Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tình hình triển khai “Chương trình hành động thực hiện Định hướng phát triển thống kê Việt Nam đến năm 2010”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.94 KB, 65 trang )

Kết quả triển khai “Chương trình hành động thực hiện
Định hướng phát triển thống kê Việt Nam đến năm 2010”
những năm vừa qua, nhiệm vụ còn lại năm 2009-2010
và một số khuyến nghị

TS. Trần Kim Đồng

Chuyên gia trong nước, Dự án 00040722
“Hỗ trợ giám sát phát triển kinh tế-xã hội”

Hà Nội, tháng 12 năm 2008


I-BỐI CẢNH
Ngày 21 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 141/2002/QĐ-TTg phê duyệt Định hướng phát triển thống kê Việt Nam đến
năm 2010 với mục tiêu “Thống kê Việt Nam đổi mới cả về nội dung và hình
thức, nhằm cung cấp kịp thời thông tin thống kê kinh tế-xã hội đầy đủ về nội
dung, toàn diện về phạm vi, tin cậy về chất lượng, phục vụ tốt nhất yêu cầu của
Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước; đáp ứng ngày
càng đầy đủ, thuận lợi nhu cầu sử dụng thông tin thống kê của các đối tượng
khác, đưa thống kê Việt Nam đạt trình độ thống kê tiên tiến của các nước trong
khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tích cực vào việc thực hiện lộ
trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”.
Để thực hiện thắng lợi Định hướng nêu trên, ngày 02 tháng 5 năm 2003
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã có Văn bản số 301/TCTK-VP đề ra
“Chương trình hành động thực hiện Định hướng phát triển thống kê Việt
Nam đến năm 2010” với 7 chương trình lớn như sau:
(1) Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho công tác
thống kê;
(2) Chương trình hoàn thiện hệ thống các sản phẩm thống kê và xây dựng


chính sách phổ biến thông tin thống kê;
(3) Chương trình cải tiến, hoàn thiện phương pháp thống kê và hệ thống thu
thập số liệu thống kê;
(4) Chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành
Thống kê;
(5) Chương trình củng cố tổ chức và phát triển nguồn lực cho công tác
thống kê;
(6) Chương trình tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật cho công tác thống kê;
(7) Chương trình tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê.
Quá trình triển khai thực hiện 7 chương trình nêu trên đến nay đã qua 6 năm,
trong đó có một số Chương trình đã kết thúc thời gian thực hiện nên cần và có
thể tiến hành đánh giá, rà soát tình hình và kết quả triển khai trong những năm
vừa qua. Đối với những Chương trình có thời gian thực hiện đã kết thúc như
Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho công tác thống
2


kê với thời gian thực hiện 3 năm (2003-2005); Chương trình hoàn thiện hệ thống
các sản phẩm thống kê và xây dựng chính sách phổ biến thông tin thống kê với
thời gian thực hiện 5 năm (2003-2007) sẽ tiến hành đối chiếu kết quả thực hiện
với những nội dung đã đề ra để chỉ rõ những việc đã hoàn thành và những việc
không hoàn thành. Đối với các Chương trình còn lại do thời gian thực hiện tới
năm 2010 nên sẽ tập trung đánh giá mức độ hoàn thành và xác định nhiệm vụ
còn lại trong những năm 2009-2010 để có kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện.
Việc đánh giá và rà soát kết quả thực hiện các Chương trình hành động
theo yêu cầu đặt ra ở trên gặp trở ngại lớn do Tổng cục Thống kê nói chung và
các đơn vị chủ trì từng Chương trình nói riêng không tiến hành sơ kết, tổng kết
tình hình thực hiện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm như kế hoạch đề ra nên kết
quả thực hiện không được cập nhật đầy đủ. Thêm vào đó, có Chương trình như
Chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Thống kê

khi xây dựng giao cho Trung tâm Tính toán Thống kê Trung ương (nay là Trung tâm
Tin học Thống kê) chủ trì; nhưng trong quá trình cơ cấu lại tổ chức và bố trí lại
chức năng nhiệm vụ, phần việc này lại thuộc Vụ Phương pháp Chế độ Thống kê
nên việc đánh giá kết quả thực hiện trong những năm vừa qua càng khó khăn. Để
khắc phục một phần khó khăn về thiếu tư liệu đánh giá, chúng tôi đã tranh thủ ý
kiến của các đơn vị được phân công chủ trì các Chương trình như: Vụ Tổ chức
Cán bộ, Vụ Phương pháp Chế độ Thống kê, Vụ Hợp tác Quốc tế, Vụ Kế hoạch
Tài chính và Trung tâm Tin học Thống kê. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã dựa vào
Báo cáo tổng kết công tác hàng năm của ngành Thống kê và của cơ quan Tổng cục
Thống kê cũng như các nguồn thông tin khác để có thêm tư liệu hình thành
Báo cáo đánh giá này.
Mặc dù nỗ lực như vậy nhưng có thể Báo cáo đánh giá của chúng tôi vẫn
chưa phản ánh được đầy đủ kết quả đạt được và những hạn chế của việc triển
khai thực hiện các Chương trình hành động trong những năm 2003-2008 vừa
qua. Với nhận thức như vậy chúng tôi rất mong các đơn vị, nhất là các đơn vị
được phân công chủ trì các Chương trình bổ sung thêm thông tin để Báo cáo bảo
đảm tính khách quan và toàn diện hơn, không chỉ phản ánh được kết quả triển
khai thực hiện các Chương trình trong những năm vừa qua, mà còn là căn cứ để xác
định nhiệm vụ còn lại trong những năm 2009-2010 và đề ra những lĩnh vực cần ưu
tiên để xây dựng “Định hướng phát triển thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-2020”.
3


II-TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CHƯƠNG TRÌNH
1-Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho
công tác thống kê
A-Tóm tắt Chương trình
(1) Mục đích: Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, hiệu lực hơn cho công tác thống kê.
(2) Thời gian thực hiện: 2003-2005
(3) Nội dung cơ bản:

- Hoàn thiện Dự án Luật Thống kê trình Quốc hội ban hành;
- Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thống kê trình
Chính phủ ban hành kịp thời, đồng bộ với Luật Thống kê;
- Xây dựng chương trình phổ biến các văn bản pháp luật về thống kê;
triển khai thực hiện và tiến hành kiểm tra, thanh tra theo kế hoạch hàng
năm nhằm đảm bảo các văn bản này được thực hiện nghiêm minh.
(4) Đơn vị chủ trì: Vụ Phương pháp Chế độ Thống kê và Ban Soạn thảo Luật
Thống kê.
(5) Đơn vị phối hợp:
- Thanh tra Tổng cục Thống kê và các đơn vị khác thuộc cơ quan Tổng
cục Thống kê;
- Các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Bộ, ngành.
B-Tình hình thực hiện
Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho công tác
thống kê được bố trí thực hiện trong 3 năm 2003-2005 do một số hoạt động của
Chương trình này, trong đó có việc dự thảo Luật Thống kê đã được triển khai từ
những năm trước đó. Đến nay đã kết thúc thời gian thực hiện nên sẽ đánh giá kết
quả thực hiện Chương trình này theo 3 nội dung cơ bản đã đề ra.
a) Nội dung thứ nhất: Hoàn thiện Dự án Luật Thống kê trình Quốc hội
ban hành
Thực hiện Nghị quyết số 19/1998/QH 10 ngày 02/12/1998 của Quốc hội
Khóa X về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội Khóa X và
Nghị quyết số 76/1999/NQ-UBTWQH ngày 23/3/1999 của Ủy ban Thường vụ
4


Quốc hội về việc triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã
giao cho Tổng cục Thống kê phối hợp với các Bộ, ngành soạn thảo Dự án Luật
Thống kê thay thế các quy định về thống kê trong Pháp lệnh Kế toán và Thống

kê ban hành năm 1988.
Để phục vụ công tác soạn thảo, Tổng cục Thống kê đã tiến hành tổng kết
13 năm (1988 – 2001) thực hiện công tác thống kê theo tinh thần và những quy
định trong Pháp lệnh Kế toán và Thống kê; đồng thời tổ chức nghiên cứu Luật
Thống kê của 15 nước (Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malayxia,
Inđônêxia, Singapor, Nga, Thụy Điển, Hà Lan, Ba Lan, Đức, Pháp, Australia,
Canada) và Luật mẫu về Thống kê do Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc soạn thảo
cho các nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường tham khảo. Tổng cục
Thống kê cũng đã thành lập Ban soạn thảo Dự án Luật Thống kê do Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê làm Trưởng ban, có sự tham gia của lãnh đạo Bộ Tư
pháp, Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Văn phòng Quốc hội và một số Bộ, ngành khác.
Qua nhiều lần dự thảo với sự đóng góp ý kiến của các Bộ, ngành và các cơ
quan có liên quan, tại phiên họp tháng 9 năm 2001 Chính phủ đã thảo luận và
thông qua Dự thảo Luật, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Dự thảo
Luật tiếp tục được hoàn thiện và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa
XI, tháng 12 năm 2002. Tại Kỳ họp này, các đại biểu Quốc hội đã cho ý kiến
phải tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Luật, tập trung vào một số nội dung sau: Tên,
phạm vi điều chỉnh của Luật; nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê; các
hành vi bị nghiêm cấm; việc ứng dụng khoa học-công nghệ vào hoạt động thống
kê; hệ thống tổ chức thống kê nhà nước và vị trí, vai trò của thống kê
xã/phường/thị trấn; cơ quan quản lý nhà nước về thống kê.
Để hoàn thiện Dự thảo Luật Thống kê trình Quốc hội ban hành tại kỳ họp
thứ 3 Quốc hội khoá XI năm 2003 như nội dung thứ nhất của Chương trình hoàn
thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho công tác thống kê đề ra, Ban soạn
thảo Luật đã nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội và ý kiến chỉ
đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; phối hợp chặt chẽ với Thường trực Uỷ ban
Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, Thường trực Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội
và các cơ quan hữu quan khẩn trương chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật.

5


Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; sự
quyết tâm cao của lãnh đạo Tổng cục Thống kê và Ban soạn thảo Luật; sự hỗ trợ,
phối hợp có hiệu quả của các cơ quan hữu quan nên Luật Thống kê đã được Quốc
hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17/6/2003, được Chủ tịch nước ký Lệnh
công bố số 13/L/CTN ngày 26/6/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004.
Văn bản pháp quy quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động thống kê từ mức
chỉ là một phần trong Pháp lệnh Kế toán và Thống kê ban hành năm 1988, đến
nay đã có được một Luật điều chỉnh riêng là một bước tiến quan trọng. Điều này
không chỉ nâng cao môi trường pháp lý cho công tác thống kê, mà còn thể hiện sự
quan tâm và đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội đối với vai trò
và vị trí của ngành Thống kê trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Như vậy, nội
dung thứ nhất của Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho
công tác thống kê đã hoàn thành đúng thời hạn đã đề ra.
b) Nội dung thứ hai: Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Thống kê trình Chính phủ ban hành
Ngay trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Thống kê, lãnh đạo Tổng cục
Thống kê và Ban soạn thảo Luật đã phối hợp với các cơ quan hữu quan dự thảo
một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thống kê trình Chính phủ ban hành kịp
thời, đồng bộ với Luật Thống kê. Nhờ tinh thần chủ động như vậy nên chỉ sau
gần 8 tháng kể từ ngày Luật Thống kê được Quốc hội thông qua và sau hơn một
tháng kể từ ngày Luật Thống kê có hiệu lực thi hành, ngày 13/02/2004, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 40/2004/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thống kê. Nghị định này gồm 26 điều, quy định chi
tiết về đối tượng cung cấp thông tin thống kê; hệ thống chỉ tiêu thống kê; bảng
phân loại thống kê; chế độ báo cáo thống kê, điều tra thống kê; công bố và sử
dụng thông tin thống kê; ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động thống kê
và tổ chức thống kê.

Một văn bản quan trọng khác được xây dựng và ban hành góp phần đưa
Luật Thống kê sớm phát huy trong hoạt động thực tiễn, đó là Nghị định số
14/2005/NĐ-CP ngày 04/02/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thống kê. Nghị định này được ban hành dựa trên 3 văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó có Luật Thống kê. Nghị định gồm 6 chương với 39
điều, quy định hành vi được coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê;
6


đồng thời quy định hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm
quyền và thủ tục xử phạt các vi phạm này.
Nghị định 40/2004/NĐ-CP và Nghị định 14/2005/NĐ-CP của Chính phủ
nêu trên cùng với những văn bản khác được các cấp có thẩm quyền ban hành sau
khi Quốc hội thông qua Luật Thống kê nhằm trực tiếp hướng dẫn hoặc góp phần
hướng dẫn thi hành Luật Thống kê cho thấy trong những năm 2003-2005 ngành
Thống kê đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai thực hiện nội dung thứ hai của
Chương trình hoàn thiện và tăng cường môi trường pháp lý cho công tác thống
kê và do vậy đã hoàn thành được mục tiêu đề ra cho nội dung này.
c) Nội dung thứ ba: Xây dựng chương trình phổ biến các văn bản
pháp luật về thống kê; triển khai thực hiện và tiến hành kiểm tra,
thanh tra theo kế hoạch hàng năm nhằm đảm bảo các văn bản này
được thực hiện nghiêm minh
Ngay sau khi Luật Thống kê và các văn bản liên quan được ban hành, Tổng cục
Thống kê đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và
có hiệu quả. Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã thành lập Ban tuyên truyền
và phổ biến Luật Thống kê và phổ biến Nghị định số 40/2004/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê. Ngoài
việc viết bài đăng báo, tạp chí, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại
chúng của Trung ương và địa phương, Ban tuyên truyền và phổ biến Luật Thống kê

còn phân công các thành viên đến các cơ quan Bộ, ngành và địa phương tổ chức
các buổi trình bày nội dung cơ bản của Luật Thống kê và các văn bản có liên quan.
Dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục Thống kê, Ban tuyên truyền và phổ
biến Luật Thống kê đã phối hợp với các Vụ và các đơn vị khác của Tổng cục
Thống kê biên soạn 99 câu hỏi-đáp về Luật Thống kê. Luật Thống kê, Nghị định
số 40/2004/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thống kê và 99 câu hỏi-đáp về Luật Thống kê cùng với những văn bản khác về
thống kê đã được Tổng cục Thống kê tập hợp biên soạn thành cuốn sách “Luật
Thống kê và các văn bản hướng dẫn thi hành”, xuất bản tháng 02/2004 với số
lượng phát hành trên 6 nghìn cuốn, phổ biến tới nhiều đối tượng trong nước và
quốc tế. Để phổ biến Luật Thống kê ra nước ngoài và tới các đối tượng quốc tế
khác, Ban tuyên truyền và phổ biến Luật Thống kê đã phối hợp với Vụ Hợp tác
7


Quốc tế biên dịch Luật Thống kê ra tiếng Anh và cung cấp trực tiếp cho các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu về Luật Thống kê của Việt Nam nói riêng và
hợp tác về thống kê với Việt Nam nói chung.
Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động phổ biến, tuyên truyền về Luật
Thống kê và Nghị định 40/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thống kê,
Tổng cục Thống kê còn phối hợp với thống kê Bộ, ngành và các cơ quan, đơn vị
khác tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra nghiệp vụ, trong đó
tập trung thanh tra việc chấp hành chế độ báo cáo và điều tra thống kê. Từ năm
2004 đến nay, Ban Thanh tra Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Thanh tra của
các Cục Thống kê địa phương và thống kê Bộ, ngành tiến hành khoảng 2 nghìn cuộc
thanh tra nghiệp vụ. Qua thanh tra đã kịp thời phát hiện, nhắc nhở, uốn nắn, thậm chí
còn kiên quyết xử phạt những trường hợp vi phạm nghiêm trọng những vấn đề nghiệp
vụ chuyên môn đã được Luật Thống kê và các văn bản khác về thống kê đã quy định.
Những hoạt động nêu trên cho thấy trong những năm 2003- 2005 ngành
Thống kê đã xây dựng được chương trình cụ thể, thiết thực và khả thi, góp phần

đưa Luật Thống kê nhanh chóng đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, các hoạt động này
những năm về sau và nhất là những năm gần đây tiến hành chưa thường xuyên.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật Thống kê và các văn bản pháp
quy có liên quan như trong nội dung thứ 3 đề ra là tiến hành theo kế hoạch hàng
năm, nhìn chung không có chương trình thực hiện riêng, chủ yếu lồng ghép
trong việc triển khai thực hiện Nghị định số 14/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê và các hoạt động khác.
Trong chương trình công tác thống kê năm 2006 đề ra nhiệm vụ sơ kết 2
năm thực hiện Luật Thống kê, nhưng không thực hiện được. Do việc tuyên
truyền, phổ biến, giám sát, đánh giá việc thực hiện Luật Thống kê và các văn
bản có liên quan không liên tục nên nhận thức về Luật Thống kê trong cộng
đồng nói chung và trong cán bộ, công chức thống kê nói riêng vẫn còn hạn chế.
Không ít cán bộ, công chức ngay trong ngành Thống kê đến nay vẫn chưa nắm
chắc nội dung của Luật Thống kê. Luật Thống kê có hiệu lực thi hành từ
1/1/2004 nhưng tình trạng chưa chấp hành nghiêm túc các quy định pháp quy về
điều tra thống kê, báo cáo thống kê, công bố và sử dụng thông tin thống kê vẫn
còn diễn ra khá phổ biến.
8


2-Chương trình hoàn thiện hệ thống sản phẩm thống kê và xây dựng
chính sách phổ biến thông tin thống kê
A-Tóm tắt chương trình
(1) Mục đích:
- Phát triển các sản phẩm và dịch vụ thống kê theo hướng đa dạng hoá,
đồng bộ hoá và tin học hoá;
- Xây dựng và ban hành chính sách phổ biến thông tin thống kê.
(2) Thời gian thực hiện: 2003-2007
(3)Nội dung cơ bản:
- Hoàn thiện và chuẩn hoá hệ thống các sản phẩm thống kê, bao gồm:

Báo cáo kinh tế-xã hội hàng tháng; niên giám thống kê; các sản phẩm
công bố kết quả các cuộc tổng điều tra và điều tra thống kê; các sản
phẩm số liệu thống kê nhiều năm; các sản phẩm phân tích và dự báo
thống kê; tạp chí và các bản tin thống kê;
- Tăng cường công tác phổ biến thông tin thống kê, trong đó chú trọng
tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa ngành Thống kê với các đối
tượng sử dụng thông tin thống kê; đa dạng hoá hình thức phổ biến
thông tin thống kê;
- Xây dựng cơ chế, chính sách phổ biến và sử dụng thông tin thống kê
đảm bảo thông tin thống kê được phổ biến kịp thời, rộng rãi, minh
bạch và bình đẳng giữa các đối tượng dùng tin;
- Nâng cao năng lực phổ biến thông tin thống kê với hai giải pháp
chủ yếu: Hình thành cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia và xây dựng, áp
dụng cơ chế dịch vụ thông tin thống kê.
(4)Đơn vị chủ trì: Vụ Thống kê Tổng hợp
(5)Đơn vị phối hợp:
- Các Vụ nghiệp vụ, Văn phòng cơ quan Tổng cục Thống kê, Tạp chí
Con số và sự kiện, Nhà Xuất bản Thống kê; các đơn vị khác thuộc cơ
quan Tổng cục Thống kê;
- Các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Bộ, ngành.
9


B-Tình hình thực hiện
Chương trình hoàn thiện hệ thống sản phẩm thống kê và xây dựng chính
sách phổ biến thông tin thống kê được bố trí thực hiện trong 5 năm 2003-2007
và do vậy cũng đã kết thúc thời gian thực hiện. Dưới đây sẽ đánh giá việc hoàn
thành Chương trình này lần lượt theo 4 nội dung đã đề ra.
a) Nội dung thứ nhất: Hoàn thiện và chuẩn hóa hệ thống các sản phẩm

thống kê
Trong nội dung này, nhiệm vụ đặt ra là phải chuẩn hóa và đổi mới về thời
gian, nội dung, hình thức và quy trình biên soạn của tất cả các sản phẩm thống
kê, trong đó tập trung vào 5 loại chủ yếu: Báo cáo thống kê kinh tế-xã hội tháng,
quý, 6 tháng, 9 tháng và cả năm; niên giám thống kê; các sản phẩm công bố kết
quả các cuộc điều tra; các sản phẩm số liệu thống kê nhiều năm; các sản phẩm
phân tích và dự báo thống kê; tạp chí và các bản tin thống kê.
(1) Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng và cả năm
Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng và cả năm
(sau đây gọi tắt là báo cáo hàng tháng) là một trong những sản phẩm thông tin
truyền thống và quan trọng nhất của Tổng cục Thống kê. Báo cáo này được tiến
hành định kỳ hàng tháng với kết cấu gồm phần số liệu và phần lời văn, phản ánh
diễn biến tình hình kinh tế-xã hội của đất nước theo tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng
và cả năm. Số liệu của tháng báo cáo là số liệu chính thức 15 ngày đầu tháng và
ước tính số liệu thực hiện những ngày còn lại của tháng báo cáo. Báo cáo do Vụ
Thống kê Tổng hợp xử lý và biên soạn trên cơ sở các báo cáo của các Vụ thống
kê chuyên ngành của Tổng cục Thống kê; báo cáo của các Bộ, ngành và báo cáo
của các Cục Thống kê địa phương. Thông thường báo cáo hoàn thành vào ngày
25 hàng tháng và cung cấp cho các đối tượng sử dụng chủ yếu dưới dạng tài liệu
in sẵn, mỗi tháng khoảng 500 bản.
Để nâng cao chất lượng báo cáo tình hình kinh tế-xã hội hàng tháng, trong
những năm 2003-2007 Tổng cục Thống kê đã không ngừng hoàn thiện và tăng
cường khâu thu thập thông tin đầu vào, thể hiện cụ thể như sau:
- Một là, cùng với việc bổ sung, cải tiến chế độ báo cáo thống kê tổng hợp
của các Cục Thống kê và thống kê các Bộ, ngành, Tổng cục Thống kê còn
tăng cường các cuộc điều tra mẫu hàng tháng về sản xuất công nghiệp,
10


xây dựng, thương mại và dịch vụ; đồng thời chú trọng khai thác tài liệu từ

các hồ sơ đăng ký hành chính như số liệu xuất nhập cảnh, số liệu xuất
nhập khẩu hàng hoá tổng hợp từ các tờ khai hải quan; số liệu về phát triển
dịch vụ viễn thông qua các hợp đồng lắp đặt thuê bao điện thoại cố định,
thuê bao internet; số liệu khai giảng năm học của ngành Giáo dục đào tạo;
số liệu tai nạn giao thông của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia; số liệu
thiệt hại về thiên tai của Uỷ ban phòng chống thiên tai...
- Hai là, trong nhiều trường hợp, việc thu thập thông tin còn được tiến
hành bằng một số phương pháp và hình thức khác, trong đó có việc tham
gia các cuộc giao ban, đánh giá tình hình của các Bộ, ngành, Tổng công ty
91 và đặc biệt là vào các tháng cuối quý những năm trước đây còn mời
các Bộ, ngành và một số Cục Thống kê địa phương đến phản ánh tình
hình kinh tế-xã hội thuộc Bộ, ngành hoặc thuộc địa phương quản lý.
Nhờ những nỗ lực như trên nên mặc dù kinh tế-xã hội trong những năm vừa
qua diễn biến phức tạp, nhưng Báo cáo hàng tháng của Tổng cục Thống kê vẫn
phản ánh kịp thời và tương đối sát thực trạng và xu hướng phát triển của tình hình
kinh tế-xã hội của đất nước bằng số liệu thống kê định lượng, có tính thuyết phục
cao. Báo cáo này ngày càng được các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong
nước và quốc tế tin cậy sự dụng. Từ tháng 7/2003, Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội
của Tổng cục Thống kê đã trở thành một trong những tài liệu chính thức của các
kỳ họp thường kỳ hàng tháng của Chính phủ.
Sự cải tiến và hoàn thiện Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội của Tổng cục
Thống kê đặt ra yêu cầu, đồng thời cũng cung cấp thêm kinh nghiệm để nâng cao
chất lượng Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội của các Cục Thống kê. Trong những
năm 2002 trở về trước, hàng năm các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chỉ gửi về Tổng cục Thống kê 4 báo cáo tình hình kinh tế-xã hội trên
địa bàn vào các tháng cuối quý nhưng từ năm 2003 đến nay đã quy định Báo cáo
tình hình kinh tế-xã hội hàng tháng của các Cục Thống kê không chỉ gửi tới cấp
ủy, chính quyền, các cơ quan tổng hợp và các đối tượng khác trên địa bàn, mà tất cả
các tháng đều phải gửi Tổng cục Thống kê để bổ sung thêm thông tin cho Báo cáo
chung của Tổng cục Thống kê và qua đó, Tổng cục Thống kê có cơ sở xem xét,

đánh giá và giúp đỡ các Cục Thống kê cải tiến, hoàn thiện Báo cáo tình hình
kinh tế-xã hội của địa phương. Để giám sát và đánh giá kết quả nâng cao chất
11


lượng Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội của các Cục Thống kê, Tổng cục Thống
kê đã đề ra nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giao kế hoạch hàng năm và
chấm điểm thi đua kết quả thực hiện.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong chương trình hành động thì Báo cáo
tình hình kinh tế-xã hội của Tổng cục Thống kê cũng như các Cục Thống kê vẫn
chưa có tiến bộ rõ về mặt chất lượng nội dung và hình thức thể hiện.
-Về nội dung, chương trình hành động đề ra mục tiêu “bổ sung các chỉ tiêu
chủ yếu để phản ánh đồng bộ diễn biến tình hình kinh tế-xã hội”, nhưng so với
trước năm 2003 thì số lượng chỉ tiêu chủ yếu hầu như không tăng hơn. Trong các
Báo cáo phần lớn vẫn là các chỉ tiêu kinh tế; chỉ tiêu xã hội và môi trường còn
nghèo nàn. Nhóm các chỉ tiêu chủ yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng
năm của cả nước cũng như của từng địa phương nhìn chung chưa được thu thập,
tổng hợp và phản ánh đầy đủ, nhất là trong Báo cáo cuối năm. Đáng chú ý là, tình
trạng khác biệt về số liệu giữa Báo cáo của các Cục Thống kê và Báo cáo của một
số Bộ, ngành với Báo cáo của Tổng cục Thống kê chậm được khắc phục, thậm chí
còn có xu hướng ngày càng doãng ra.
- Về hình thức thể hiện, mà cụ thể là cách viết Báo cáo chủ yếu vẫn là mô
tả tình hình, diễn giải số liệu, chưa đi sâu phân tích nguyên nhân, dự báo xu
hướng phát triển và đề xuất giải pháp. Chưa sử dụng nhiều các phương pháp
phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, trong đó có phương pháp phân tích và dự báo
theo mô hình đang được thống kê nhiều nước sử dụng phổ biến và có hiệu quả.
(2) Niên giám thống kê
Niên giám thống kê cũng là sản phẩm truyền thống và quan trọng của
ngành Thống kê. Do vậy, Tổng cục Thống kê đã duy trì phát hành hai loại niên
giám thống kê: Niên giám thống kê tóm tắt phát hành vào tháng 3 và Niên giám

thống kê đầy đủ phát hành vào tháng 6 hàng năm. Năm 2003 và 2004 Tổng cục
Thống kê đã tiến hành nghiên cứu, chuẩn hoá market Niên giám thống kê đầy đủ
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dùng tin và phù hợp với chuẩn mực
quốc tế. Kết quả nghiên cứu, chuẩn hoá đã từng bước được vận dụng trong quá
trình biên soạn niên giám thống kê những năm vừa qua.
Ngoài việc bố trí lại kết cấu cho hợp lý hơn, Niên giám thống kê đầy đủ
của Tổng cục Thống kê còn bổ sung thêm phần “Doanh nghiệp” với 24 biểu;
12


trong một số phần như “Tài khoản quốc gia” bổ sung thêm một số chỉ tiêu về thu
chi ngân sách nhà nước; phần “Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản” bổ sung thêm các
chỉ tiêu về hợp tác xã và trang trại; phần “Số liệu thống kê nước ngoài” bổ sung
thêm số liệu của Việt Nam để tiện so sánh, đối chiếu. Từ năm 2005, niên giám
thống kê đầy đủ và tóm tắt của Tổng cục Thống kê đã thay đổi cách bố trí và
trình bày bìa đẹp hơn và sáng sủa hơn.
Niên giám thống kê đầy đủ của hầu hết các Cục Thống kê địa phương
cũng có những cải tiến và hoàn thiện về nội dung, hình thức và thời gian phát
hành. Nhiều Cục Thống kê còn biên soạn Niên giám tóm tắt, được các đối
tượng sử dụng rất hoan nghênh. Thống kê một số Bộ, ngành duy trì được việc
biên soạn Niên giám thống kê chuyên ngành như: Niên giám thống kê y tế của
Bộ Y tế; Niên giám thống kê giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Niên
giám thống kê văn hoá thông tin của Bộ Văn hoá Thông tin trước đây (nay là
Bộ Văn hoá, Thông tin và Du lịch).
Tuy nhiên, việc chuẩn hoá và hoàn thiện Niên giám thống kê của Tổng
cục Thống kê cũng như Niên giám thống kê của các Cục Thống kê địa phương
và Niên giám thống kê các Bộ, ngành còn nhiều việc chưa làm được, cụ thể là:
- Niên giám thống kê đầy đủ của Tổng cục Thống kê tuy đã xây dựng và
chuẩn hoá được market theo chuẩn mực quốc tế nhưng chưa áp dụng được đầy
đủ vì thiếu cơ sở số liệu tổng hợp đưa vào hệ thống biểu đã xây dựng. Một trong

những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là việc chuẩn hóa market Niên giám
chưa đi liền với xây dựng kế hoạch, lộ trình và phân công trách nhiệm thu thập,
tổng hợp số liệu.
- Nguyên tắc bảo đảm số liệu Niên giám thống kê địa phương và Niên giám
thống kê Bộ, ngành không mâu thuẫn với số liệu trong Niên giám thống kê của
Tổng cục Thống kê tuy đã triển khai nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa khắc phục
được. Tình trạng mâu thuẫn số liệu vẫn tiếp tục diễn ra.
- Chương trình hành động đã đề ra cho các Vụ Thống kê chuyên ngành
xúc tiến biên soạn và phát hành Niên giám thống kê chuyên ngành nhằm chi tiết
hoá và bổ sung các số liệu thống kê chuyên ngành trong Niên giám thống kê
tổng hợp, nhưng đến nay chưa có đơn vị nào thực hiện được.

13


(3) Sản phẩm công bố kết quả các cuộc điều tra
Trong những năm vừa qua, ngành Thống kê nói chung và Tổng cục
Thống kê nói riêng tiến hành nhiều cuộc điều tra, nhất là tổng điều tra và những
cuộc điều tra có quy mô lớn nên sản phẩm thông tin này ngày một nhiều hơn,
trong đó có những sản phẩm chủ yếu sau: Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản năm 2006; kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự
nghiệp năm 2007; kết quả điều tra doanh nghiệp hàng năm; kết quả điều tra cơ sở
sản xuất kinh doanh cá thể hàng năm; kết quả điều tra chi tiêu của khách du lịch
hàng năm; kết quả điều tra biến động dân số, nguồn lao động và kế hoạch hoá gia
đình hàng năm; kết quả điều tra di cư năm 2004; kết quả điều tra mức sống hộ gia
đình năm 2004; kết quả điều tra vị thành niên năm 2005...
Các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thống kê các
Bộ, ngành cũng đã đẩy mạnh biên soạn các sản phẩm thông tin công bố kết quả
điều tra tiến hành trên địa phương mình, ngành mình. Đơn cử, Bộ Nội vụ đã phổ
biến tương đối rộng rãi kết quả điều tra cán bộ, công chức và viên chức năm 2005;

Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả tổng kiểm kê đất năm 2006. Ngoài
việc thường xuyên công bố kết quả những cuộc điều tra do Tổng cục Thống kê
tiến hành trên địa phương, các Cục Thống kê còn công bố kết quả các cuộc điều
tra do Cục Thống kê phối hợp với các Sở, ban, ngành của địa phương hoặc phối
hợp với các Bộ, ngành thực hiện trên địa bàn.
Bên cạnh những tiến bộ như trên, việc công bố kết quả các cuộc điều tra
thống kê trong những năm vừa qua vẫn còn có những hạn chế và bất cập, đó là:
- Trong chương trình hành động đề ra phải rút ngắn khoảng cách giữa thời
gian điều tra tới khi công bố kết quả điều tra, nhưng nhìn chung chưa có sự
chuyển biến rõ rệt. Những cuộc điều tra quy mô lớn và nhất là tổng điều tra
thường phải sau một hoặc hai năm mới công bố được kết quả chính thức.
- Các sản phẩm công bố chủ yếu là những thông tin đã tổng hợp, người sử
dụng thông tin còn rất khó khăn trong việc tiếp cận với cơ sở dữ liệu ban đầu
hay còn gọi là dữ liệu thô.
- Các sản phẩm công bố thường chỉ có phần số liệu, ít khi có các bản lời
văn phân tích, đánh giá tương xứng với khối lượng lớn số liệu đã thu thập, xử lý
và tổng hợp được.
14


(4) Các sản phẩm số liệu thống kê nhiều năm
Mục tiêu đề ra trong chương trình hành động cho các sản phẩm thông tin
này là biên soạn theo chu kỳ 5 năm với các dãy số liệu đảm bảo tính so sánh về
thời gian, không gian và có nhiều chỉ tiêu mang tính phân tích. Thực hiện mục
tiêu này, trong những năm 2003-2007 trên phạm vi Tổng cục Thống kê cũng như
các Cục Thống kê địa phương và thống kê các Bộ, ngành đã chú ý phát triển các
ấn phẩm và sản phẩm thông tin điện tử theo hướng đa dạng hoá.
Riêng Tổng cục Thống kê đã phát hành được một số ấn phẩm số liệu nhiều
năm quan trọng như: Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-2005; Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam 2000-2006; Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX; Số

liệu thống kê tài khoản quốc gia 1995-2002; Công nghiệp Việt Nam trong những
năm đổi mới 1986-2005; Số liệu chi phí trung gian ngành công nghiệp trong
những năm 2000-2003; Số liệu thống kê giá 20 năm đổi mới; Xuất nhập khẩu
hàng hoá 2001-2005; Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI; Tư liệu
kinh tế-xã hội các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
Hạn chế lớn nhất của loại sản phẩm này là chưa xây dựng được kế hoạch
tổng thể biên soạn và phát hành để giao cho các đơn vị thực hiện. Những sản
phẩm biên soạn nêu trên chủ yếu là từng đơn vị đề xuất và thực hiện. Một tồn tại
rất lớn khác đang đặt ra như đã nêu ở trên là số liệu công bố trong các sản phẩm
của các Cục Thống kê và thống kê các Bộ, ngành trong nhiều trường hợp không
thống nhất với số liệu công bố của Tổng cục Thống kê; thậm chí ngay trong một
chuyên ngành, một đơn vị cũng có sự sai khác về số liệu giữa các lần xuất bản,
làm cho các đối tượng dùng tin bị động, lúng túng khi sử dụng và giảm lòng tin
đối với số liệu của ngành Thống kê công bố.
(5) Các sản phẩm phân tích và dự báo thống kê
Trong những năm 2003-2007 ngành Thống kê đã biên soạn được một số
sản phẩm thông tin thuộc loại này. Dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục
Thống kê, Vụ Thống kê Tổng hợp đã phối hợp với các Vụ nghiệp vụ và với các
đơn vị khác biên soạn cuốn Kinh tế-xã hội 3 năm 2001-2003; Kinh tế-xã hội 5
năm 2001-2005. Vụ Dân số và Lao động cũng có những sản phẩm phân tích
chuyên khảo về dân số; Vụ Xã hội và Môi trường ngoài báo cáo phân tích mức
sống dân cư còn có báo cáo phân tích “Những cuộc đời trẻ thơ”; Vụ Thống kê
Công nghiệp và Xây dựng phân tích về thực trạng doanh nghiệp... Ngoài các sản
15


phẩm phân tích và dự báo do các Vụ và các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục
Thống kê thực hiện, những năm vừa qua đã có bước phát triển mới về việc biên
soạn và phát hành các sản phẩm này ở các Cục Thống kê địa phương. Hầu hết
các Cục Thống kê đều có các sản phẩm phân tích thống kê 5 năm 2001-2005 hoặc

phân tích tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn qua 20 năm đổi mới (1986-2005).
Một số Cục Thống kê phía Nam còn tiến hành phân tích thực trạng kinh tế-xã
hội của địa phương sau 30 năm giải phóng và thống nhất đất nước (1975-2005).
Tuy nhiên đây vẫn là khâu yếu và chưa có sự cải thiện đáng kể cả về số
lượng và chất lượng các sản phẩm. Các sản phẩm phân tích chủ yếu mới tập
trung đánh giá thực trạng tình hình, chưa sử dụng các công cụ dự báo để chỉ ra
xu hướng phát triển của tình hình trong ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do trong những năm vừa qua
chưa xây dựng được kế hoạch biên soạn các sản phẩm phân tích và dự báo cho
từng chuyên ngành, lĩnh vực theo định kỳ hoặc chu kỳ xác định nên hoạt động
này không được bố trí các nguồn lực và các điều kiện khác để thực hiện. Đây là
công việc phức tạp, nếu không chỉ đạo sát sao và không tạo các điều kiện cần
thiết để triển khai thì rất khó thực hiện được mục tiêu đề ra.
(6) Tạp chí và các bản tin thống kê
Tổng cục Thống kê đã duy trì biên soạn và phát hành tạp chí “Con số và Sự
kiện” mỗi tháng 1 kỳ; Thông tin “Chỉ số giá cả hôm nay” mỗi tháng 2 kỳ; Tờ
gấp số liệu tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng và cả năm. Ngoài ra, từ năm 2005 còn
biên soạn và xuất bản “Bản tin thông tin thống kê” mỗi tháng 2 kỳ và ra thông
cáo báo chí về tình hình kinh tế-xã hội của cả nước hàng tháng. Tuy nhiên, các
sản phẩm thông tin này chưa được cải tiến nhiều về nội dung và hình thức, số
lượng phát hành còn hạn chế. Đến nay các sản phẩm thông tin này vẫn chưa
được biên soạn theo tiếng nước ngoài để cung cấp cho các nhà đầu tư, các tổ
chức tài chính quốc tế và các đối tượng là người nước ngoài khác.
b) Nội dung thứ 2: Tăng cường công tác phổ biến thông tin thống kê
Công tác phổ biến thông tin thống kê trong những năm vừa qua nhìn
chung được tăng cường cả trên phạm vi Tổng cục Thống kê cũng như ở các cục
Thống kê và thống kê các Bộ, ngành. Do vậy đối tượng thông tin đã được mở
rộng hơn, lượng thông tin phổ biến tới các đối tượng cũng nhiều hơn. Thông tin
thống kê thu thập, xử lý và tổng hợp được không chỉ đáp ứng yêu cầu của lãnh
16



Sở dĩ đạt được kết quả trên là do các đơn vị trong ngành Thống kê đã triển
khai tốt mục tiêu đa dạng hóa hình thức phổ biến thông tin thống kê mà chương
trình hành động đã đề ra, bao gồm: Họp báo; sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng; phát hành các ấn phẩm; sử dụng các phương tiện điện tử chứa thông
tin thống kê; tổ chức thư viện, phòng đọc; giới thiệu sản phẩm thông tin thống kê
tại các cửa hàng sách và sử dụng các phương tiện truyền đưa thông tin khác như
điện thoại, fax, email.
Ngoài việc phổ biến dưới hình thức in và phát hành ấn phẩm theo cách
làm truyền thống, những năm gần đây các sản phẩm thông tin như báo cáo tình
hình kinh tế xã hội hàng tháng, niên giám thống kê hàng năm, kết quả các cuộc
điều tra, các sản phẩm phân tích thống kê còn được in và phát hành qua đĩa CDROOM hoặc đưa lên website và internet. Các hoạt động phổ biến thông tin thống

kê khác như họp báo công bố số liệu 6 tháng và cả năm, in và phát hành tờ gấp
số liệu hàng quí, ra thông cáo báo chí tình hình kinh tế-xã hội hàng tháng tiếp tục
được duy trì. Hàng năm Tổng cục Thống kê đều xuất bản và phát hành cuốn
“Giới thiệu một số sản phẩm thông tin chủ yếu” phục vụ các đối tượng dùng tin
tra cứu để thu thập thông tin thống kê.
Đáng chú ý là ngày 03/9/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định
101/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục Thống kê. Theo Nghị định này, Tổng cục Thống kê được thành lập
thêm một số đơn vị, trong đó có Trung tâm Tư liệu Thống kê. Ngày 22/6/2004
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cũng đã ban hành Quyết định số 403/QĐTCTK quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức hoạt động của
Trung tâm Tư liệu Thống kê với tư cách là đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc
Tổng cục Thống kê, có chức năng tập hợp, lưu giữ, quản lý các tư liệu thống kê
đã được công bố; phổ biến thông tin thống kê này đến các đối tượng dùng tin
theo cơ chế phù hợp; là đầu mối thực hiện dịch vụ thống kê theo quy định của
pháp luật và quy chế của Tổng cục Thống kê.
Trung tâm Tư liệu Thống kê được thành lập đã góp phần quan trọng vào

việc tăng cường phổ biến thông tin thống kê của Tổng cục Thống kê cũng như
của các Cục Thống kê và của thống kê các Bộ, ngành. Trong thời gian vừa qua
17


Trung tâm này đã tiến hành một số hoạt động thu thập, hệ thống hóa, cập nhật,
lưu giữ và quản lý các tư liệu thống kê đã được ngành Thống kê công bố để
cung cấp cho các đối tượng sử dụng. Trung tâm cũng đã xây dựng được Thư
viện tư liệu thống kê, trong đó nhiều thông tin đã được cài đặt trong máy vi
tính để người dùng tin có thể tra cứu tại chỗ. Ngoài ra, Trung tâm còn xây
dựng Trang thông tin điện tử thống kê (website) và đưa vào hoạt động từ
tháng 10/2004.
Hoạt động phổ biến thông tin trong thời gian vừa qua tuy đã được đẩy
mạnh, nhưng vẫn chưa tương xứng với vị trí như nó cần phải có. Một số hoạt
động cần tiến hành như tổ chức hội nghị khách hàng/người dùng tin; điều tra nhu
cầu thông tin là những hoạt động có vai trò lớn trong việc tăng cường mối quan
hệ chặt chẽ giữa ngành thống kê với các đối tượng sử dụng thông tin thống kê
nhưng chậm được triển khai. Trong chương trình hành động đề ra từ năm 2003
hàng năm phải tiến hành điều tra nhu cầu thông tin thống kê, nhưng năm 2006
mới tổ chức điều tra thí điểm và năm 2008 mới chính thức triển khai.
c) Nội dung thứ ba: Xây dựng cơ chế, chính sách phổ biến và sử dụng
thông tin thống kê
Chương trình hành động đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng cơ chế, chính
sách phổ biến và sử dụng thông tin thống kê rõ ràng và minh bạch theo 4 nguyên
tắc cơ bản: (i) Phải tạo lập được mối liên hệ thường xuyên và tác động qua lại
giữa ngành Thống kê với các đối tượng sử dụng thông tin thống kê; (ii) Đảm bảo
cho các thông tin thống kê được phổ biến một cách kịp thời, rộng rãi, minh bạch
và bình đẳng giữa các đối tượng dùng tin; (iii) Hình thức phổ biến thông tin phải
được đa dạng hóa và phù hợp với từng loại thông tin, chu kỳ phổ biến, điều kiện
kỹ thuật công nghệ và đối tượng dùng tin; (iv) Đảm bảo nguyên tắc bí mật quốc

gia và bí mật thông tin cá nhân theo Luật thống kê quy định.
Triển khai kế hoạch này, năm 2003 và 2004, Vụ Thống kê Tổng hợp đã tiếp
tục hoàn thiện dự thảo Chính sách phổ biến thông tin được biên soạn từ những
năm 1998-2000 trong khuôn khổ hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Quỹ Dân số
Liên hợp quốc (UNFPA). Tuy nhiên, hoạt động này những năm sau đó đã không
được đưa vào kế hoạch công tác hàng năm của Tổng cục Thống kê nên đến nay
Chính sách phổ biến thông tin vẫn không được tiếp tục nghiên cứu xây dựng và
do vậy chưa được ban hành.
18


d) Nội dung thứ tư: Nâng cao năng lực phổ biến thông tin thống kê
Trong chương trình hành động, hoạt động này được tiến hành bằng hai
hoạt động quan trọng:
- Hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và
nhà nước, đáp ứng công tác quản lý nhà nước của các Bộ ngành,
địa phương, phục vụ yêu cầu khai thác thông tin thống kê theo nhiều
hình thức khác nhau (tại chỗ, qua mạng tin học diện rộng, internet,
email, fax…);
- Áp dụng cơ chế dịch vụ thống kê, thu phí cung cấp các thông tin thống
kê, các sản phẩm thống kê đối với các đối tượng có nhu cầu sử dụng
thông tin thống kê cho mục đích sản xuất kinh doanh và cho các hoạt
động sinh lời khác.
Để triển khai hoạt động thứ nhất, trong Quyết định 402/QĐ-TCTK ban
hành ngày 14/8/2004, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã giao cho vụ
Thống kê Tổng hợp “Xây dựng, cập nhật, quản lý nội dung cơ sở dữ liệu
quốc gia về thống kê kinh tế-xã hội”; năm 2006 đã cử đoàn khảo sát tại cơ
quan thống kê Hàn Quốc học hỏi kinh nghiệm về lĩnh vực này. Ngoài các
công việc khởi động đã nêu trên thì hoạt động thứ nhất không tiến hành thêm
công việc nào khác. Do đó cơ sở dữ liệu quốc gia thống kê kinh tế-xã hội

đến nay vẫn chưa được hình thành, thậm chí chưa có kế hoạch cụ thể về thời
gian hình thành.
Hoạt động thứ hai được giao cho Trung tâm Tư liệu Thống kê thực hiện.
Trong thời gian vừa qua, Trung tâm này đã tiến hành một số công việc nghiên cứu
như: Khảo sát hoạt động dịch vụ thống kê tại Philipin năm 2004; năm 2005 triển
khai đề tài khoa học “Nghiên cứu xác định nội dung và hình thức phổ biến thông
tin thống kê của Trung tâm Tư liệu Thống kê”, trong đó có đề cập đến cơ chế dịch
vụ thông tin thống kê; năm 2006 triển khai đề tài khoa học “Nghiên cứu nội dung
và cơ chế tổ chức hoạt động dịch vụ thống kê”. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
thực tiễn, Trung tâm Tư liệu Thống kê đang xây dựng Quy chế dịch vụ thông tin
thống kê trình Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê ban hành. Dự thảo Quy chế
này đang lấy ý kiến đóng góp của các Vụ, Viện, các Cục Thống kê và các đơn vị
khác trong Tổng cục Thống kê, khả năng này sẽ được hoàn thiện và ban hành
trong những tháng tới.
19


3-Chương trình cải tiến, hoàn thiện phương pháp thống kê và
hệ thống thu thập số liệu thống kê
A-Tóm tắt chương trình
(1)Mục đích: Cải tiến, hoàn thiện phương pháp tính các chỉ tiêu trong các chế
độ báo cáo thống kê, điều tra thống kê cho phù hợp với thực tiễn và phù
hợp với chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở nâng cao chất lượng thông tin thống
kê, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin thống kê.
(2) Thời gian thực hiện:
- Năm 2003-2004 hoàn thiện toàn bộ việc ban hành các hệ thống chỉ
tiêu, các chế độ báo cáo và sửa đổi chương trình điều tra thống kê;
- Năm 2005-2010 tiếp tục chỉnh lý cho phù hợp với những thay đổi của
thực tiễn và chuẩn quốc tế.
(3)Nội dung cơ bản:

- Cải tiến và hoàn thiện phương pháp thống kê, bao gồm: Hoàn thiện
hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế-xã hội; mở rộng áp dụng hệ thống tài
khoản quốc gia; chuẩn hóa hệ thống các bảng phân loại, danh mục, chú
trọng xây dựng các bảng cân đối quan trọng;
- Hoàn thiện hệ thống thu thập số liệu thống kê, bao gồm: Xây dựng hệ
thống đăng ký các thông tin cơ bản; xây dựng hệ thống thông tin về sử
dụng đất đai; cải tiến chế độ báo cáo thống kê; tổ chức hợp lý các cuộc
tổng điều tra, điều tra định kỳ và điều tra hàng năm; tăng cường sử
dụng các nguồn số liệu sẵn có như tài liệu kế toán, tài liệu của hệ thống
thuế, tài liệu đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép đầu tư, giấy phép xây
dựng nhằm góp phần nâng cao chất lượng số liệu thống kê, góp phần
tiết kiệm kinh phí điều tra thu thập.
(4)Đơn vị chủ trì: Vụ Phương pháp Chế độ Thống kê.
(5)Đơn vị phối hợp:
- Các Vụ, Viện, Trung tâm Tin học Thống kê và các đơn vị khác thuộc
cơ quan Tổng cục Thống kê;
- Các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Bộ, ngành.
20


B-Tình hình thực hiện
a) Nội dung thứ nhất: Cải tiến và hoàn thiện phương pháp thống kê
(1) Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế-xã hội
Trong chương trình hành động, việc hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê
kinh tế-xã hội được xác định là cần phải tiến hành theo hướng đồng bộ, phản ánh
được yêu cầu cơ bản về thông tin của các đối tượng sử dụng, đủ để so sánh với hệ
thống chỉ tiêu thống kê của các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó chú
trọng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội tổng hợp, bao gồm: Các chỉ tiêu tài khoản quốc
gia, tài chính công, ngân hàng, thị trường chứng khoán, bảo hiểm, chỉ số phát triển

con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số giới. Phương pháp tính các chỉ tiêu phải
được cải tiến phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và theo chuẩn mực quốc
tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập và so sánh quốc tế.
Thực hiện mục tiêu này, năm 2003-2005 Tổng cục Thống kê đã phối hợp
với các Bộ, ngành và tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế nghiên cứu
xây dựng Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Ngày 24/11/2005 Thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định 305/2005/QĐ-TTg ban hành Hệ thống chỉ tiêu này
với 274 chỉ tiêu thuộc 24 nhóm, trong đó có nhiều chỉ tiêu kinh tế-xã hội tổng
hợp. Một số Bộ, ngành cũng đã nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu
thống kê chuyên ngành áp dụng cho các đơn vị trong ngành như Ủy ban Quốc gia
Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây (nay là Tổng cục Dân số); Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng
Nhà nước…
Trong hoạt động này còn một số công việc lớn đã triển khai nhưng chưa
hoàn thành dứt điểm, đó là:
- Việc chuẩn hóa khái niệm, phương pháp tính và nguồn số liệu của 274
chỉ tiêu thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia tuy nỗ lực cao nhưng đến nay
vẫn chưa ban hành được để áp dụng thống nhất. Mặt khác, lộ trình thực hiện Hệ
thống chỉ tiêu này cũng chưa xây dựng nên chưa xác định rõ được đến thời điểm
nào thì Tổng cục Thống kê công bố được đầy đủ các thông tin trong Hệ thống
chỉ tiêu đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành.
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã cũng như
hệ thống chỉ tiêu thống kê chuyên ngành của nhiều Bộ, ngành cũng chưa được
21


hoàn thiện phù hợp với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, hình thành hệ thống
các chỉ tiêu thống kê thống nhất.
(2) Mở rộng áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia
Nhiệm vụ này đặt ra là phải mở rộng áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia

theo phương pháp luận của thống kê Liên hợp quốc; đồng thời tổ chức lại thống
kê chuyên ngành cho phù hợp với yêu cầu biên soạn hệ thống tài khoản quốc gia.
Theo định hướng nêu trên, từ năm 2003 đến nay, thống kê tài khoản quốc
gia đã triển khai một số hoạt động quan trọng như: Sau 2 năm nghiên cứu và áp
dụng thí điểm, ngày 30/7/2007, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã ban hành
Quyết định số 840/TCTK-TKQG chính thức áp dụng Hệ thống chỉ số giá thay
thế bảng giá so sánh năm 1994 trong tính toán các chỉ tiêu tổng hợp theo giá so
sánh. Việc nghiên cứu tính chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp tháng thay
thế chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 1994 cũng đang
trong giai đoạn hoàn thiện đưa vào áp dụng chính thức.
Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều việc triển khai chậm, trong đó có
những việc rất quan trọng như: Nghiên cứu áp dụng phương pháp sử dụng để
tính toán tổng sản phẩm trong nước theo quý; hoàn thiện phương pháp tính toán
các chỉ tiêu tài khoản quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ và theo khu vực thể chế;
hướng dẫn sử dụng Hệ thống chỉ số giá thay thế bảng giá so sánh 1994.
(3) Chuẩn hóa hệ thống các bảng phân loại, danh mục
Triển khai nhiệm vụ này, từ năm 2003 đến nay hàng năm đều cập nhật và
công bố Danh mục hành chính theo 4 cấp để thống nhật sử dụng. Hệ thống ngành
kinh tế Việt Nam 2007 (VSIC 2007) đã sửa đổi phù hợp hơn với thực tế của Việt
Nam và phiên bản mới của Liên hợp quốc nên đã được Thủ tướng Chính phủ ban
hành tại Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/1/2007. Theo đó, Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã có Quyết định số 337/QĐ-BKHĐT ngày 10/4/2007 hướng
dẫn áp dụng VSIC 2007. Ngoài ra, trong những năm vừa qua cũng đã rà soát, sửa
đổi và xây dựng mới một số bảng danh mục như: Danh mục dân tộc, danh mục tôn
giáo, bảng phân loại dịch vụ cán cân thanh toán quốc tế mở rộng (EBOPS) và một
số bảng danh mục khác. Hiện nay đang biên soạn lại Danh mục giáo dục đào tạo
theo Luật giáo dục mới; xây dựng Danh mục nghề nghiệp phục vụ Tổng điều tra dân
số và nhà ở 1/4/2009 và Danh mục sản phẩm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành.
22



Hạn chế trong hoạt động này là chưa đưa ra được hệ thống các bảng danh
mục, phân loại cần phải có để đề ra chương trình, kế hoạch và lộ trình tổng thể
triển khai xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống các bảng danh mục và phân
loại này đáp ứng yêu cầu phát triển công tác thống kê Việt Nam và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
(4) Xây dựng các bảng cân đối quan trọng
Chương trình hành động đề ra là phải từng bước xây dựng các bảng cân
đối như: Cân đối tổng sản phẩm trong nước; cân đối năng lượng và các bảng cân
đối những sản phẩm quan trọng khác. Thực hiện chủ trương này, trong những
năm vừa qua đã tiếp tục tính toán chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước hàng năm
theo phương pháp sử dụng, trên cơ sở đó hình thành bản cân đối tích lũy-tiêu
dùng. Ngoài ra còn tính toán một số bảng cân đối khác như: Bảng cân đối liên
ngành (Input-Ouput Table-I/O Table); Bảng cân đối cán cân thanh toán quốc tế…
Tuy nhiên vẫn còn nhiều bảng cân đối quan trọng chưa được tiến hành
thường xuyên hoặc chưa tiến hành như: Bảng cân đối lao động xã hội; Bảng cân
đối năng lượng; Bảng cân đối lương thực và các bảng cân đối sản phẩm chủ yếu
khác của nền kinh tế. Việc triển khai xây dựng các bảng cân đối nhìn chung đạt
kết quả thấp và đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho công
tác phân tích và dự báo của ngành Thống kê phát triển chậm.
b) Nội dung thứ hai: Hoàn thiện hệ thống thu thập số liệu thống kê
(1) Xây dựng hệ thống đăng ký các thông tin cơ bản
Trong Chương trình hành động đề ra 3 công việc chính: (i) tổ chức đăng
ký thông tin doanh nghiệp và các đơn vị cơ sở; (ii) xây dựng hệ thống thông tin
đăng ký hộ tịch, hộ khẩu và cơ sở dữ liệu dân cư; (iii) xây dựng hệ thống thông
tin sử dụng đất đai. Nhìn chung các công việc này đều đã được triển khai nhưng
kết quả đạt được còn rất khiêm tốn.
Trên cơ sở kết quả của các cuộc điều tra doanh nghiệp hàng năm; tổng
điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002 và 2007, Tổng cục
Thống kê đã phối hợp với Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) và Cục Doanh nghiệp

(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cập nhật các dữ liệu về doanh nghiệp và các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây (nay là Tổng cục
Dân số) cũng đã phối hợp với Tổng cục Thống kê; Bộ Tư pháp và Bộ Công an
23


khai thác dữ liệu Tổng điều tra dân số và thu thập các thông tin đăng ký sinh, tử,
đi, đến phục vụ công tác quản lý chuyên ngành. Bộ Tài nguyên và Môi trường
bước đầu cũng đã xây dựng được cơ sở dữ liệu sử dụng đất đai trên cơ sở thông
tin thu thập được qua tổng kiểm kê đất năm 2006 và điều tra biến động sử dụng
đất hàng năm.
Mặc dù đã nỗ lực như trên, nhưng việc cập nhật dữ liệu của các hệ thống
này chưa được tiến hành thường xuyên và đến nay trong 3 hệ thống nêu trên
chưa hệ thống nào hoàn thiện. Do vậy, các hệ thống dữ liệu này hiện nay chủ
yếu mới sử dụng trong phạm vi nội bộ; sự chia sẻ giữa các Bộ, ngành và cung
cấp cho các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế khai thác còn rất hạn chế.
(2) Cải tiến chế độ báo cáo
Nhiệm vụ đề ra là cải tiến Chế độ báo cáo thống kê doanh nghiệp; Chế độ
báo cáo áp dụng đối với các đơn vị cơ sở thực hiện chế độ ghi chép hành chính
và Chế độ báo cáo áp dụng với các Bộ, ngành. Triển khai nhiệm vụ này, trong
những năm qua đã đạt một số kết quả như sau:
Tổng cục Thống kê đã cải tiến, hoàn thiện và ban hành được một số chế
độ báo cáo định kỳ về doanh nghiệp nhà nước; lao động và thu thập; hoạt động
xuất nhập khẩu...Ngoài ra, các Vụ chức năng của Tổng cục Thống kê còn phối
hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cải tiến Chế độ báo cáo định kỳ
và Chế độ ghi chép ban đầu về công tác cai nghiện phục hồi; phối hợp với
Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện Chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các
đơn vị trực thuộc Ngân hàng và các tổ chức tín dụng Nhà nước; phối hợp với
Bộ Nội vụ xây dựng Chế độ báo cáo thống kê công tác văn thư, lưu trữ; phối hợp
với Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây (nay là Tổng cục Dân số) cải

tiến Chế độ ghi chép ban đầu và báo cáo thống kê chuyên ngành dân số, gia đình
và trẻ em; phối hợp với Bộ Công an và Bộ đội biên phòng xây dựng Chế độ báo
cáo xuất nhập cảnh; phối hợp với Tổng cục Hải quan hoàn thiện Chế độ báo cáo
xuất nhập khẩu hàng hóa…
Ngoài ra, trong những năm vừa qua còn cải tiến, hoàn thiện chế độ báo
cáo thống kê tổng hợp định kỳ cho các chuyên ngành: Tài khoản quốc gia; nông,
lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp; đầu tư và xây dựng; thương nghiệp, khách
sạn, nhà hàng, du lịch, lữ hành và dịch vụ; vận tải, bốc xếp và dịch vụ vận tải;
bưu chính viễn thông; giáo dục, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế; thiếu đói
24


trong nông dân. Trên cơ sở các chế độ báo cáo cải tiến này đã xây dựng Chế độ
báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng đối với Bộ, ngành và đã được Thủ tướng
Chính phủ ban hành tại Quyết định số 111/2008/QĐ-TTg ngày 15/8/2008.
Mặc dù đạt được kết quả như trên, nhưng việc cải tiến chế độ báo cáo tiến
hành còn chậm và chưa đồng bộ. Một số chế độ báo cáo đến nay không còn phù
hợp nhưng chưa được bổ sung thay thế, trong đó có Chế độ báo cáo áp dụng cho
các Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chế độ báo cáo của
doanh nghiệp ban hành từ năm 2002 cũng chưa được cải tiến. Các tổ chức kinh
tế lớn như Tập đoàn, Tổng công ty mẹ-con, Công ty liên doanh có vốn đầu tư
nước ngoài đến nay cũng chưa có chế báo cáo thống kê áp dụng riêng.
(3) Tổ chức các cuộc điều tra
Chương trình hành động là phải xây dựng được Chương trình điều tra
thống kê quốc gia có sự phân công hợp lý giữa Tổng cục Thống kê với các Bộ,
ngành và bố trí hợp lý về chu kỳ điều tra và tổng điều tra. Theo hướng này, sau
nhiều năm xây dựng, bổ sung hoàn thiện, Chương trình điều tra thống kê quốc
gia với trên 40 cuộc điều tra và tổng cuộc điều tra đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 144/2008/QĐ-TTg ngày 29/10/2008. Như vậy,
nhiệm vụ này tuy tiến hành chậm nhưng đến nay đã hoàn thành.

(4) Tăng cường sử dụng các nguồn số liệu sẵn có
Việc thu thập thông tin thống kê thường được tiến hành theo 3 hình thức:
(i) Điều tra thống kê; (ii) Báo cáo thống kê; (iii) Khai thác các hồ sơ đăng ký hành
chính. Do vậy, Chương trình hành động đã đề ra nhiệm vụ tăng cường sử dụng các
nguồn số liệu sẵn có là rất phù hợp với thực tế nước ta và thông lệ quốc tế. Thực
hiện chủ trương này, ngành Thống kê đã tiến hành xây dựng các hệ thống đăng ký
thông tin cơ bản và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chế độ báo cáo thống kê
Bộ, ngành theo hướng khai thác có hiệu quả số liệu từ các hồ sơ đăng ký hành
chính. Tuy nhiên hoạt động này vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu và triển khai
đúng mức nên việc sử dụng các nguồn số liệu sẵn có nhìn chung chưa được tăng
cường như mục tiêu đề ra. Đáng chú ý là cho đến nay không ít cán bộ, công chức
trong ngành Thống kê thường chú trọng thu thập thông tin qua báo cáo thống kê
và điều tra thống kê, chưa nhận thức đầy đủ được vị trí và vai trò quan trọng của
việc thu thập thông tin theo hình thức khai thác các hồ sơ đăng ký hành chính.
25


×