Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN_Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.01 KB, 21 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Chiến lược phát triển Tiểu học đã chỉ rõ: Giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Giáo
dục là tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí
thức, sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển năng lực cá nhân, đào tạo những con
người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập nghiệp, có ý
thức công dân, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, chúng ta
cần coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục theo đúng mục tiêu của Đảng và Nhà
nước đề ra. Để đạt được mục tiêu giáo dục thì việc nâng cao chất lượng giảng
dạy các môn học trong nhà trường là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Một trong
các môn học rất quan trọng trong chương trình giáo dục Tiểu học là môn Tiếng
Việt. Học sinh có kỹ năng đọc và nghe tốt thì mới có thể học tốt các môn học
khác.
Tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách của con người, tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân
trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng được nhu
cầu của đất nước trong mỗi giai đoạn. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học
là: “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt”.
Trên cơ sở những tri thức cơ bản nhằm từng bước giúp các em làm chủ
được công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng
đắn, mạch lạc, tự tin. Đó là môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động của lứa
tuổi học trò. Cuối bậc Tiểu học yêu cầu tối thiểu mà học sinh phải đạt được là:
Đọc thông, viết thạo, sử dụng được ngôn ngữ nói và viết trong giao tiếp, và có
những kĩ năng sống ban đầu cơ bản trong giao tiếp.
Như vậy, giao tiếp là một trong những mục tiêu quan trọng của việc học
tiếng Việt. Muốn trau dồi được năng lực này, học sinh phải rèn các kĩ năng giao
tiếp tức là phải được học tiếng Việt trong giao tiếp và sử dụng tiếng Việt trong
giao tiếp thành thạo.


Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách có ý thức để giáo dục trẻ từ
lúc mới sinh ra. Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài
xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà,
lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, rèn luyện các em
thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con
người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội .
1/20


Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn
diện học sinh. Trong Tiếng Việt ở Tiểu học, “Luyện từ và câu” là một phân môn
giữ vị trí hết sức quan trọng, không thể thiếu được. Phân môn “Luyện từ và câu”
như một chìa khóa đầu tiên để giúp các em bước vào kho tàng tri thức vô tận của
nhân loại như nắm được những kinh nghiệm đời sống, những thành tựu văn hóa,
khoa học, tư tưởng, tình cảm,...
Chính vì vậy đã có nhiều giáo viên trăn trở, suy nghĩ, chưa hài lòng với
chất lượng giờ dạy nên đã miệt mài nghiên cứu, tìm tòi những sáng kiến mới,
những kinh nghiệm hay nhằm đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc
thù của môn học và phù hợp với nhận thức của học sinh, giúp các em học tập một
cách tự giác, nhẹ nhàng, tự nhiên mà lại hiệu quả. Đây là một trong những yêu
cầu cấp thiết của ngành giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng. Trong thực
tiễn ở trường tôi, việc giảng dạy môn Tiếng Việt đã được coi trọng.
Việc giải quyết các dạng bài tập “Luyện từ và câu” trên lớp có hiệu quả
đặt ra cho các giáo viên dạy Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Do
vậy, việc tổ chức cho học sinh trong phần thực hành làm các bài tập “Luyện từ
và câu” là vấn đề trăn trở đối với người giáo viên như tôi. Trong quá trình giảng
dạy, việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói chung, cũng như việc phát
hiện học sinh năng khiếu về tiếng Việt nói riêng, trong đó phân môn “Luyện từ
và câu” góp một phần không nhỏ. Khi dạy phân môn “Luyện từ và câu”, đặc
biệt các biện pháp tu từ như: nhân hóa, so sánh, từ đơn, từ phức, danh từ, động

từ, tính từ,… học sinh bộc lộ còn rất nhiều hạn chế.
2. Mục đích nghiên cứu
"Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tôt phân môn Luyện từ và câu”
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Thời gian nghiên cứu
Bắt đầu từ 5/9/2018 đến hết 12/3/2019.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi chỉ hướng vào nghiên cứu: "Một số
giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu” và làm các bài
tập Luyện từ và câu trong chương trình Tiếng Việt lớp 4.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu,
học hỏi, tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu).
2/20


- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
5. Thực trạng trước khi nghiên cứu đề tài
Qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm tôi nhận thấy kết quả chưa cao là
do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học.
5.1. Về giáo viên
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để

học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ
bản về tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao
các kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong ba nhân tố
cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết
định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy và
hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4,
tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn
học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến
tâm lý một số giáo viên ngại vận dụng và vận dụng còn lúng túng.
Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để
khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào
đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách
giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
Không ít giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn
từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về tiếng Việt.
Thực tế trong trường tôi công tác, giáo viên đã tích cực đổi mới phương
pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này đây là tiền đề trong việc phát
triển, bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả
còn bộc lộ không ít những hạn chế.
5.2. Về học sinh
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là
phân môn vừa “khô” lại “khó”.
3/20


Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ đơn, từ phức, danh từ, động

từ, tính từ, câu, biện pháp tu từ, đặc biệt là sử dụng dấu câu chưa chính xác...Từ
đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, định hướng làm bài tập còn lệch lạc, việc
xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của
đầu bài, thường hay bỏ sót, làm chưa đúng hoặc không làm hết yêu cầu của đề
bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi
chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không
đạt yêu cầu.
Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của học sinh cũn hạn chế. Học sinh đọc đề
vội vàng, chưa biết tập trung vào những kiến thức trọng tâm của đề, không chịu
phân tích đề khi đọc đề. Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên
thường nhầm lẫn giữa từ đơn, từ phức (từ ghép và từ láy).
- Thực tế trong một tiết dạy 38 phút - 40 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm
bài tập nên thời gian để luyện tập cho học sinh chưa khắc sâu kiến thức.
- Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức
đến việc học của con em mình dẫn đến kết quả học tập còn thấp. Học sinh chưa
ý thức việc học của mình.
Do vậy ngay khi nhận lớp tôi đã tiến hành khảo sát học sinh. Qua khảo sát
ở lớp 4A (thực nghiệm) và lớp 4C (đối chứng). Kết quả khảo sát như sau:
* Bảng số liệu trước khi thực hiện các giảỉ pháp ứng dụng:
Thời
gian

Tổng
HHT
số
HS SL %

Lớp


TT
1
2

Tháng
9
Tháng
9

4A
(Thực nghiệm)
4C
(Đối chứng)

Kết quả
HT
SL

%

CHT
SL

%

42

7

16,7 10 23,8 25 59,5


42

10 23,8 18 42,9 14 33,3

Điều đáng nói ở đây số lượng hoàn thành tốt chỉ có 7 học sinh, hoàn thành
có 10 học sinh và có tới 25 học sinh chưa hoàn thành. Trong quá trình làm bài
tôi nhận thấy, học sinh chưa biết trình bày bài khoa học, diễn đạt chưa rõ ràng,
câu trả lời chưa đầy đủ, cách làm bài chưa có trình tự, mạch lạc từng bài,….

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
4/20


Trong nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4 có số tiết là 2 tiết/ tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các
bài tập củng cố bài. Trong tiết dạy phần việc xác định yêu cầu của bài và hướng
giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi
luyện tập, thực hành. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài:
“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và
câu".
1. Vị trí, tầm quan trọng của phân môn “Luyện từ và câu” ở lớp 4
Phân môn “Luyện từ và câu” là một trong những môn học rất quan trọng
của chương trình Tiểu học. Để thực hiện mục tiêu: “Hình thành và phát triển ở
học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao
tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Có thể hiểu giao tiếp là hoạt
động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,...nhằm thiết lập mối quan hệ, sự hiểu
biết hoặc sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội. Người ta giao tiếp với
nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan trọng
nhất là ngôn ngữ. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 đã tạo ra những môi trường

giao tiếp có chọn lọc để học simh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị
những tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp.
Về nội dung, thông qua các phân môn của môn Tiếng Việt và đặc biệt là
phân môn “Luyện từ và câu”, các kĩ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài
tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
2. Vai trò của phân môn “ Luyện từ và câu” ở lớp 4
Phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng
Việt và rèn luyện các kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học
sinh. Khác với các lớp dưới, ở lớp 4 bắt đầu có những tiết học dành riêng để
trang bị kiến thức cho học sinh.
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, việc sử dụng các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết tiếng Việt là không thể thiếu. Đặc biệt là các công trình nghiên cứu
khoa học.
Nhìn nhận ở mức độ hẹp, thực tế vùng nông thôn, việc sử dụng các kỹ
năng tiếng Việt còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, thực tế đòi hỏi việc sử dụng các kỹ
năng tiếng Việt ngày càng cao hơn phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Với tác dụng lớn lao đó, xét về vai trò của nó trong quá trình nhận thức
của học sinh lại là vấn đề đặt ra đối với các nhà giáo dục.
3. Tổ chức thực nghiệm
5/20


3.1. Phương pháp nghiên cứu
Với đặc trưng của phân môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa
yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của
giáo viên, việc học của học sinh. Để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm
các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra
được nhiều kinh nghiệm thông qua các tiết dạy trên lớp, tôi đã hướng dẫn học
sinh thực hiện theo các bước sau:
+ Đọc thật kỹ đề bài

+ Nắm chắc yêu cầu của đề bài.
+ Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm.
+ Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
+ Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp
rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm
bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là
bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức
riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với
các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
Muốn làm được việc đó, trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung
các chủ điểm mà phân môn “Luyện từ và câu” cần cung cấp.
Qua các bài mở rộng vốn từ, học sinh được mở rộng vốn từ theo từng chủ
điểm. Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa của từ, rèn luyện
khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm, rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành
ngữ, tục ngữ,....
Ví dụ: Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4 học kì I có các chủ điểm:
+ Chủ điểm 1: Thương người như thể thương thân- “Nhân hậu - Đoàn kết”.
+ Chủ điểm 2: Măng mọc thẳng- “Trung thực - Tự trọng”.
+ Chủ điểm 3: Trên đôi cánh ước mơ - “Thực hiện ước mơ”.
+ Chủ điểm 4: Có chí thì nên - “Ý chí - Nghị lực”.
+ Chủ điểm 5: Tiếng sáo điều - “Đồ chơi - Trò chơi”.
Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo các chủ điểm, phân môn Luyện từ
và câu cung cấp làm giàu vốn từ cho học sinh, đặt biệt là hệ thống từ ngữ. Cung
cấp cho học sinh được gắn với chủ điểm ở từng lớp, nhằm tăng cường sự hiểu
biết của học sinh về nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Phần từ loại cung cấp cho
học sinh đầy đủ các kiến thức về từ loại (danh từ, động từ, tính từ).

6/20



Cụ thể là khái niệm về danh từ, động từ, tính từ (học xen kẽ gắn với chủ
điểm). Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, từng học sinh được: Tìm hiểu về
cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong văn, thơ.
Tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh
cần hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau đó là từ ghép.
Ví dụ: sách vở, bàn ghế, bạn bè, ....
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần)
giống nhau đó là từ láy.
Ví dụ: ngay ngắn, mộc mạc, chầm chậm, se sẽ,...
Khi sử dụng cần lưu ý: Cung cấp kiến thức sơ giản về một số loại từ cơ
bản của tiếng Việt danh từ, động từ, tính từ. Trong chương trình sách giáo khoa,
mỗi nội dung danh từ, động từ, tính từ đều có loại bài cung cấp kiến thức mới và
thực hành luyện tập.
Phần từ loại cung cấp một số kiến thức về các từ loại của danh từ, động
từ, tính từ thông qua các bài tập: nhận diện từ theo từ loại, luyện viết danh từ
riêng, tìm và phân loại từ theo từ loại, luyện sử dụng từ.
Cấu trúc của phần từ loại danh từ, động từ, tính từ lớp 4.
Cấu trúc gồm 3 phần:
Phần nhận xét: Cung cấp ngữ liệu thường là những câu thơ, câu văn,
đoạn văn, đoạn thơ có chứa các hiện tượng ngôn ngữ cần tìm hiểu. Cung cấp hệ
thống câu hỏi gợi ý để học sinh tìm ra các đặc điểm có tính chất quy luật của
hiện tượng được tìm hiểu.
Phần ghi nhớ: Là nội dung kiến thức và quy tắc sử dụng từ và câu được
rút ra sau phần nhận xét để yêu cầu học sinh ghi nhớ. Ghi nhớ được đóng khung
trong sách giáo khoa.
Phần luyện tập: Gồm hệ thống bài tập nhằm củng cố và vận dụng các

kiến thức đã học vào những tình huống mới. Có hai loại bài tập ở phần luyện
tập là bài tập nhận diện và bài bài tập vận dụng
Thông qua các bài tập:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm các từ: rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh.
- Thông qua các bài tập về câu: Học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng
các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
7/20


1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định.
3. Yêu cầu, mong muốn...
3.2. Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập “Luyện từ và câu”.
3.2.1. Đối với các dạng bài tập:Mở rộng vốn từ.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh
làm việc theo nhóm (nhóm 4). Mỗi nhóm một yêu cầu. Sau khi làm xong, đại
diện nhóm trả lời. Nhóm khác nhận xét. Giáo viên kết luận, chốt lời giải đúng.
Ví dụ: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên
chốt lại ý kiến đúng. Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc
sống, quá trình học tập.
3.2.2. Đối với các dạng bài tập: Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ - Tìm danh từ,

động từ, tính từ, từ ghép, từ láy.
3.2.2.1. Trước tiên giáo viên giúp học sinh hiểu kiến thức về từ loại sau khi học
sinh nắm chắc kiến thức các em tự vận dụng để làm tốt các bài tập vận dụng.
a. Danh từ:
Danh từ là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc
đơn vị).
Ví dụ:
- Danh từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng, sấm, chớp,...
- Danh từ chỉ khái niệm: đạo đức, người, kinh nghiệm, cách mạng,...
- Danh từ chỉ đơn vị: ông, vị (vị giám đốc), cô (cô Tấm), cái, bức, tấm,... ;
mét, lít, ki-lô-gam,...; nắm, mớ, đàn,...
Khi phân loại danh từ tiếng Việt trước hết, người ta phân chia thành 2
loại: Danh từ riêng và danh từ chung.
+ Danh từ riêng là tên riêng của một sự vật (tên người, tên địa phương,
tên địa danh,..)
+ Danh từ chung là tên của một loại sự vật (dùng để gọi chung cho một
loại sự vật). Danh từ chung có thể chia thành 2 loại:
+ Danh từ cụ thể là danh từ chỉ sự vật mà ta có thể cảm nhận được bằng
các giác quan (sách, vở, gió, mưa,...).
8/20


+ Danh từ trừu tượng là các danh từ chỉ sự vật mà ta không cảm nhận
được bằng các giác quan (cách mạng, tinh thần, ý nghĩa,...)
Các danh từ chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị được giảng dạy
trong chương trình sách giáo khoa lớp 4 chính là các loại nhỏ của danh từ chung.
+ Danh từ chỉ hiện tượng: Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian và
thời gian mà con người có thể nhận thấy, nhận biết được. Có hiện tượng tự nhiên
như: mưa, nắng, sấm, chớp, động đất,..và hiện tượng xã hội như: chiến tranh, đói
nghèo, áp bức,..Danh từ chỉ hiện tượng là danh từ biểu thị các hiện tượng tự

nhiên (cơn mưa, ánh nắng, tia chớp,...) và hiện tượng xã hội (cuộc chiến tranh,
sự đói nghèo,...) nói trên.
- Cụm danh từ:
+ Danh từ có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng ở phía trước, các từ chỉ
định ở phía sau và một số từ ngữ khác để lập thành cụm danh từ. Cụm danh từ là
loại tổ hợp từ do danh từ và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
+ Trong cụm danh từ, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho danh từ các
ý nghĩa về số và lượng. Các phụ ngữ ở phần sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà
danh từ biểu thị hoặc xác định vị trí của sự vật ấy trong gian hay thời gian.
b. Động từ:
Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Ví dụ:
- đi, chạy, nhảy,... (Động từ chỉ hoạt động).
- vui, buồn, giận, ... (Động từ chỉ trạng thái).
*Mấy lưu ý về động từ chỉ trạng thái:
Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là: nếu như
động từ chỉ hoạt động, hành động có thể kết hợp với từ “xong” ở phía sau (ăn
xong, đọc xong ,...) thì động từ chỉ trạng thái không kết hợp với “xong” ở phía
sau (không nói: còn xong, hết xong, kính trọng xong, ...).
Trong tiếng Việt một số loại động từ chỉ trạng thái sau:
+ Động từ chỉ trạng thái tồn tại (hoặc trạng thái không tồn tại): còn, hết, có,...
+ Động từ chỉ trạng thái biến hoá: thành, hoá,...
+ Động từ chỉ trạng thái tiếp thụ: được, bị, phải, chịu,...
+ Động từ chỉ trạng thái so sánh: bằng, thua, hơn, là,...
Một số “nội động từ” sau đây cũng được coi là động chỉ trạng thái: nằm,
ngồi, ngủ, thức, nghỉ ngơi, suy nghĩ, đi, đứng, lăn, lê, vui, buồn, hồi hộp, băn
khoăn, lo lắng,...Các từ này có một số đặc điểm sau:
+ Một số từ vừa được coi là động từ chỉ hành động, lại vừa được coi là
động từ chỉ trạng thái.
9/20



+ Một số từ chuyển nghĩa thì được coi là động từ chỉ trạng thái (trạng thái
tồn tại).
Ví dụ:
Bác đã đi rồi sao Bác ơi! (Tố Hữu)
Anh ấy đứng tuổi rồi.
+ Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ (kết hợp được với các từ
chỉ mức độ). Các “ngoại động từ” sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng
thái (trạng thái tâm lí): yêu, ghét, kính trọng, chán, thèm, hiểu,...Các từ này
mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và
tính từ. Có một số động từ chỉ hành động dược sử dụng như một động từ chỉ
trạng thái. Động từ chỉ trạng thái mang một số đặc điểm về ngữ pháp và ngữ
nghĩa giống như tính từ.
Ví dụ:
Trên tường treo một bức tranh.
Dưới gốc cây có buộc một con ngựa.
*Xem thêm về động từ nội động và động từ ngoại động:
- Động từ nội động: là những động từ hướng vào người làm hoạt động
(ngồi, ngủ, đứng,...). Động từ nội động không có khả năng có bổ ngữ chỉ đối
tượng trực tiếp mà phải có quan hệ từ.
Ví dụ: Bố mẹ rất lo lắng cho tôi.
(Động từ nội động, quan hệ từ, bổ ngữ)
- Động từ ngoại động: là những động từ hướng đến người khác, vật khác
(xây, phá, đập, cắt,...).
- Động từ ngoại động có khả năng có bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp.
Ví dụ: Bố mẹ rất thương yêu tôi.
(Động từ ngoại động, bổ ngữ)
* Cụm động từ:
Động từ thường kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh (ở phía trước) và một

số từ ngữ khác để tạo thành cụm động từ. Cụm động từ là loại tổ hợp từ do động
từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Nhiều động từ phải có các từ ngữ
phụ thuộc đi kèm, tạo thành cụm động từ mới trọn nghĩa.
Trong cụm động từ, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho động từ các ý
nghĩa: quan hệ thời gian; sự tiếp diễn tương tự; sự khuyến khích hoặc ngăn cản
hành động; sự khẳng định hoặc phủ định hành động,...Các phụ ngữ ở phần sau
bổ sung cho động từ các chi tiết về đối tượng, hướng, địa điểm, thời gian, mục
đích, nguyên nhân, phương tiện và cách thức hành động.
c.Tính từ:
10/20


Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của vật, hoạt động,
trạng thái,...
* Có 2 loại tính từ đáng chú ý là:
- Tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ.
Ví dụ: xanh, tím, sâu, vắng,..
- Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ (mức độ cao nhất).
Ví dụ: xanh lè, tím ngắt, sâu hoắm, vắng tanh,...
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái:
- Từ chỉ đặc điểm:
Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một một sự vật nào đó (có thể
là người, con vật, đồ vật, cây cối,...). Đặc điểm của một vật chủ yếu là đăc điểm
bên ngoài (ngoại hình) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe,
tay sờ, mũi ngửi,... Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối, hình
dáng, âm thanh,... của sự vật.
Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên trong mà qua quan sát,
suy luận, khái quát,..ta mới có thể nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính
tình, tâm lí, tính cách của một người, độ bền, giá trị của một đồ vật... Từ chỉ đặc
điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã nêu ở trên.

Ví dụ:
+ Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng, hẹp, xanh, đỏ,...
+ Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ, bền bỉ,...
- Từ chỉ tính chất:
Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả
những hiện tượng xã hội, những hiện tượng trong cuộc sống,...), nhưng thiên về
đặc điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được mà phải qua quá trình quan
sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhân biết được. Do đó, từ chỉ
tính chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: tốt, xấu, ngoan, hư, nặng, nhẹ, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ,...
Như vậy, đối với học sinh tiểu học khi phân biệt (một cách tương đối) từ
chỉ đặc điểm và từ chỉ tính chất, giáo viên có thể tạm thời cho rằng: từ chỉ đặc
điểm thiên về nêu các đặc điểm bên ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các
đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng.
- Từ chỉ trạng thái:
Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong
một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại của sự vật, hiện
tượng trong thực tế khách quan.
Ví dụ:
11/20


Trời đang đứng gió.
Người bệnh đang hôn mê.
Cảnh vật yên tĩnh quá.
Mặt trời toả ánh nắng rực rỡ.
Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ
hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian), theo như định
hướng trong chương trình sách giáo khoa ở cấp Tiểu học, chúng ta thống nhất
chỉ xếp chúng vào nhóm động từ để học sinh dễ phân biệt.

* Cụm tính từ: Tính từ có thể kết hợp với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi,
lắm, quá, cực kì, vô cùng,...để tạo thành cụm tính từ (khả năng kết hợp với các
phụ từ mệnh lệnh (như động từ) ngay trước nó là rất hạn chế). Trong cụm tính
từ, các phụ ngữ ở phần trước có thể biểu thị quan hệ thời gian; sự tiếp diễn
tương tự, mức độ của đặc điểm, tính chất, sự khẳng định hay phủ định.
3.2.2.2. Hướng dẫn học sinh nghiên cứu, thực hiện bài tập ở trên lớp
Trong chương trình sách giáo khoa, mỗi nội dung danh từ, động từ, tính
từ đều có loại bài cung cấp kiến thức mới và thực hành luyện tập. Do đó, khi
hướng dẫn các loại bài này (kể cả trong các nội dung tương tự khác), giáo viên
cần lưu ý một số điểm sau:
+ Khi hướng dẫn học sinh học phần nhận xét trong sách giáo khoa, người
giáo viên cần chủ động dẫn dắt, gợi ý cho học sinh trao đổi chung ở lớp để từ đó
rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức một cách nhanh gọn (tránh phân tích
ngữ liệu quá kĩ, mất nhiều thời gian).
+ Trong quá trình luyện tập, giáo viên có thể nhắc lại một số kiến thức
liên quan để học sinh thực hiện bài tập; tổ chức cho học sinh làm bài theo hình
thức trao đổi nhóm (trên cơ sở vận dụng kiến thức đã học, kết hợp tự học và
giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ được giao).
+ Đối với lớp có nhiều đối tượng học sinh yếu, học sinh còn hạn chế về
tiếng Việt, giáo viên cũng cần chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu của
bài tập, làm thử trên lớp một phần hoặc một bài cụ thể (trước khi yêu cầu học
sinh làm vào bảng nhóm hoặc vở bài tập, vở nháp,...).
+ Với đặc trưng của phân môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn
giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy
của giáo viên, việc học của học sinh, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức,
kỹ năng làm các bài tập về từ loại cho học sinh lớp 4.
Trong từng tiết dạy tôi đã nghiên cứu và rút ra được kinh nghiệm thông
qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước
sau:
12/20



1. Đọc thật kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho
và yếu tố phải tìm.
3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề
bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
3.2.3. Luyện tập các bài có dạng tìm tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống
giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các
bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
+ Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình cần
viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
+ Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh
thường hay mắc lỗi ở danh từ chung. Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung
là gì? Sau đó áp dụng vào bài của mình
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn trích sau:
Rồi đột nhiên, con Dế húc toang vỏ đất mỏng, từ cái ngách bí mật vọt ra.
Con Dế ngang bướng nhảy rúc vào đám cỏ. Ong xanh đã đuổi tới nơi. Ong xanh
thò cái đuôi dài xanh lè xuống dưới mình Dế, nhắm trúng cổ họng Dế mà chích
một phát. Con Dế đầu gục, râu cụp, đôi càng oải xuống. Bấy giờ, ong mới buông
Dế ra, rũ bụi, vuốt râu và thở.
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Học sinh nhớ lại khái niệm động từ.
Đọc lại từng câu trong đoạn văn. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng.
3.2.4. Dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày
để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự
khi đặt câu.

* Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
+ Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
+ Tả chiếc bút em đang dùng.
+ Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
+ Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Yêu cầu trên khác nhau: tả, kể, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
+ Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...

13/20


+ Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc
cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
Giáo viên hướng dẫn mẫu:
+ Ta kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
Ví dụ 2: Đặt từ 3 đến 4 câu để:
a) Kể một việc em làm trong ngày Tết.
b) Nói lên niềm vui của em khi Tết đến.
c) Miêu tả cảnh đường làng em trong ngày Tết.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực
hành lời yêu cầu của bài tập.
* Câu hỏi:
Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết.
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng
rất cụ thể. Cụ thể là khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự:
1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người
được hỏi.

2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Ví dụ : So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ
hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các
bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi,
cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp
lời bàn tán sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Học sinh phải xác định
câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau.
Các câu các em hỏi nhau:
- Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm.
- Hay cụ đánh mất cái gì?
14/20


Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất
phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như
thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ
(chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc
sâu cho học sinh về kiến thức sử dụng câu hỏi, cần đặt những câu hỏi lịch sự,
tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.

Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã hướng dẫn
các em phải đặt câu đó trong văn cảnh cụ thể.
3.3. Đổi mới phương pháp sinh hoạt tổ chuyên môn và ứng dụng
CNTT vào tiết dạy
Bên cạnh những giải pháp mà bản thân tôi đã đưa ra thì việc đẩy mạnh
công tác sinh hoạt tổ chuyên môn cũng góp phần không nhỏ trong việc giúp giáo
viên trong tổ xác định rõ trọng tâm tiết dạy, trao đổi với nhau những kinh
nghiệm hay về cách thức tổ chức tiết học sao cho có hiệu quả cao cũng như việc
giải quyết những vấn đề khó trong các tiết dạy nói chung cũng như tiết Luyện từ
và câu nói riêng.
Tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp giúp giáo viên nắm được
phương pháp cũng như cách thức tổ chức các hoạt động trong tiết dạy sao cho
gây hứng thú cho học sinh và đạt hiệu quả cao trong tiết dạy.
Tuyên truyền để giáo viên tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết
dạy giúp học sinh tiếp thu bài học một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả.
4. Kết quả thực nghiệm:
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp
tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Trải qua một thời
gian học tập của học sinh, cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu, tôi
đã tiến hành cho học sinh lớp tôi làm bài kiểm tra để xem sự chuyển biến của
học sinh như thế nào?
* Phiếu khảo sát chất lượng trước khi thực hiện các giảỉ pháp ứng
dụng:
1. Ghi lại các từ đơn và từ phức trong đoạn văn sau:
Ngày nọ bố tôi lái xe đưa ông chủ đi tham dự một buổi họp quan trọng tại
một thành phố khác. Ra tới ngoại ô, họ dừng lại ăn tạm bánh ngọt ngay trong xe
thay cho bữa ăn trưa.
2. Xếp các từ láy có trong đoạn văn sau vào nhóm thích hợp:

15/20



Biển luôn thay đổi theo màu sắc của mây trời… Trời âm u mây mưa, biển
xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm, dông gió, biển đục ngầu, giận dữ… Như một con
người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm
chiêu, gắt gỏng.
a) Từ láy có hai tiếng giống nhau ở âm đầu.
b) Từ láy có hai tiếng giống nhau ở vần.
3. Nhóm từ nào sau đây toàn là từ ghép?
a) vận động viên, đường chạy, sẵn sàng, cuộc thi, tín hiệu, xuất phát.
b) vị trí, vòng cua, vận động viên, đường đua, đường chạy, sợ hãi.
c) loạng choạng, khu vực, đá dăm, đường đua, cuộc thi, xuất phát.
* Phiếu khảo sát chất lượng sau khi thực hiện các giảỉ pháp ứng dụng:
Đọc đoạn văn và hoàn thành các bài tập:
Các vận động viên đã vào đường chạy để sẵn sàng cho cuộc thi. Khi có tín
hiệu xuất phát, Giôn đã khởi đầu rất tốt. Cậu luôn giữ vị trí thứ hai cho đến khi
qua vòng cua thứ nhất. Đột nhiên, một vận động viên khác chạy lấn vào đường
đua của Giôn khiến em không nhìn thấy đường chạy của mình nữa. Tôi sợ hãi
khi thấy hai chân của cậu loạng choạng, rồi ngã vào khu vực đá dăm bên cạnh
đường đua.
Thế nhưng Giôn đã gượng đứng dậy, nheo mắt nhìn đường đua và tiếp tục
chạy, chân trái khập khiễng vì đau. Cậu tiếp tục chạy qua khúc cua một cách bền
bỉ. Khi gần bắt kịp vận động viên cuối cùng, Giôn lại bị trượt chân và ngã. Cậu
nằm khá lâu.
1. Xếp các từ láy có trong đoạn văn trên vào nhóm thích hợp:
a) Từ láy có hai tiếng giống nhau ở âm đầu.
b) Từ láy có hai tiếng giống nhau ở vần.
2. Tìm danh từ riêng có trong đoạn văn trên?
3. Tìm 5 động từ, 5 tính từ có trong đoạn văn trên?
4. Tìm câu kể theo yêu cầu sau:

a) Kể về sự vật, sự việc?
b) Tả về sự vật, sự việc?
c) Nói lên ý kiến hoặc tâm tư, tình cảm của người?

16/20


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Biện pháp tổ chức dạy học các dạng bài tập về “Luyện từ và câu” là một
vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa trong thực tiễn dạy học, nhưng đây là
một vấn đề còn gặp khó khăn trong thực tế dạy học của giáo viên và quá trình
học tập của học sinh. Tôi đã nghiên cứu và đưa ra được cơ sở lý luận khẳng định
vị trí của dạng bài tập là một phần học có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
triển vốn từ, sử dụng từ và câu, đặc biệt phần từ loại có ý nghĩa quan trọng là
cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ loại, rèn luyện cho học sinh
kĩ năng dùng từ loại để đặt câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen sử dụng từ
đơn, từ phức và từ loại danh từ, động từ, tính từ.
Thực tiễn dạy học phần bài tập này học sinh chưa có thói quen phân tích
dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm chưa đúng hoặc không làm hết yêu
cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời
rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài
không đạt yêu cầu. Đặt ra vấn đề học sinh nắm kiến thức một cách máy móc,
thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn, cần phải khắc phục vấn đề này.
Để có thể thực hiện các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của phân môn
Luyện từ và câu, giúp học sinh học tốt phần từ loại. Tôi đã đưa ra một số biện
pháp tổ chức dạy các dạng bài tập. Mỗi biện pháp, phương pháp đều có ưu
nhược điểm riêng, mỗi biện pháp, phương pháp được sử dụng hợp lý, khoa học
sẽ phát huy được công dụng của nó. Các phương pháp và biện pháp này được tôi
ứng dụng, vận dụng các phương pháp, biện pháp đã đề xuất, chuẩn bị các nội

dung bài tập phần từ loại danh từ, động từ, tính từ. Chọn các đơn vị kiến thức cơ
bản để đáp ứng phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh tự giác làm bài tập và lĩnh hội kiến thức. Thiết kế giáo án theo tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học, theo hướng tăng cường tổ chức các hoạt động trí tuệ
cho học sinh, để học sinh làm việc theo sự hướng dẫn của giáo viên. Ứng dụng
phương pháp đổi mới dạy học theo định hướng phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo, lấy người học làm trung tâm khi tiến hành thực nghiệm.
2. Kết quả
Sau khi áp dụng các giải pháp trên tôi nhận thấy: Kết quả thu được là các
em tiếp thu bài tốt, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, giúp
các em học tập một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Chất lượng học sinh
học môn Tiếng Việt nâng lên rõ rệt. Câu văn của các em dùng từ chưa đúng ít
hơn. Đặc biệt rèn kĩ năng nói, diễn đạt của các em rất mạch lạc, phong phú, tự
nhiên. Nhiều câu văn hay, từ ngữ gây sự bất ngờ thú vị, có sức gợi cảm lớn.
17/20


Điều đó chứng tỏ vốn từ của các em được nâng lên, các em biết sử dụng
vốn từ một cách hợp lý hơn, sinh động hơn. Sau mỗi giờ học gây được sự sảng
khoái ham thích học tập. Kết quả thu được của lớp 4A sau khi thực hiện các giảỉ
pháp ứng dụng:
* Bảng số liệu trước khi thực hiện các giảỉ pháp ứng dụng:
TT Thời gian

Lớp

Tổng
số HS

Kết quả

HHT
SL

1

Tháng 9

2

Tháng 9

4A
(Thực nghiệm)
4C
(Đối chứng)

%

HT
SL

CHT

%

SL

%

42


7

16,7 10 23,8 25 59,5

42

10

23,8 18 42,9 14 33,3

* Bảng số liệu sau khi thực hiện các giảỉ pháp ứng dụng:
Kết quả
TT

Thời
gian

Lớp

Tổng
số HS

HHT
SL

%

HT
SL


CHT
%

SL
%

1

Tháng
12

2

Tháng
12

4A
(Thực nghiệm)
4C
(Đối chứng)

42

22

52,4

20


47,6

0

0

42

15

35,7

25

59,5

2

4,8

* Bảng số liệu trước và sau khi thực hiện các giảỉ pháp ứng dụng của
lớp thực nghiệm
TT

Thời
gian

Lớp

Kết quả


Tổng
số HS

HHT
SL

1

Tháng 9

2

Tháng
12

4A
(Thực nghiệm)
4A
(Thực nghiệm)

%

HT
SL

%

CHT
SL


%

42

7

16,7 10 23,8 25 59,5

42

22

52,
4

18/20

20 47,6

0

0


Nhìn vào bảng số liệu chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học
các bài tập “Luyện từ và câu” là rất quan trọng. Nó quyết định rất nhiều đến kết
quả học tập của học sinh. Sau khi thực hiện đề tài này, tôi đã trao đổi với giáo
viên lớp 4 về việc áp dụng các phương pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh cách
làm các dạng bài tập luyện từ và câu, các giáo viên đã áp dụng và cho biết:

- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức,
tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu
một cách có hiệu quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một
cách chủ động.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc
có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của
bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.
- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt
câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của
mình.
- Qua việc chỉ đạo, theo dõi kết quả của học sinh qua các đợt kiểm tra, bài
kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện
từ và câu” bất kỳ lúc nào. Điều đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích
môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.
Tuy kết quả tôi nêu trên ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên
tôi trong công tác giảng dạy, giúp đỡ giáo viên trong việc phát hiện bồi dưỡng và
ôn tập cho học sinh. Một số giải pháp mà tôi đưa ra trong đề tài này tuy bé nhỏ
như vậy nhưng cũng đóng góp phần nào cho giáo viên khối lớp 4 đang trực tiếp
giảng dạy đã tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các
dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh của mình.
3. Những đề xuất và khuyến nghị
3.1. Đối với nhà trường
Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có
thể học tập nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ.
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại
sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều
thành tích cao trong giảng dạy và học tập.

+ Đẩy mạnh và phát huy việc sinh hoạt tổ chuyên môn trong nhà trường.

19/20


+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ qua các hội thảo, chuyên đề.
3.2. Đối với giáo viên
- Trước khi lên lớp người giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài giảng, chuẩn
bị đầy đủ đồ dùng và thiết bị dạy học, tìm ra phương pháp dạy phù hợp với từng
dạng bài.
- Luôn tạo không khí học tập sôi nổi, lôi cuốn học sinh tập trung chú ý
nghe giảng, kích thích học sinh tư duy, suy nghĩ, sáng tạo làm cho giờ học diễn
ra nhẹ nhàng, hiệu quả.
- Luôn tôn trọng học sinh, nhất là tạo cơ hội cho các em được diễn đạt
thoải mái để phát huy năng lực của các em.
3.3. Đối với phụ huynh
- Gia đình là nơi mà các em thoải mái, tự tin, mạnh dạn bày tỏ ý kiến nhất,
luôn theo dõi mọi biểu hiện của các em. Do vậy, gia đình phải là chỗ dựa vững
chắc cho các em.
- Tạo mọi điều kiện tốt nhất để các em thích đi học. Mua đủ sách giáo
khoa và đồ dùng học tập cũng như các loại sách tham khảo về môn Tiếng Việt.
- Quan tâm, nhắc nhở việc học ở nhà của con em mình.
- Tạo mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc giáo dục toàn diện cho học sinh.
Trong thời gian nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để áp dụng cũng
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp ý của Hội đồng
khoa học và các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Khi dạy
và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói
chung được nhẹ nhàng hơn, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người

phát triển toàn diện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan, đây là sáng kiến
do tôi tự viết không sao chép của ai.
Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

20/20


21/20



×