dự án, từng loại hình đầu tư khác nhau và theo những
phương án khác nhau (trong đó có quy định về phương án cơ
sở và phương án cao).

Ngày 21/07/2011 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy
hoạch phát triển điện lực quốc gia 2011 - 2030 (gọi tắt là Quy
hoạch điện VII) tại Quyết định số 1208/QĐ-TTg, với mục
tiêu và chỉ tiêu: Ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo
cho sản xuất điện, tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ nguồn năng
lượng này từ mức 3,5% năm 2010, lên 4,5% tổng điện năng
sản xuất vào năm 2020 và 6,0% vào năm 2030; Giảm hệ số
đàn hồi điện/GDP từ bình quân 2,0 hiện nay xuống còn bằng
1,5 vào năm 2015 và còn 1,0 vào năm 2020 (mục b, điểm 2,
Điều 1); Đưa công suất nguồn điện gió từ 0,7% năm 2020 lên
2,4% vào năm 2030; Điện sinh khối tăng từ 0,6% năm 2020
lên 1,1% năm 2030; Ưu tiên thủy điện, từ 9.200 MW lên
17.400 MW vào năm 2020 (điểm a, mục 3, Điều 1).
Sau 5 năm thực hiện. Ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính


phủ đã ban hành Quyết định số 428/QĐ-TTg phê duyệt đề án
điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn
2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện
VII điều chỉnh), với quan điểm phát triển năng lượng tái tạo là
khâu đột phá giúp bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia,
giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường.
Định hướng phát triển năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo cũng được nêu ra trong Báo cáo quốc gia tại Hội nghị
cấp cao của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững (RIO+20).
Chính phủ Việt Nam khẳng định rõ ràng: Giảm cường độ phát
thải khí nhà kính trên đơn vị GDP và tăng tỷ lệ sử dụng năng
lượng tái tạo [17, tr17]; Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch,
nền kinh tế xanh sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ
các-bon thấp, khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng

hiệu quả hơn [17, tr57]; Giải pháp năng lượng xanh (UN
WTO) [17, tr57]; Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên
đơn vị GDP và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo thông
qua thực hiện những giải pháp “Đẩy mạnh khai thác có hiệu
quả các nguồn năng lượng tái tạo và năng lượng mới nhằm
từng bước gia tăng tỷ trọng của các nguồn năng lượng sạch
này trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia, giảm
dần sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch, tăng
cường an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển


bền vững” [17, tr58]; khai thác sử dụng các loại năng lượng
tái tạo thay thế cho nhiên liệu hóa thạch vừa là một yêu cầu
khách quan (do cạn kiệt) nhưng vừa là một yêu cầu cấp thiết
để ứng phó với biến đổi khí hậu, để bảo vệ hệ thống khí hậu
Trái đất. Hiện nay, nhu cầu năng lượng trên thế giới ngày một
tăng cao, trong khi các dạng năng lượng thay thế cho nhiên
liệu hóa thạch là năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng
mặt trời, năng lượng gió và năng lượng sinh học [17, tr62];
Việt Nam đã chủ động tích cực hội nhập quốc tế, tham
gia nhiều công ước và thỏa thuận quốc tế liên quan đến phát
triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, giảm phát thải
khí nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường, như:
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí
hậu (ở Rio de Janeiro, Braxin), tháng 6/1992. Trong đó nêu rõ
sử dụng tài nguyên cần thiết để đạt tới sự phát triển lâu bền,
tiêu thụ năng lượng cần được tăng tính đến những khả năng
đạt tới hiệu suất năng lượng lớn hơn và kiểm soát sự phát thải
khí nhà kính thông qua việc áp dụng các công nghệ mới có lợi
về kinh tế và xã hội.

Việt Nam đã ký Nghị định thư Kyoto vào ngày
03/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002. Trong đó có
thỏa thuận:


Nghiên cứu và đẩy mạnh, phát triển và tăng cường
sử dụng các dạng năng lượng mới và tái tạo được, các
công nghệ thu hồi carbon dioxide và các công nghệ tiên
tiến và sáng tạo lành mạnh cho môi trường [28].
Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu có hiệu lực từ ngày
04/11/2016 và được thực thi năm 2020 về chuyển đổi từ sử
dụng năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo nhằm
giảm khí nhà kính, hạn chế sự gia tăng nhiệt độ Trái đất. Ngày
30/11/2015, tại Paris, tham dự phiên họp cấp cao dành cho
lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ các quốc gia ở Hội nghị
thượng đỉnh lần thứ 21 Công ước khung của Liên Hợp Quốc
về biến đổi khí hậu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng
định cam kết của Việt Nam tiếp tục cùng cộng đồng quốc tế
chung tay ứng phó với BĐKH bằng những hành động cụ thể
cả ở tầm quốc gia và quốc tế; nêu rõ quan điểm của Việt Nam
ủng hộ, thúc đẩy tiến trình đàm phán và thông qua Thỏa thuận
khí hậu toàn cầu sau năm 2020. Thủ tướng nêu rõ:
Một là, đến năm 2020, trong điều kiện khó khăn về
nguồn lực, Việt Nam vẫn tích cực triển khai chiến lược,
chương trình, kế hoạch ứng phó với BĐKH trên nhiều lĩnh
vực với các biện pháp thiết thực. Thực hiện nghiêm túc các
nghĩa vụ trong Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến
đổi Khí hậu (UNFCCC) và Nghị định thư Kyoto. Việt Nam sẽ



đóng góp 1 triệu USD vào Quỹ Khí hậu xanh trong giai đoạn
2016 - 2020.
Hai là, đối với giai đoạn sau năm 2020, mặc dù là một
nước đang phát triển còn nhiều khó khăn, chịu tác động nặng
nề của BĐKH, Việt Nam vẫn cam kết giảm 8% lượng phát
thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu
nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ
xem xét định kỳ, điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế.
Về các giải pháp mà Việt Nam sẽ thực hiện, bao gồm:
Trong lĩnh vực năng lượng vốn được coi là nguồn phát thải
chính, các biện pháp của Việt Nam tập trung vào việc sử dụng
hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo.
Trong giao thông, Việt Nam hướng đến việc tăng sử dụng các
phương tiện giao thông công cộng, giảm phương tiện cá nhân
tại các thành phố lớn, chuyển đổi sử dụng các loại nhiên liệu
ít phát thải như là sử dụng các loại nhiên liệu mới, xăng sinh
học. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam xây dựng những
phương án tăng khả năng hấp thụ của rừng thông qua việc bảo
tồn rừng bền vững, trồng rừng ngập mặn ở ven biển để làm
tăng bể chứa các-bon; đồng thời cũng làm tăng khả năng
phòng chống thiên tai khi xảy ra bão và lũ lụt ở các vùng cửa
sông và ven biển.
Tại COP 22 (ở Marrakech, Ma-rốc), Việt Nam một lần
nữa cam kết sẽ tiếp tục cùng các bên thảo luận những vấn đề


liên quan đến việc triển khai thực hiện Thỏa thuận Paris,
Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH, Nghị định thư
Kyoto và đưa ra nhiều kế hoạch chi tiết để triển khai thỏa
thuận tại COP 21 đến năm 2030 như: tích cực triển khai kế

hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận Paris, các kế hoạch
hành động thực hiện Chiến lược BĐKH và Chiến lược Tăng
trưởng xanh, Chiến lược Năng lượng tái tạo.
Từ những kết quả trên có thể nhận thấy các chính sách
phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo của Nhà
nước trên bình diện quốc tế cũng như trong nước luôn song
hành với mục tiêu phát triển bền vững, đã và đang khuyến
khích các tổ chức, cá nhân phát triển nguồn năng lượng mới,
góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, giảm tác động tiêu cực
đến môi trường. Tuy nhiên, những chính sách này là chưa đủ,
chưa khuyến khích khai thác hết tiềm năng thế mạnh về năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trong thời gian
tới Nhà nước cần phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo ra
hành lang pháp lý đủ mạnh có điều kiện cho năng lượng sạch
và năng lượng tái tạo phát triển.
-Thực tiễn áp dụng pháp luật về phát triển năng lượng
sạch và năng lượng tái tạo ở Việt Nam.


-Cơ cấu quản lý nhà nước về lĩnh vực năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Theo luật tổ chức chính phủ, Chính phủ và Thủ tướng
chính phủ ban hành các nghị định, quy định và cơ chế quản lý
các hoạt động năng lượng, phê duyệt chiến lược và quy hoạch
phát triển năng lượng và quyết định các chính sách về giá
năng lượng, các dự án có quy mô lớn hoặc có tầm quan trọng
đặc biệt.
Bộ Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực năng lượng, có nhiệm vụ: Trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách phát

triển, quy hoạch quốc gia cho từng phân ngành năng lượng
trên phạm vi cả nước; Ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện
nghị định và quyết định của Chính phủ và Thủ tướng chính
phủ; Ban hành các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật
thuộc thẩm quyền; Quản lý, điều tiết hoạt động năng lượng và
sử dụng năng lượng; Tổ chức lập biểu giá điện bán lẻ và
nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách về giá điện trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định; Quyết định khung giá phát
điện, bán buôn điện, phí truyền tải, phân phối điện và phí các
dịch vụ phụ.
Vụ Năng lượng thuộc Bộ Công Thương là đơn vị giúp
Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà


nước về công nghiệp năng lượng và thực thi pháp luật đối với
các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực năng
lượng, bao gồm: dầu mỏ, khí đốt, sản xuất điện năng, sử dụng
năng lượng nguyên tử, năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
Trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo, Vụ Năng lượng
có trách nhiệm: Trình Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt:
quy hoạch phát triển điện lực các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; công bố danh mục các công trình điện thuộc quy
hoạch phát triển điện lực để kêu gọi đầu tư xây dựng và quản
lý việc thực hiện; quy hoạch bậc thang thủy điện, quy hoạch
năng lượng mới và năng lượng tái tạo quốc gia và tại các địa
phương; Tổ chức chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ về quản
lý và phát triển hệ thống điện truyền tải, phân phối; Tổ chức
chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ về quy hoạch và quản lý
đầu tư phát triển điện hạt nhân; Tổ chức chỉ đạo và thực hiện
các nhiệm vụ về quy hoạch và khuyến khích đầu tư phát triển

năng lượng tái tạo.
Cục Điều tiết Điện lực Việt Nam trực thuộc Bộ Công
Thương là đơn vị giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện
điều tiết hoạt động điện lực bao gồm: Cấp phép hoạt động
điện lực; Thẩm tra khung giá phát điện, bán buôn điện, phí
truyền tải điện, phí phân phối điện, các phí dịch vụ do các đơn
vị điện lực lập để Bộ phê duyệt ban hành; Trình Bộ trưởng Bộ


Công Thương ban hành quy định về lập, thẩm định, lấy ý
kiến, trình duyệt giá bán lẻ điện; Tổ chức biên soạn các quyết
định, quy định, hướng dẫn có liên quan đến thiết lập và quản
lý các hoạt động của thị trường điện lực cạnh tranh.
Ở cấp địa phương, Sở Công Thương đóng vai trò tham
mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về năng lượng bao gồm điện, năng lượng tái tạo. Sở
Công Thương chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ của Bộ Công Thương. Sở Công Thương chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
điện lực, phát triển việc ứng dụng năng lượng mới, năng
lượng tái tạo trên địa bàn tỉnh.
Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) là đơn vị chính hoạt
động trong lĩnh vực điện lực. EVN sở hữu phần lớn công suất
các nguồn phát điện, nắm giữ toàn bộ khâu truyền tải, vận
hành hệ thống điện, phân phối và kinh doanh bán lẻ điện.
Trong khâu phát điện, hiện tại EVN đang sở hữu hoặc nắm cổ
phần chi phối 71% tổng công suất đặt toàn hệ thống. Phần còn
lại được sở hữu bởi các Tổng công ty, tập đoàn nhà nước như
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Than và
Khoáng sản Việt Nam (VINACOMIN), Tổng công ty Lắp

máy Việt Nam (LILAMA), Tổng công ty Sông Đà…, các nhà
đầu tư nước ngoài theo hình thức Xây dựng - Kinh doanh -


Chuyển giao (BOT) và các nhà đầu tư tư nhân trong nước
khác theo hình thức nhà máy điện độc lập (IPP). Các nhà máy
này bán điện cho EVN qua hợp đồng mua bán điện dài hạn.
EVN được tổ chức theo mô hình Công ty Mẹ - Công ty
Con với hội đồng quản trị, tổng giám đốc với các khối chức
năng chính: Khối phát điện; Trung tâm điều độ hệ thống điện
quốc gia; Công ty mua bán điện; Khối truyền tải; Khối phân
phối điện và Khối các đơn vị tư vấn, trường học.
-Các quy định pháp luật về phát triển năng
lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Hiện nay chính sách, quy định của Nhà nước đã có từ cấp
cao nhất là Quốc hội, Chính phủ đến các cấp chính quyền địa
phương. Trong đó Nhà nước thống nhất khuyến khích và hỗ
trợ phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, cũng như
tạo những điều kiện thuận lợi nhất để có thể khai thác, phát
triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo tại Việt Nam,
thông qua các chính sách như thuế, phí và giá thành sản phẩm,
thậm chí là các chính sách đặc thù ưu tiên về đầu tư xây dựng
để đưa các dự án có sử dụng năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo sớm đưa vào cuộc sống.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách
khuyến khích phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái
tạo, đề ra mục tiêu sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái



×