Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Mối quan hệ gắn bó giữa đảng với dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.11 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.

Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân

3
5
5

dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
trung thành của nhân dân
1.1. Gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất

5

cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung

7

thành của nhân dân
2. Ý nghĩa trong việc giữ vững, tăng cường mối quan hệ

12

giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải giữ vững, tăng cường mối quan hệ mật


12

thiết giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay
2.2. Nhiệm vụ giải pháp cơ bản giữ vững và tăng cường mối

15

quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong tình hình
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25
26

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GẮN BÓ
MẬT THIẾT VỚI NHÂN DÂN. ĐẢNG VỪA LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO,
2


VỪA LÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN. Ý NGHĨA
VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
MỞ ĐẦU

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: cùng với chủ nghĩa
Mác – Lênin Đảng ta lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh

hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quí giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ phận quan
trọng trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người về sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Đó là sự kế thừa, phát triển tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác lênin, nhất là học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của V.I.lênin
trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Những bước phát triển của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua thực tiễn các thời kỳ cách mạng, đó là những bước vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh, đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam đã được kiểm nghiệm,
thử thách qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt, khi tình hình thế giới có những
biến động chính trị phức tạp, dẫn đến sự tan rã các Đảng Cộng sản, sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Với Việt Nam, cùng với chủ nghĩa
Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đứng vững và luôn soi sáng cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện công cuộc đổi mới đất nước trên đường
đi lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, được người
đặc biệt quan tâm và luôn nhắc nhở Đảng ta trong quá trình lãnh đạo mọi chủ
trương, đường lối phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, cán
bộ, đảng viên của Đảng phải luôn gần gũi quần chúng, luôn lắng nghe, học hỏi
quần chúng…những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được Đảng
ta vận dụng vào trong điều kiện mới của cách mạng.
3


NỘI DUNG
1. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân
1.1. Gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam

Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ
kinh nghiệm của thế giới và từ thực tiễn đất nước ta, Hồ Chí Minh đã có những
quan điểm sáng tạo về Dân và về Đảng - tổ chức tiên phong của giai cấp công
nhân, của dân tộc và của toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân
ta, dân tộc ta.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân
dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, là một trong những điều
kiện và nguyên nhân quan trọng làm cho Đảng ta giữ vững được vai trò lãnh
đạo. Nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản và
quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản của cách mạng vô sản. Đảng là người
4


lãnh đạo và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất tiến hành
cách mạng. Mặt khác, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thì
Đảng không thể có sức mạnh, sự nghiệp cách mạng không thể đi tới thành công
được. Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của quần
chúng tạo ra một sức mạnh vô địch.
Ngay từ khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh xác định rõ mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, Người coi đây không chỉ là tiêu chuẩn của một Đảng cách
mạng chân chính, mà còn là một trong những quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng. Người chỉ rõ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là
sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Hồ Chí Minh luôn luôn coi mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong công tác
xây dựng Đảng, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, của dân tộc, của cách mạng.
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được Hồ Chí Minh xác định là mối quan
hệ biện chứng, nó hình thành và phát triển gắn với quá trình cách mạng. Người
chỉ rõ cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, Đảng chỉ là người hướng dẫn, tổ
chức, lãnh đạo mọi hoạt động của phong trào cách mạng ấy. Người nhắc nhở

chúng ta phải hiểu sâu sắc ý nghĩa, vai trò của nhân dân trong mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân. Bởi theo Người nhân dân là gốc, gốc có vững thì cây mới
bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; trong bầu trời không có gì quí bằng
nhân dân, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Quần chúng
nhân dân rất sáng suốt, rất anh hùng. Họ là lực lượng đông đảo, có sức mạnh vô
địch. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Do
đó, bất cứ lúc nào Đảng cũng không được xem nhẹ, lơ là về mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân. Để tăng cường mối quan hệ đó, thì đòi hỏi cả
Đảng và quần chúng đều phải nỗ lực phấn đấu hết sức mình, nhưng trước hết là
thuộc về phía Đảng. Đảng phải “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng
tai nghe dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta
thắng lợi”. Vì vậy, Người luôn phê phán cách làm việc quan liêu làm cho dân oán.
Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại.
5


Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã
hội mà ra. Cán bộ, đảng viên của Đảng là “con nòi” xuất thân từ nhân dân lao
động. Do đó, Đảng và dân vốn có mối liên hệ gắn bó nhất định. Tuy nhiên sự
gắn bó đó có cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về những lợi ích căn bản. Sự gắn bó
trong quan hệ giữa Đảng và dân được Bác ví như quan hệ giữa người “chèo”
với người “cầm lái” trên con thuyền cách mạng. Đảng là người “cầm lái”, còn
nhân dân là người “chèo”. Nếu người “chèo” ủng hộ người “cầm lái” là thành
công. Ngược lại, người “chèo” không ủng hộ người “cầm lái”, không tuân thủ
người “cầm lái”, hoặc mỗi người chèo một ngả, như vậy là Đảng thất bại. Vì
vậy, Đảng phải dựa vào nhân dân để lãnh đạo nhân dân, làm cho nhân dân có
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhưng Bác cũng chỉ rõ: nhân dân phải được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng cách mạng
thật sự. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã khẳng định Đảng không có

mục đích nào khác hơn là sự phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Liên hệ
máu thịt với nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của
Đảng. Điều đó bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử, từ mục tiêu lí tưởng của Đảng. Là
đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam,
Đảng có sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp
cách mạng to lớn và trọng đại đó chỉ có thể được thực hiện bằng sự đồng tình
hưởng ứng của quần chúng và bằng hành động cách mạng của quần chúng, chứ
không phải thuộc về một cá nhân anh hùng nào.
Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh hiểu rất rõ đặc điểm
của từng giai cấp, từng tầng lớp trong xã hội và thái độ cách mạng của họ.
Người cho rằng, sự áp bức giai cấp và áp bức dân tộc đều có chung một nguồn
gốc đó là chủ nghĩa đế quốc. Người đã rút ra được cái bản chất chung nhất của
con người Việt Nam là nỗi đau mất nước, nỗi nhục làm nô lệ. Người đã làm
thức tỉnh khát vọng giải phóng, độc lập, tự do và biến khát vọng của đủ mọi
giai cấp, tầng lớp trong xã hội thành một sức mạnh đoàn kết vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Sự mở rộng nhận thức về nhân dân như vậy không trái với
6


nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin mà càng làm cho quan niệm về nhân dân
trở nên phong phú hơn, làm cho cách mạng có thêm lực lượng, làm cho kẻ thù
càng bị phân hoá, cô lập. Tư tưởng đó đã giúp cho Hồ Chí Minh quy tụ được tất
cả mọi lực lượng của dân tộc, làm cho mối quan hệ giữa Đảng với dân trở nên
gần gũi, gắn bó máu thịt.
1.2. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng Đảng vừa là người lãnh

đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân là một nội dung có giá trị to lớn
cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm, Đảng ra đời là do dân tổ chức nên và vì lợi ích
của nhân dân. Một Đảng như vậy phải trở lại phục vụ cho dân, cho Tổ quốc.
Người đã trung thành và vận dụng sáng tạo nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin
về mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng và đã phát triển lên một tầm
cao mới Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Đây là sự đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lí
luận chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng cầm quyền. Khi chưa nắm được chính quyền
cũng như khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng vẫn phải là người lãnh đạo chính
trị đối với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Chứ không phải
có chính quyền rồi thì Đảng trở thành một quyền lực đối với quần chúng. Tuy
nhiên khi đã nắm được chính quyền, Đảng trở thành người lãnh đạo thực tế, toàn
diện, hoàn thành trách nhiệm của Đảng đối với quần chúng nặng nề hơn nhiều.
Đảng phải là trí tuệ, là danh dự, là lương tâm của thời đại.
Trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, với nhãn quan chính trị
sắc bén và hoạt động thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy
những nguy cơ, tệ nạn bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ thói quen người sản
xuất nhỏ, lạc hậu, từ đặc điểm tâm lí tiểu nông và từ tàn dư của tư tưởng phong
kiến, gia trưởng. Khi trở thành người có chức, có quyền, một số cán bộ, đảng
viên, một mặt do chịu ảnh hưởng của tư tưởng đó, mặt khác do non kém về
trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, kém tu dưỡng về đạo đức lối sống nên đã
7


trở thành những “ông quan cách mạng”, quan liêu, mệnh lệnh, nhũng nhiễu
nhân dân. Theo Hồ Chí Minh chỉ trên cơ sở Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân thì cách mạng mới đi đến thành công;
ngược lại ở đâu và lúc nào Đảng và cán bộ, đảng viên quan liêu, xa rời nhân dân “cách
xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời,

nhất định thất bại”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân. Người lãnh đạo và người đầy tớ luôn thống
nhất với nhau trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Luận điểm này thể hiện vai trò
người lãnh đạo và bộ phận người đầy tớ thống nhất trong một chủ thể, đó là
Đảng cầm quyền. Có giữ vững và làm tốt vai trò người lãnh đạo thì mới có điều
kiện để thực hiện bổn phận người đầy tớ và ngược lại, có làm tròn bổn phận
người đầy tớ thì vị trí, vai trò người lãnh đạo mới được giữ vững.
Là người lãnh đạo, mọi đường lối, chính sách của Đảng phải thực sự đúng
đắn, cách mạng và khoa học, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, thực sự dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành động. Đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng phải thực sự tiên phong, gương mẫu đi trước nhân dân, nói đi
đôi với làm. Người cũng chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước”. Theo Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải có cái tâm, cái đức, cái trí. Đảng chỉ thực sự làm tròn vai trò người lãnh
đạo khi Đảng luôn tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo
đức, văn minh của toàn xã hội.
Tuy nhiên, để thực hiện được sự lãnh đạo của mình, Đảng phải thông qua Nhà
nước và các tổ chức của hệ thống chính trị. Nhà nước vừa là công cụ để thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng, đồng thời là cơ quan đại biểu cho quyền lực, chăm lo lợi ích của
nhân dân. Đảng phải thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Nhà nước pháp
quyền vững mạnh, một Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đồng thời,
8


Đảng phải thường xuyên đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp, tác phong làm
việc, luôn sâu sát, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Mỗi
việc thành công phải bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với nhân dân. Mỗi việc không

thành công phải tự phê bình và phê bình, chân thành nhận khuyết điểm trước nhân
dân. Có như vậy, Đảng mới xứng đáng là người lãnh đạo nhân dân.
Đảng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, đây chính là điểm phát
triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với học thuyết Mác - Lênin về xây
dựng Đảng ở Việt Nam. Tư tưởng này chỉ đạo xuyên suốt trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Bác. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã theo đuổi mục
đích cao cả là đấu tranh giải phóng đồng bào khỏi đọa đày, đau khổ. Khi trở thành
lãnh tụ của Đảng, của cách mạng, Người luôn phấn đấu để cho đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Khi phải từ biệt thế giới này,
Người vẫn còn nuối tiếc là không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa. Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần tận
tụy phục vụ nhân dân.
Quan điểm Đảng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân nói lên
mục đích hoạt động của Đảng là phục vụ nhân dân, chứ không nhằm mục đích
nào khác. Đảng phải thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải hướng vào
phục vụ lợi ích của nhân dân, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
của nhân dân. Đảng phải chăm lo đến đời sống hàng ngày, thậm chí quan tâm
tới cả tương, cà, mắm, muối của nhân dân. Người cho rằng: “Ngoài lợi ích của
dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra
sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao
sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân”.
Tuy nhiên, là người đầy tớ, nhưng không phải là Đảng theo đuôi quần chúng,
mà Đảng phải thực sự tiên phong về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự tiêu biểu
cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của thời đại.
“Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý
9


kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải

đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cái
chỉ đạo nhân dân”. Người yêu cầu, Đảng muốn lãnh đạo được nhân dân thì phải
hiểu dân, học dân, nâng đỡ dân, bởi vì: “có biết làm học trò nhân dân, mới làm
được thầy học dân”. Bởi vậy, Đảng muốn lãnh đạo giỏi thì phải làm đầy tớ giỏi.
Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân, luôn đặt lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động, của cả dân tộc lên trên hết, tất cả tận tụy vì dân. Đảng là đại biểu
lợi ích chung của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động chứ không phải
mưu cầu lợi ích riêng cho một nhóm người hay cá nhân nào. Đảng phải thực sự là
công cụ của nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân thì phải hết sức tránh, chứ không phải vào Đảng để làm quan phát tài mà là để
phục vụ nhân dân. Đảng và Nhà nước phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Mọi hoạt động của Đảng cũng như của đảng viên phải chịu sự kiểm soát của
nhân dân để làm tròn nhiệm vụ đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải coi đạo đức là cái “gốc” của người
cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng
nhất của người cách mạng. Người cán bộ, đảng viên phải trọn đời trung thành với
sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; là người đầy tớ của
nhân dân chứ không phải là “quan nhân dân”. Quần chúng chỉ quí mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước. Phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường bồi
dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Thái độ của cán bộ, đảng viên đối với quần
chúng và sự tín nhiệm của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên là một trong
những tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn, bố trí cán bộ. Đó là “những người liên
lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của
dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người
lãnh đạo của họ”.
Để làm tròn vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân, theo Hồ Chí Minh trước hết phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch
10



vững mạnh cả chính trị, tư tưởng và tổ chức; xứng đáng là lãnh tụ chính trị, thể hiện
danh dự, lương tâm, trí tuệ của Đảng, không ngừng nâng cao uy tín của Đảng trước
nhân dân. Đảng phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên
có đức, có tài, trong đó đức là gốc để suốt đời phụng sự nhân dân. Để tập hợp được
đông đảo quần chúng xung quanh mình, Đảng phải thường xuyên đổi mới
phương thức vận động tập hợp quần chúng. Đồng thời, Đảng phải xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực sự là cơ quan đại biểu cho quyền lợi,
lợi ích của nhân dân. Thực hiện tốt phương châm dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra.
Như vậy, nghiên cứu học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa Đảng với dân có giá trị to lớn trong việc loại trừ căn bệnh tự kiêu,
công thần, quan liêu, xa rời quần chúng khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền.
Tư tưởng đó nói lên mục đích hoạt động lãnh đạo của Đảng là phục vụ nhân
dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân chứ không nhằm mục đích nào khác. Đó là
tư tưởng chí công vô tư, mình vì mọi người. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta từ hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, lòng nhân ái
bao la, lòng yêu nước, thương nòi sâu đậm được nhân lên gấp bội khi kết hợp
được với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đảng muốn là người đầy tớ trung thành
của nhân dân trước hết Đảng phải hoàn thành sứ mệnh của người lãnh đạo,
được nhân dân tin cậy. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng cũng không được
quên rằng mọi hoạt động của Đảng đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, để
không bao giờ trở nên kiêu ngạo, xa rời nhân dân.
2. Ý nghĩa trong việc giữ vững, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân trong tình hình hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải giữ vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay
Đại Hội XII của Đảng Khẳng định “Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.

Đảng Cộng sản Việt Nam phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là mối quan
hệ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, là sức mạnh từ gốc, là vấn đề cơ bản
11


trong công tác xây dựng Đảng, đồng thời đó còn là một trong những nguyên lý
quan trọng trong xây dựng Đảng, là tiêu chuẩn của một Đảng Mác xít và là vấn
đề sống còn của Đảng cầm quyền.
Một trong những nguy cơ lớn của Đảng Cộng sản cầm quyền như Lênin
từng cảnh báo là chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân. Khi nắm
quyền lực, có chức vụ, quyền hạn nhất định, cán bộ, đảng viên dễ phạm phải tệ
quan liêu, mệnh lệnh. Sự thật đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải nghiêm túc nhìn lại chính mình, suy nghĩ nghiêm túc để
hành động đúng đắn, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân và sự cần thiết phải thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng
đã được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển sáng tạo trên cơ sở truyền thống
“khoan thư sức dân”, “lấy dân làm gốc” của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và bài học lấy dân làm gốc
của Đảng ta đã chứng minh người nuôi sống và bảo vệ chế độ là nhân dân và
người lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới cũng là nhân dân. Các triều đại
phong kiến Việt Nam thịnh hay suy đều gắn liền với việc quan niệm đúng hay
không đúng về đánh giá vai trò của quần chúng nhân dân. Sức mạnh của nhân
dân được ví như nước, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân.
Thực tiễn công tác xây dựng của các Đảng Cộng sản trên thế giới và của
Đảng ta đã chứng minh một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tan
rã của các Đảng Cộng sản và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu là do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân là không
chăm lo củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đánh mất niềm
tin của nhân dân.

Đối với Đảng ta đã trung thành và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng với dân.
Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã phát huy được sức
mạnh của toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, rồi đánh
12


đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và ngày nay chính sự ủng hộ, phát
huy khả năng sáng tạo của nhân dân, chúng ta đang giành được nhiều thành tựu
trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách
chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực bằng chiến lược “diễn
biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ, mà một trong những mũi nhọn then chốt của
chúng là chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Chúng luôn dùng mọi
luận điệu xuyên tạc, nói xấu Đảng, dụ dỗ, mua chuộc quần chúng bằng mọi
cách, mọi biện pháp nhằm làm cho dân không tin Đảng, Đảng không lãnh đạo
được quần chúng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và
nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì, cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một cuộc cách mạng
sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay go nhất, phức tạp
nhất trong lịch sử loài người. Cuộc cách mạng này đòi hỏi Đảng ta phải động
viên và phát huy đến mức cao nhất tính tích cực và sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị ở cơ
sở phần lớn đã tích cực thực hiện nhiệm vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng
với nhân dân tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và thành thị. Thực tế cho thấy, những
địa phương nào, tổ chức cơ sở đảng nào làm tốt công tác vận động quần chúng

thì ở địa phương đó có sự thống nhất đoàn kết cao, tình hình chính trị-xã hội ổn
định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ngược lại, ở địa phương nào
có cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, không chăm lo đến nhân dân, thì lòng
dân ở đó không yên, mối quan hệ giữa Đảng với dân không còn chặt chẽ, uy tín
của Đảng bị giảm sút.
Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ Bảy khoá XI vừa qua đã xác
định mục tiêu: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối
với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ
13


trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to
lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Tuy nhiên, thời gian qua một thực tế diễn ra là lòng tin vào Đảng, Nhà
nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống
còn nhiều khó khăn, phần vì bất bình trước những bất công xã hội, trước tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến và nghiêm trọng, kỷ
cương, phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt
xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông người
vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt. Hội nghị Trung ương lần thứ Bẩy
khóa XI đánh giá “Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế, có rất nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời
sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng
xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ
của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là thách thức
đối với mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần tăng

cường và đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, củng cố vững chắc
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với
dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh to lớn của toàn
dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, trong tình hình hiện nay củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa
Đảng với nhân dân bảo đảm đáp ứng được vai trò Đảng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là một đòi hỏi tất yếu khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là
một quy luật của công tác xây dựng Đảng và là một trong những nội dung quan
trọng, cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống còn của
Đảng, vừa là sự bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống
chính trị, là điều kiện tất yếu trong cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho chủ
nghĩa xã hội.
2.2. Nhiệm vụ giải pháp cơ bản giữ vững và tăng cường mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hai chiều, trước hết
là vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân và đối với toàn xã
14


hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vai trò của Đảng không hề giảm đi mà
ngày càng tăng lên, ngày càng nặng nề thêm. Đảng phải làm tròn vai trò vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong tình hình hiện nay khi mà “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”, ảnh hưởng rất lớn đến mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân thì tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân càng có ý nghĩa sâu sắc.
Tư tưởng ấy tiếp tục định hướng, soi sáng để Đảng ta đổi mới công tác quần

chúng trong tình hình mới nhằm góp phần đưa mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và
nhân dân lên một tầm cao mới, làm cho ý Đảng phù hợp với lòng dân. Để Đảng
làm tròn vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Vì vậy, cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thực sự tiêu biểu cho
trí tuệ, lương tâm, đạo đức, danh dự của dân tộc và thời đại
Trước hết, phải tiếp tục đẩy mạnh nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tư tưởng; coi trọng việc củng cố, nâng cao niềm tin, bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng, ý chí kiên định, lý tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; thường
xuyên có kế hoạch tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, nâng cao trình độ
hiểu biết về mọi mặt, nhất là trình độ tư duy lý luận, trình độ nhận thức, trình
độ tiếp cận, phân tích, tổng kết thực tiễn và tổ chức thực hiện có kết quả đường
lối, chủ trương của Đảng. Các cấp ủy đảng kịp thời có định hướng tư tưởng
đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán những quan điểm và
khuynh hướng không đúng, tạo sự nhất trí cao và sự vững vàng về tư tưởng
trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân; trước mắt, tiếp tục tổ chức thật
tốt việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
nghị quyết của Đảng; đặc biệt, là việc học tập, quán triệt sâu rộng Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Trên cơ sở đó, nâng cao một
bước bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên định lập trường
giai cấp công nhân, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

15


Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” theo chủ trương của Trung ương. Tích cực phòng chống
tham nhũng, lãng phí. Mỗi tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, kiểm tra,
quản lý cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Tăng cường công tác

kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh theo kỉ luật của Đảng và pháp luật Nhà
nước đối với cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết
hợp công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra Nhà nước với giám sát của nhân dân
thông qua quy chế dân chủ; đồng thời, phát huy vai trò giám sát của xã hội
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Đi đôi với việc xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng, các cấp ủy Đảng cần
chăm lo xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ đoàn kết thống
nhất, có sức chiến đấu cao; trong đó, xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức bao
gồm nhiều việc, từ xây dựng cơ cấu bộ máy đến xác định chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế vận hành; từ bố trí cán bộ đến xây dựng phương thức, lề lối làm việc; từ
thực hiện các nguyên tắc tổ chức đến quản lý, kiểm tra hoạt động của các thành
viên trong tổ chức; đặc biệt, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và kiện
toàn hệ thống tổ chức của Đảng.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ liên quan mật thiết đến sức chiến đấu, hiệu
quả lãnh đạo của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ có chất lượng sẽ làm cho đường lối,
chủ trương của Đảng được quán triệt, nhiệm vụ của chi bộ được triển khai, trí
tuệ và trách nhiệm đảng viên được phát huy, kỉ luật Đảng được giữ vững, quan
hệ giữa Đảng và nhân dân được củng cố và phát triển. Vì vậy, một nhiệm vụ
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới là nâng cao chất lượng,
hiệu quả sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, chú trọng tự phê bình và phê bình,
giáo dục rèn luyện đảng viên, tạo điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính
trị của địa phương, đơn vị.
Thực hiện dân chủ tập thể trong công tác cán bộ; đổi mới và tăng cường
xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, đồng bộ ở các cấp, các ngành;
đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt; kịp thời rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ,
đảm bảo yêu cầu trước mắt và lâu dài.

16



Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của
đảng viên, có quy chế, quy trình để đảng viên tham gia vào quá trình đề xuất và
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời giữ
vững kỉ luật, kỉ cương, đoàn kết thống nhất. Mọi cán bộ, đảng viên được quyền
bàn bạc, tham gia quyết định các công việc của Đảng, được quyền tranh luận,
nêu ý kiến riêng, nhưng khi đã có nghị quyết thì mọi đảng viên phải nói và làm
theo nghị quyết của Đảng.
Hai là, Đảng đề ra đường lối, chính sách đúng đắn, sáng tạo, phản ánh tâm
tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu
bảo đảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lãnh đạo trước hết
và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của Đảng.
Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động
của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu
thế vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân
chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ
có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi
những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng
vững mạnh. Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì Đảng có một nền
tảng lý luận vững chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống dân tộc anh hùng. Trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng
Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.


17


Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng
tạo, chân lý là cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một
cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được
Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp
nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương
pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều,
chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ
bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và
năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân. Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung
thành với lợi ích của giai cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý
tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân dân.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần xây dựng tác
phong quần chúng, phương pháp công tác phù hợp, tập hợp đông đảo quần
chúng nhân dân để tiến hành sự nghiệp cách mạng; đáp ứng được yêu cầu như
Đại Hội XII đã chỉ ra “Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, gần dân,
hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”.
Phương pháp, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là những cách
thức sinh hoạt và hoạt động, thể hiện năng lực nhận thức và khả năng hoạt động
thực tiễn của mỗi người. Đây vừa là biểu hiện cụ thể của phẩm chất, năng lực,
lập trường quan điểm, tư tưởng, đạo đức cách mạng biểu hiện sự tích luỹ kinh
nghiệm trong hoạt động thực tiễn của người cán bộ, đảng viên. Người cán bộ,
đảng viên có phương pháp, tác phong công tác tốt sẽ có tác dụng tích cực củng
cố lập trường, quan điểm, tư tưởng, đạo đức cách mạng. Phương pháp tác

phong công tác tốt khi đã biến thành hành động sẽ trở thành sức mạnh vật chất,
thành năng lực để tổ chức thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao của
từng cán bộ, đảng viên.
18


Thực sự gần gũi, tin tưởng vào quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
đặt yêu cầu rất cao với người cán bộ, đảng viên về tác phong quần chúng.
Người chỉ rõ, bất cứ một người tài giỏi nào cũng không thể nghĩ ra được đủ
mọi điều, vì sáng kiến của cá nhân là có hạn, nhưng sáng kiến của quần chúng
thì vô hạn. Vì vậy, chúng ta không thể ngồi trong phòng mà nghĩ ra cái mới
được. Cái mới phải tìm ở cơ sở, trong quần chúng. Người đảng viên phải là
những người dám “sục sạo”, xông xáo trong thực tế, tiếp xúc với quần chúng
hằng ngày. Nếu không cụ thể, sâu sát, gần gũi quần chúng thì đảng viên không
thể thấy được, hiểu được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm và càng không thuyết
phục được quần chúng. Do đó, đối với người lãnh đạo phải biết học hỏi quần
chúng, biết tập trung mọi tài năng, trí tuệ của quần chúng thành sức mạnh
chung, tìm ra được lực lượng, biện pháp để thực hiện nhiệm vụ; phải biết khơi
dậy, phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của quần chúng trong thực hiện
mọi nhiệm vụ được giao.
Nêu gương, nói đi đôi với làm. Vận động, giáo dục, thuyết phục là phương
pháp cơ bản, chủ yếu trong công tác vận động quần chúng của Đảng và của
người đảng viên. Vì vậy, để thực hiện tốt việc vận động, giáo dục, thuyết phục
quần chúng, người đảng viên phải biết dùng chân lý, lẽ phải, bằng hành động
gương mẫu của mình để giáo dục, thuyết phục quần chúng, kết hợp với quan
tâm giải quyết những vướng mắc trong tâm tư tình cảm, đời sống hằng ngày
của họ; kiên trì và có tình thương yêu con người, tin tưởng vào khả năng phấn
đấu vươn lên của mỗi người. Kiên quyết chống mọi biểu hiện chủ quan nóng
vội, định kiến cá nhân, thể hiện mình là “bề trên”, là “ông quan cách mạng”
trong quá trình giáo dục thuyết phục. Bởi điều đó trái với quan điểm của Đảng

và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo, là
người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Xây dựng tác phong sát thực tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc tối cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần cách mạng, không ngừng sáng
19


tạo, liên tục phát triển, không một phút xa rời thực tiễn, nói và làm bao giờ cũng
nhằm mục đích cụ thể, thiết thực. Theo đó, trong thực hiện nhiệm vụ của mình,
người đảng viên phải hiểu rõ tình hình, nắm vững chính sách. Và muốn hiểu rõ
tình hình, nắm vững chính sách phải áp dụng lối làm việc có điều tra, nghiên
cứu. Đối với mỗi vấn đề, cần chịu khó nghiên cứu thấu đáo, đi nhiều, nghe
nhiều, thấy nhiều. Chỉ có tăng cường quan điểm thực tiễn, khéo đi sâu điều tra
nghiên cứu, phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn trong đời sống, mẫn cảm với
cái mới, dứt khoát vứt bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời, có như vậy sự lãnh đạo mới
có sức sống, công tác mới có nội dung, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Làm việc cụ thể, tỉ mỉ, chu đáo. Phải khẳng định dứt khoát rằng, người
cách mạng, bất cứ ở cấp nào, cũng phải là người hành động. Tinh thần triệt để
cách mạng phải được biểu hiện ở cách làm việc cụ thể, tỉ mỉ, chu đáo, đã quyết
thì phải thi hành, đã làm thì đến nơi đến chốn. Cố nhiên, tỉ mỉ không phải là cấp
trên bao biện cả công việc của cấp dưới. Mỗi cấp có trách nhiệm của mình. Cấp
trên có trách nhiệm chỉ đạo cụ thể cho cấp dưới, cấp dưới có trách nhiệm thi
hành chỉ thị của cấp trên một cách có sáng kiến, nhằm bảo đảm cho công việc
thông đồng bén giọt, đem lại hiệu quả lớn nhất. Ở đây, một vấn đề có tính
nguyên tắc là: lãnh đạo vấn đề gì, cấp trên phải giỏi hơn cấp dưới về vấn đề đó.
Muốn vậy, người lãnh đạo phải thường xuyên tu dưỡng trình độ về mọi mặt,
biết lãnh đạo, đồng thời biết học tập cấp dưới. Trước mỗi vấn đề mới đặt ra,
người lãnh đạo phải đi sâu một vài nơi, trực tiếp chỉ đạo cụ thể, tỉ mỉ, để rút
kinh nghiệm cho lãnh đạo nơi khác. Cán bộ, đảng viên bất kể ở cấp nào phải là

người hành động, có tri thức, có lý luận. Khi tiếp nhận nghị quyết, chỉ thị, phải
kết hợp được với tình hình cụ thể của đơn vị để hiểu chỉ thị, nghị quyết một
cách cụ thể từ đó chỉ đạo quán triệt và thực hiện một cách có hiệu quả.
Bốn là, xây dựng đội ngũ đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, thực sự tiền phong, gương mẫu trước nhân dân,
nói đi đôi với làm, không quan liêu, tham nhũng.

20


Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “lựa chọn những người có bản
lĩnh chính trị vững vàng,phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm
dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”. Đức
của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đức
của người cán bộ, đảng viên hiện nay là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; không tham nhũng và cương quyết đấu tranh
chống tham nhũng; có lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với nhân dân,
gương mẫu và gắn bó với quần chúng. Đặc biệt, người cán bộ cách mạng phải
biết trăn trở trước cuộc sống nghèo khổ của quần chúng nhân dân và nguy cơ
tụt hậu ngày càng xa về kinh tế của đất nước so với thế giới; phải suy nghĩ và
hành động, đem hết tài năng, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải là nói đi đôi với làm, nói
ít, làm nhiều; phải biết thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể,
bằng nêu gương để thuyết phục, quy tụ mọi người.
Tài là năng lực chuyên môn, khả năng công tác để bảo đảm hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao; tài là tầm tư tưởng, trí tuệ của người cán bộ, đảng
viên trong tiến hành công việc một cách độc lập, sáng tạo, mang lại hiệu quả tối
ưu. Tài phải được thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy phát triển; có tư duy

biện chứng, lôgíc, có tầm hiểu biết sâu rộng và phương pháp làm việc khoa
học, hiệu quả, đủ sức cắt nghĩa và tìm được những câu trả lời thuyết phục trước
những biến động phức tạp và mau lẹ của thực tiễn. Phải có năng lực trí tuệ phát
triển cao, có trình độ ngoại ngữ và tin học để làm chủ công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin; có năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực cạnh tranh khoa học và
công nghệ, có khả năng tiếp nhận và quản lý được công nghệ kỹ thuật mới.
Đức và tài là một thể thống nhất, không thể tách rời. Vì vậy, không thể
chỉ có đức mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ
đức. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay không chỉ như đạo đức công
dân mà còn bao hàm cả đạo đức của người lãnh đạo, chỉ huy. Trung thành
nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không thụ động,
21


bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung thành nhưng không phải là
“gọi dạ, bảo vâng”, cơ hội, không có chủ kiến, không dám đấu tranh, tuỳ thời vì
mục đích quyền lực và tiền tài. Tài của người cán bộ hiện nay cần phải được
nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có
tài phù hợp với yêu cầu sử dụng. Nghĩa là khi chọn người tài phải dựa vào thế
mạnh và sở trường của họ, vào tài năng thực tế của người cán bộ, đảng viên,
không hoàn toàn dựa vào bằng cấp để bố trí công việc, xác định cương vị; có vậy
mới giúp cán bộ, đảng viên phát huy được ưu thế, sở trường, dốc tâm lực vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân.
Chính vì vậy, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có đủ
phẩm chất năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước tình hình mới, có như vậy tổ
chức đảng các cấp mới phát huy được vai trò lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành của nhân dân.
Năm là, trong điều kiện hiện nay như Nghị quyết Đại Hội XII của Đảng
đã chỉ ra “những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn
biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít

cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi
về vai trò lãnh đạo của Đảng về mục tiêu. Lý tưởng và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức
chống phá chúng ta trên tất cả các mặt, đặc biệt là làm suy yếu khối đại đoàn
kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Do đó phải
không ngừng nâng cao cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù,
kiên quyết đấu tranh với những luận điiểm sai trái, tư tưởng thù địch nhằm
xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ các quan điểm, đường lối của Đảng ta, lợi dụng
những khuyết điểm của Đảng và đảng viên để chi rẽ mối quan hệ giữu Đảng
với nhân dân, đồng thời cũng nghiêm túc xử lý những cán bộ, đảng viên của
Đảng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giẵ Đảng với nhân dân.
Sáu là, công tác quần chúng phải được tiến hành một cách khoa học

22


Quán triệt quan điểm công tác quần chúng là công tác đối với con người,
vì vậy chúng ta cần tiến hành một cách khoa học thì mới mang lại hiệu quả. Hồ
Chí Minh đã dạy bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình
độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng
ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc,
cách tổ chức. Có như thế mới có thể kéo được quần chúng.
Vì vậy, chúng ta phải nắm vững đặc điểm, tâm lí của nhân dân ở từng địa
phương, từng địa bàn dân cư để có những hình thức, phương pháp công tác
khoa học; tránh tùy tiện, áp đặt chủ quan, duy ý chí, hoặc dập khuôn, máy móc,
chủ nghĩa kinh nghiệm. Cần khắc phục cách vận động quần chúng giản đơn,
hành chính hóa, quan liêu hóa.
Việc tìm hiểu quần chúng, tiến hành công tác quần chúng phải được tiến
hành cả bề rộng và chiều sâu. Muốn vậy, chúng ta phải làm tốt công tác khảo
sát, tìm hiểu kỹ càng, qua đó để nắm vững tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,

thuận lợi, khó khăn trong nhân dân để từ đó có biện pháp kịp thời đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân lao động.
Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, chúng
ta cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản đã nêu ở trên. Kiên quyết đấu tranh
với những suy nghĩ và hành động nhằm phá hoại mối liên hệ máu thịt giữa
Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với quân đội. Đặc biệt là phải đề cao trách
nhiệm với dân, trung thực, thật thà với dân, có lỗi thì dũng cảm nhận lỗi. Đảng
phải đề phòng và khắc phục các khuynh hướng quan liêu xa rời quần chúng,
vượt quá xa trình độ của quần chúng, đồng thời đề phòng khuynh hướng theo
đuôi quần chúng; phải thường xuyên làm trong sạch nội bộ đảng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành
với Đảng, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, nói đi đôi với
làm, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức
tránh. Có như vậy, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ngày càng được thắt
chặt. Đảng mới làm tròn vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa và của nhân dân. Quân đội ta với chức năng nhiệm vụ là đội quân
23


chiến đấu, đội quân công tác và là đội quân lao động sản xuất. Làm công tác
dân vận là một trong nhiệm vụ chính trị quan trọng của quân đội. Tăng cường
mối quan hệ máu thịt quân - dân tạo nên sức mạnh to lớn trong việc nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; đồng thời góp phần xây
dựng cơ sở chính trị địa phương trên địa bàn đóng quân vững mạnh; làm thất
bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân, giữa nhân dân với quân đội.
Chính vì vậy, mỗi cán bộ chiến sĩ phải ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu

có đủ phẩm chất, năng lực, có uy tín, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”. Tích cực
tuyên truyền vận động, giúp đỡ nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

24


KẾT LUẬN
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam liên hệ
mật thiết với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Đây là sự vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm quần
chúng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời kế thừa, phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc lên một tầm cao mới trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Chỉ có liên hệ mật thiết với nhân dân - với tư cách là đối tượng lãnh đạo
thì Đảng ta mới tồn tại với tư cách là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị, là
người đầy tớ trung thành của nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân
có nghĩa là Đảng tự cắt đứt mối liên hệ mật thiết với nhân dân và tự phủ nhận
địa vị lãnh đạo của mình; đường lối và hoạt động của Đảng sẽ mất phương
hướng và Đảng sẽ không còn có sức mạnh. Thông qua lãnh đạo nhân dân và
phong trào cách mạng của nhân dân mà Đảng ta trưởng thành cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Nhân dân là người bảo vệ Đảng, là nơi thử thách, rèn luyện
và sàng lọc đảng viên, đồng thời là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo của
Đảng đối với nhân dân và toàn xã hội không hề giảm đi mà ngày càng tăng lên,
ngày càng nặng nề thêm. Mối liên hệ giữa Đảng ta với nhân dân cũng không
được suy giảm mà phải được củng cố và phát triển ngày càng vững chắc hơn
bao giờ hết với những nội dung và yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Chính vì vậy, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới
hiện nay. Các tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần phải
thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê-nin về vai trò của quần chúng
25


nhân dân. Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân, coi đó
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân. Đây là yếu tố quyết định đến sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Đồng thời phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết
đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc, nói xấu các chủ
trương, đường lối của Đảng, lợi dụng những khuyết điểm của Đảng và đảng
viên nhằm chia rẽ Đảng với quần chúng nhân. Kiên quyết xử lý những cán
bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất có những lời nói, hành động làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ bản chất của Đảng với nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG - ST, H.2011
2, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn Phòng Trung ương Đảng, H.2016
2, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bẩy, Ban chấp
hành Trung ương khóa XI, H.2013
3, Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị, tập 2 (dùng cho đối tượng
giảng viên), Nxb QĐND, H.2012
4, Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995
5, Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002
6, Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995

26



×