Tải bản đầy đủ (.docx) (218 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.12 KB, 218 trang )

1

c 1

c

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HÀ VÂN

LÃNH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN
NHÀ NƯỚC


2

c 2

c

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HÀ VÂN



ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN
NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


3

c 3

c

1. PGS.TS. ĐỖ NGỌC NINH
2. TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của Tôi; các số liệu nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định.

Tác giả luận án


Trần Thị Hà Vân


4

c 4

c

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG

6

1.1. Các công trình nghiên cứu về môi trường và bảo vệ môi trường

6

1.2. Các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với các lĩnh vực đời sống xã hội

20


1.3. Kết quả và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ

27

Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO
VỆ
MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA - NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN

2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác bảo vệ môi trường ở nước ta
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường nước ta -

29
29


5

c 5

c

khái niệm, nội dung và phương thức

60

Chương 3: CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - THỰC
TRẠNG,

NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

68

3.1. Thực trạng công tác bảo vệ môi trường ở nước ta

68

3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường - thực
trạng,
nguyên nhân và kinh nghiệm

76

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2030

112

4.1. Những thuận lợi, khó khăn và phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường nước ta đến năm 2030

112

4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác
bảo vệ môi trường ở nước ta đến năm 2030

120


KẾT LUẬN

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

166

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT :

Bảo vệ môi trường

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH :


Chủ nghĩa xã hội


6

c 6

c

CTBVMT
HTCT :
MTST

:

Công tác bảo vệ môi trường

Hệ thống chính trị
:

Môi trường sinh thái

MTTQ :

Mặt trận Tổ quốc

PTLĐ :

Phương thức lãnh đạo


TNTN : Tài nguyên thiên nhiên
XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


7
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Bảo vệ môi trường (BVMT) là một trong những vấn đề sống còn của nhân
loại; là nhân tố rất quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo sức
khỏe của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xã hội; ổn
định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “…bảo vệ môi
trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung của phát triển bền
vững” [60, tr.141]. Nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống
của con người, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước, Đảng ta luôn coi BVMT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu song hành với
nhiệm vụ phát triển, bền vững kinh tế - xã hội ở nước ta.
Lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã làm thay đổi diện mạo của
đất nước và đời sống của nhân dân trong giai đoạn hiện nay là tất yếu. Tuy nhiên,
do còn nhiều hạn chế trong lãnh đạo, quản lý về công tác bảo vệ môi trường
(CTBVMT) của Đảng, Nhà nước và các cấp ủy, chính quyền địa phương cùng
với ý thức trách nhiệm của người dân chưa cao nên ở nhiều địa phương môi
trường chưa được bảo vệ tốt. Ở khá nhiều nơi môi trường xuống cấp nhanh
chóng, đáng báo động, tác động xấu đến sự phát triển mọi mặt, nhất là kinh tế xã hội. Ở một vài nơi, ô nhiễm môi trường tiềm ẩn những yếu tố trở thành vấn đề

chính trị. Từ thực trạng đó, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị về
BVMT và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt. Cụ thể, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 “Về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nghị quyết chỉ
rõ: “Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường;
mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên” [50,
tr.3]. Nghị quyết Đại hội Đại XII của Đảng tiếp tục khẳng định:
Ngăn chặn từng bước và khắc phục sự xuống cấp của môi trường do
con người, nhất là các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến tới


8
8
khắc phục tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Ban
hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo
pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường... [60,
tr.31-32].
Thực hiện các nghị quyết, quan điểm, chủ trương nêu trên của Đảng; trong
thời gian qua, CTBVMT ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực: Nhà nước
đã cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, quan điểm, các nghị quyết của Đảng
về BVMT thành chính sách, pháp luật, chương trình, đề án và tổ chức thực hiện
trong toàn xã hội. Nhận thức về BVMT của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
và nhân dân được nâng lên một bước; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự
cố về môi trường từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và đa
dạng sinh học có tiến bộ rõ rệt… Những chuyển biến tích cực và kết quả đó, đã
tạo tiền đề để Đảng lãnh đạo CTBVMT đạt kết quả lớn hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, công tác BVMT còn nhiều hạn chế, yếu kém; ý thức BVMT

của cán bộ, đảng viên và nhiều người dân, nhìn chung còn thấp; việc hoàn thiện
cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về môi trường còn
chậm; đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn hạn chế về năng lực, trình độ
chuyên môn; việc xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường hiệu quả thấp; thiếu kiên
quyết trong xử lý vi phạm pháp luật về BVMT. Trong khi đó, ô nhiễm môi
trường ở nhiều nơi tiếp tục gia tăng với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm
trọng, gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đời sống nhân
dân đang là vấn đề báo động. Những hạn chế yếu kém nói trên cùng với tác động
của biến đổi khí hậu toàn cầu và mặt trái của hội nhập quốc tế đặt ra cho công tác
BVMT nhiều thách thức lớn trước mắt và lâu dài.
Những yếu kém trong CTBVMT chủ yếu từ những hạn chế, bất cập trong
lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT. Cụ thể là, Đảng còn lúng túng trong xác
định nội dung và phương thức lãnh đạo (PTLĐ) CTBVMT; chưa xác định rõ
trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo trong từng khoảng thời gian nhất định; còn lúng
túng trong lãnh đạo Nhà nước về BVMT; sự phân công, phân cấp trách nhiệm


9
9
của các cấp ủy đảng về lãnh đạo CTBVMT có một số điểm chưa cụ thể, rõ ràng;
công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân về CTBVMT còn hạn
chế, hiệu quả chưa cao. Sự lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng trong xác
minh và xử lý tập thể, cá nhân vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường
có lúc chưa kịp thời, quyết liệt và nghiêm minh; việc lãnh đạo hợp tác quốc tế về
BVMT còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp… Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống, tìm giải pháp khả thi phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, yếu
kém nêu trên; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT giai đoạn hiện
nay thực sự là vấn đề rất cấp thiết.
Để góp phần giải quyết vấn đề cấp thiết nêu trên, nghiên cứu sinh chọn và
thực hiện đề tài luận án tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác

bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo CTBVMT, luận án đề xuất giải pháp chủ yếu tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ
-

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra kết quả đạt
được và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.

-

Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
CTBVMT trong giai đoạn hiện nay;

-

Khảo sát, đánh giá thực trạng CTBVMT và thực trạng Đảng lãnh đạo CTBVMT
ở nước ta trong những năm qua; chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và
kinh nhiệm.

-

Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với CTBVMT đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu



10
10
Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
CTBVMT nước ta giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với CTBVMT từ năm 2004 đến nay; phương hướng và giải pháp đề
xuất trong luận án có giá trị đến năm 2030.
Về không gian: Luận án nghiên cứu CTBVMT và Đảng lãnh đạo
CTBVMT; tập trung nghiên cứu vấn đề này ở một số tỉnh đặc thù của ba miền
nước ta; miền Bắc (Hà Nội), miền Trung (Hà Tĩnh), miền Nam (thành phố Hồ
Chí Minh). Đây là những tỉnh, thành phố tập trung khu công nghiệp, khu chế
xuất, đông dân cư tiềm ẩn lớn sự ô nhiễm môi trường.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng ta về môi trường, BVMT và sự lãnh đạo của Đảng
đối với các lĩnh vực đời sống xã hội
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tiễn CTBVMT ở nước ta và sự lãnh
đạo CTBVMT của Đảng từ năm 2004 - 2018 qua nghiên cứu thực tế và các
đánhg giá của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền ở một số tỉnh, thành
điển hình.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các
phương pháp: logíc kết hợp với phương pháp lịch sử; phân tích kết hợp với tổng
hợp; thống kê, so sánh; điều tra xã hội học; coi trọng phương pháp khảo sát, tổng
kết thực tiễn.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
-

Khái niệm: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT là toàn bộ hoạt động
của Đảng, như: xây dựng, ban hành các nghị quyết, chỉ thị về BVMT; quán triệt,


11
11
tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức đảng và đảng
viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị (HTCT), tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế và nhân dân theo quy định làm cho môi trường trong lành, cân bằng, bền
vững.
-

Hai kinh nghiệm về Đảng lãnh đạo CTBVMT từ năm 2004 đến nay. Một là, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc huy động và phát huy sức mạnh tổng
hợp của HTCT, các tổ chức, và toàn dân, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để
BVMT. Hai là, Đảng đặc biệt coi trọng lãnh đạo việc xử lý kịp thời, nghiêm
minh những tổ chức và cá nhân vi phạm Luật BVMT.

-

Hai giải pháp đột phá tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT đến
năm 2030: thứ nhất, xây dựng Nhà nước và chính quyền các cấp vững mạnh, bảo
đảm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về BVMT. Thứ hai, xây dựng và
phát huy vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là các đảng
bộ xã, phường, thị trấn thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân
dân BVMT.


6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT nước ta giai đoạn hiện nay.
Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng nghiên cứu
xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo CTBVMT trong những năm
tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ học tập, nghiên cứu môn xây dựng Đảng ở các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước ta, nhất là ở Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, các trường chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã công
bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.


12
12

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG

1.1.1. Công trình khoa học ở Việt Nam
-

Nguyễn Đức Khiển, Nguyễn Kim Hoàng, “Đạo đức môi trường”


[92].
Các tác giả nhận định, sự phát triển của loài người song hành cùng sự phát
triển của khoa học công nghệ, của máy móc hiện đại đã để lại nhiều tác động đến
môi trường. Tác giả đã giành chương 4 tập trung cho vấn đề đạo đức môi trường,
bàn về khía cạnh đạo đức trong BVMT. Từ thực trạng của sự suy thoái môi
trường hiện nay, tác giả luận giải, con người là nạn nhân của ô nhiễm, nhưng
chính bản thân họ cũng là những thủ phạm gây nên những thảm họa về môi
trường. Trong quá trình sinh sống do khai thác tài nguyên, thiên nhiên không hợp
lý làm cho môi trường tự nhiên bị suy kiệt; do thiếu ý thức mà con người xả rác
bừa bãi, nhận thức và ý thức BVMT kém đã làm cho môi trường bị suy thoái
ngày càng nghiêm trọng
-

Đỗ Thị Ngọc Lan, “Môi trường tự nhiên trong hoạt động cuộc

sống của con người” [99]. Tác giả nhận định: con người và xã hội loài người là
bộ phận đặc biệt của tự nhiên, cho nên trước khi biến đổi được tự nhiên con
người cần phải thích nghi được với nó; nhưng trong thực tế, con người hầu như
không quan tâm tới mối liên hệ biến đổi và thích nghi, bất chấp quy luật tự
nhiên, bất chấp sự giới hạn của giới tự nhiên và môi trường. Theo tác giả, chính


13
13
sự khai thác tài nguyên quá mức của con người đã làm suy thoái môi trường; phá
vỡ tính đa dạng sinh học; hủy hoại các hệ sinh thái.
Tác giả khẳng định, để phát triển bền vững mối quan hệ thích nghi và biến
đổi môi trường tự nhiên, cần có những giải pháp đồng bộ; như, giữ tỷ lệ tăng dân
số một cách hợp lý; trong sự tăng trưởng kinh tế cần có sự cân nhắc giữa chi phí

và lợi ích, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; nhanh chóng áp dụng thành
tựu của khoa học công nghệ mới vào khai thác tài nguyên và xử lý chất thải; đẩy
mạnh giáo dục nhận thức về môi trường sống.
Nguyễn Minh Hằng, “Môi trường sinh thái - vấn đề của mọi
người” [72]
Tác giả khẳng định, môi trường suy thoái (MTST) là một mạng lưới chỉnh
thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể
sống trong phạm vi toàn cầu. Vì vậy, chỉ cần rối loạn, bất ổn định ở một khâu nào
đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng. Trong quá trình sinh
sống, con người là chủ thể bồi đắp cho thiên nhiên; nhưng cũng vì lợi ích và nhu
cầu của cuộc sống, đã khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN)
làm suy thoái MTST, dần dần con người trở nên đối lập với thiên nhiên. Suy
thoái môi trường làm cho trái đất nóng lên do “hiệu ứng nhà kính”; ô nhiễm
nguồn nước ngày càng nghiêm trọng; tầng ôzon suy thoái tác động mạnh đến
mọi sinh vật trên trái đất, làm giảm khả năng miễn dịch của con người, gia tăng
bệnh tật.
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, trong cuốn sách “Môi trường sinh thái vấn đề và giải pháp” [161].
Tác giả khẳng định: mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên là mối
quan hệ biện chứng. Theo tác giả, nghiên cứu, xem xét mối quan hệ giữa con
người, xã hội và tự nhiên thông qua cơ sở lý luận, phương pháp luận. Thứ nhất,
tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của sự thống nhất biện chứng giữa
xã hội, tự nhiên với con người; thứ hai, sự điều khiển một cách có ý thức mối
quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên; thứ ba, sự phụ thuộc của con người,
xã hội và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội. Tác giả nhận định, cùng với
sự phát triển của xã hội, sự tác động của con người, làm cho môi trường biến đổi


14
14
theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Nguyên nhân chính là từ nhận thức và ý thức

của con người đối với môi trường hạn chế. Để BVMT cần phải thay đổi quan
niệm về tự nhiên; coi vấn đề giáo dục trở thành một nột dung quan trọng trong
chương trình giáo dục và đào tạo.
Hà Huy Thành, Lê Cao Đoàn, “Vấn đề môi trường trong phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững ở Việt Nam” [149].
Các tác giả đã phân tích và nhận định: tài nguyên, môi trường, một mặt, là
cơ sở nền tảng của sự phát triển xã hội, bao gồm phát triển kinh tế và các lĩnh
vực xã hội ngoài kinh tế; mặt khác, tài nguyên, môi trường là một bộ phận cấu
thành của một hệ thống kinh tế xã hội; BVMT là bảo vệ nguồn lợi và nguồn vốn
của con người thu được từ thiên nhiên.
Các tác giả đã dành một chương để trình bày kết quả nghiên cứu thực
trạng những vấn đề môi trường và nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường; cụ
thể là, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chủ yếu dựa vào khai thác, sử dụng nhiều
TNTN mà không quan tâm đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT. Điều
đó đã dẫn đến tình trạng tàn phá, hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên; môi
trường nước, không khí, rác thải ở cả đô thị và nông thôn bị ô nhiễm nghiêm
trọng gây nhiều hệ lụy cho sự phát triển kinh tế, xã hội và ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe con người; trong khi đó, việc quản lý nhà nước về môi trường còn
nhiều bất cập.
-

Nguyễn Thị Khương, “Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp

giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay”
[97].
Dưới góc độ triết học, tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ biện chứng
giữa tăng trưởng kinh tế với BVMT sinh thái và khẳng định: tăng trưởng kinh tế
tác động tới bảo vệ MTST thông qua yếu tố người lao động, tài nguyên thiên
nhiên, khoa học và công nghệ - là những yếu tố cơ bản quyết định tới sự tăng
trưởng của nền kinh tế và ảnh hưởng tới quá trình bảo vệ MTST. Ngược lại,

MTST giữ vai trò tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự hình thành, phát triển của
con người cũng như nền sản xuất vật chất của xã hội; nó cung cấp những điều
kiện vật chất - tức là nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn để con người sản xuất


15
15
ra của cải, duy trì sự sinh tồn và phát triển. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
bảo vệ MTST là hai nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt, luôn đồng hành với nhau
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, nước ta đang đối
mặt với nhiều thách thức, hàng loạt mâu thuẫn nẩy sinh giữa tăng trưởng kinh tế
và bảo vệ MTST đòi hỏi phải nhận thức, tìm cách giải quyết để đưa đất nước
phát triển ngày càng bền vững.
Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Thị Hoàng Yến, “Bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững ở Việt Nam” [162].
Các nhà khoa học nhận định, muốn phát triển bền vững phải tính đến yếu
tố môi trường. Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội có quan hệ chặt chẽ,
khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau. Chính trong quá trình sản xuất, con người
do thiếu ý thức, thiếu hiểu biết, tận khai thác đã và đang tác động tiêu cực đến
môi trường; hủy hoại những giá trị của môi trường. Các tác giả đã đánh giá cụ
thể về hiện trạng của ô nhiễm môi trường; như, mức độ ô nhiễm ở hạ lưu các con
sông ngày càng tăng, chất lượng đất và diện tích đất canh tác bị thu hẹp, ô nhiễm
không khí, tiếng ồn giao thông… sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho đời sống, sức
khỏe con người, cho sự phát triển kinh tế - xã hội; hậu quả đó không phải chỉ một
quốc gia phải gánh chịu và còn gây hậu quả trên phạm vi toàn cầu.
-

Trần Thiết, “Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững” [155].


Tác giả chỉ rõ, mức độ nguy hiểm của biến đổi khí hậu toàn cầu và suy
giảm môi trường; trong đó, Việt Nam là nước ảnh hưởng nặng nề nhất. Theo tác
giả, nguyên nhân dẫn tới môi trường bị suy giảm, ngoài yếu tố khách quan có
nguyên nhân chủ quan thuộc về nhận thức và ý thức của người dân và chủ doanh
nghiệp. Việc BVMT để phát triển bền vững là trách nhiệm của cả HTCT, của
toàn dân, mà trước hết là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Lê Thị Thanh Hà,“Vai trò của nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt
Nam” [69].


16
16
Tác giả khái quát đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Việt Nam, chỉ rõ những tác động tiêu cực của CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn đến môi trường nước ta hiện nay, như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp tác động trực tiếp đến môi trường; quá trình đô thị hóa đã thu hẹp
tài nguyên đất sản xuất nông nghiệp; dân số tăng cộng với các dịch vụ khác đã
gây sức ép lớn cho môi trường; sự phát triển của làng nghề làm gia tăng chất thải
nguy hại; tác động của việc khai thác khoáng sản làm nảy sinh vấn đề môi trường
bức xúc. Tác giả khẳng định vai trò của nhà nước trong CTBVMT thời gian qua
và chỉ rõ những hạn chế, bất cập của pháp luật BVMT; hạn chế của tổ chức bộ
máy; hạn chế trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia BVMT...
Trương Mạnh Tiến, “Sự phát triển của thương mại tự do trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi trường sinh
thái” [159].
Tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về tự do
thương mại và bảo vệ MTST ở nước ta. Khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường
và quá trình tự do hóa thương mại, tác giả phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến

nhận định: sự bền vững về MTST chính là cơ sở để tăng trưởng kinh tế; con
đường khả thi duy nhất để tăng trưởng kinh tế lâu bền là cân bằng các nguồn lực
kinh tế, sinh thái, con người.
Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và chỉ rõ những hậu quả về mặt môi
trường của các chính sách kinh tế tự do hóa thương mại gây ra; tác giả cho rằng,
quy mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, và ô nhiễm MTST cũng tăng theo; các hoạt động tự do hóa
thương mại như nhập hàng hóa kém chất lượng, rác thải công nghiệp, xuất khẩu
gỗ, thủy hải sản… để lại nhiều hậu quả về MTST; tự do hóa thương mại dẫn tới
tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhu cầu sử dụng tài nguyên cho các ngành công
nghiệp gia tăng, việc khai thác TNTN sẽ dẫn đến tình trạng MTST ô nhiễm ngày
càng nặng nề hơn.
Tác giả rút ra kết luận: sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh
tế thị trường ở nước ta ảnh hưởng rõ rệt tới MTST, nhưng tự do hóa thương mại


17
17
có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững; vì vậy, cần phải có biện pháp để
BVMT sinh thái trong điều kiện tự do hóa thương mại ở nước ta.
Nguyễn Đình Hòa, “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn ở nước ta hiện nay - khía cạnh môi trường sống” [81].
Tác giả khẳng định, ở nước ta các vấn đề về môi trường sống nảy sinh
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên hết
sức phức tạp, tạo nên sức ép to lớn đối với môi trường sống khu vực này, nếu
không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, cản trở quá trình
phát triển. Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn tài TNTN do các hoạt động sản xuất
và dân sinh, vấn đề ô nhiễm môi trường do tác động của quá trình CNH, HĐH;
nguy cơ giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất và dân sinh;
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp được triển khai tại nhiều địa phương góp

phần gây ô nhiễm… là vấn đề cấp bách hiện nay cần có những giải pháp căn cơ
để khắc phục.
Nguyễn Thị Nga, “Vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay” [121].
Tác giả phân tích những đặc điểm của môi trường tự nhiên ở nước ta; chỉ
rõ nội dung cơ bản của công tác BVMT trong tiến trình CNH, HĐH ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay; tác giả đánh giá hiện trạng và hoạt động của môi trường
tự nhiên liên quan đến các lĩnh vực như: tài nguyên đất, tài nguyên nước; tài
nguyên khoáng sản; tài nguyên rừng và đa dạng sinh học; chỉ rõ những ưu điểm
và hạn chế của nhà nước, của doanh nghiệp và của người dân đối với việc bảo vệ
môi trường tự nhiên.
Trên cơ sở đó, tác giả đề ra các nhóm giải pháp để BVMT trong tiến trình
CNH, HĐH; trong đó, coi trọng giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước đối
với hoạt động này; như, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT tự nhiên; vận dụng kinh nghiệm của các
nước đi trước trong BVMT và tăng cường đầu tư nguồn tài chính cho CTBVMT.
-

Nguyễn Hữu Cát, Vương Cường, “Khảo sát thực trạng quản lý

Nhà nước về môi trường tại một số tỉnh phía Nam ở nước ta hiện nay” [23].


18
18
Các tác giả đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về môi
trường qua khảo sát ở một số tỉnh phía Nam, chỉ rõ những yếu kém, bất cập trong
lĩnh vực quản lý, bảo vệ và tái tạo môi trường của hệ thống pháp luật ở nước ta,
yếu kém của đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở
đó, các tác giả đề xuất hệ thống giải pháp để thực hiện tốt công tác quản lý môi

trường trong thời gian tới, đó là: hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; tăng cường bộ
máy quản lý Nhà nước về môi trường và nâng cao hiệu quả hoạt động của nó;
tăng cường giáo dục ý thức môi trường cho người dân...
-

Nguyễn Minh Quang, “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,

đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi trường” [133].
Tác giả khẳng định, BVMT được nhìn nhận là vấn đề sống còn, được coi
là một trong ba trụ cột để phát triển đất nước. Tác giả đánh giá và khẳng định
những kết quả đạt được trong CTBVMT, cụ thể: nhận thức về vai trò, tầm quan
trọng của CTBVMT của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội và
người dân đã có những chuyển biến tích cực; mức độ gia tăng ô nhiễm môi
trường được hạn chế; công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường
được đẩy mạnh. Tuy nhiên, MTST nước ta cũng đang đứng trước không ít khó
khăn, thách thức như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, triều cường, xâm nhập
mặn, ô nhiễm môi trường gia tăng.
Tác giả nhấn mạnh, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh
công tác bảo vệ tài nguyên môi trường là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn; là
nhiệm vụ của cả HTCT; là cơ sở tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách
phát triển kinh tế, xã hội; là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất
nước; là trách nhiệm của mỗi tổ chức cá nhân và cộng đồng, trong đó nhà nước
giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia giám sát của toàn
xã hội.
-

Trần Đắc Hiến, “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - thực

trạng và một số giải pháp khắc phục” [75].
Tác giả cho rằng, trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, việc

phát triển kinh tế gắn với môi trường chưa chú trọng đúng mức, dẫn đến ô nhiễm


19
19
môi trường ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng, nóng bỏng và là vấn đề gây bức
xúc trong dư luận xã hội. Theo tác giả, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng
nghiêm trọng là do bất cập của cơ chế, chính sách; quyền hạn pháp lý của các cơ
quan BVMT chưa đủ mạnh; chính quyền chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng
của CTBVMT. Giải quyết được tình trạng này, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật về BVMT, trong đó các chế tài xử phạt phải đủ sức răn đe; tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường; chú trọng công tác quy hoạch
khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động,
giáo dục nhân dân nâng cao ý thức trách nhiệm BVMT.
-

Trần Thị Thu Hường, “Tăng cường hiệu quả xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” [90].
Trên cơ sở nghiên cứu Nghị định số 155/2016/NĐ-CP, tác giả chỉ rõ tám
nhóm hành vi vi phạm chính về quy định BVMT gồm: hành vi vi phạm về kế
hoạch BVMT, đánh giá tác động môi trường; hành vi gây ô nhiễm môi trường;
hành vi vi phạm về xử lý chất thải; hành vi vi phạm về quy định BVMT của các
cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh doanh dịch vụ tập trung; hành vi vi phạm
quy định về BVMT trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị; hành vi vi
phạm trong hoạt động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản... Tác giả cho rằng,
việc xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra
và xử phạt của Nghị định 155, đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức thiết, góp phần
thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm quy định về môi trường

được thống nhất, hiệu quả, có tính răn đe cao; buộc các tổ chức, doanh nghiệp
phải thay đổi hành vi BVMT, nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật cho các tổ
chức, doanh nghiệp trong CTBVMT. - Nguyễn Hằng, “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông trong công tác bảo vệ môi
trường” [74].
Tác giả phân tích và khái quát vai trò của công tác tuyên truyền đối với
CTBVMT, công tác tuyên truyền là một hoạt động góp phần thúc đẩy thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ đặt ra đối với CTBVMT. Vì vậy, cần
tổ chức truyền thông, phổ biến các cơ chế, chính sách, chủ trương lớn về tài


20
20
nguyên và môi trường ngay từ khi chuẩn bị, ban hành và tổ chức triển khai. Tác
giả chỉ rõ biện pháp chủ yếu trong công tác truyền thông là: chú trọng tuyên
truyền, hướng dẫn cho người dân thực hiện các biện pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả các nguồn TNTN, ý thức trách nhiệm trong CTBVMT; phổ biến, hướng dẫn,
tăng cường năng lực cho các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp thực hiện
chức năng giám sát, phản biện và tham vấn cộng đồng về tài nguyên và môi
trường; chú trọng ứng dụng công nghệ và phương thức truyền thông để lắng
nghe ý kiến của doanh nghiệp, người dân và cộng đồng xã hội, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường.
-

Vũ Ngọc Lân, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong

công tác bảo vệ môi trường” [102].
Tác giả đánh giá kết quả đạt được khi người dân tham gia BVMT trong
thời gian qua như: xu hướng người dân tham gia trực tiếp vào CTBVMT ở địa
bàn cơ sở ngày càng tăng; việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã

từng bước cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
trên nhiều lĩnh vực, tạo chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nông thôn mới, trong đó có BVMT. Tuy nhiên, theo tác giả, ở nhiều nơi
người dân chưa biết được việc xử lý, BVMT trên địa bàn của mình như thế nào
nên cũng không thể bàn và kiểm tra, do các khu công nghiệp, khu chế xuất và
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bao bọc, khép kín và người dân
bất khả xâm phạm. Tác giả nhận định, trách nhiệm trước hết là do người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan tham mưu, thẩm định dự án
về môi trường; các tổ chức đoàn thể chưa đủ chuyên môn về môi trường để giám
sát và phản biện. Tác giả cho rằng, để thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác BVMT cần phải có các quy chế, quy
định mang tính pháp quy; phát huy hơn nữa thế mạnh của các phương tiện thông
tin đại chúng; việc công khai phê bình các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp về vi phạm BVMT trên báo chí cần phải được tái lập, đây là những giải
pháp thiết thực để nhân dân tham gia công tác BVMT.
Bùi Cách Tuyến, “Giám sát xã hội và bảo vệ môi trường ở Việt
Nam” [164].


21
21
Tác giả đã nhận định: để nâng cao hiệu quả của CTBVMT thì một trong
những biện pháp cần được thực hiện thường xuyên đó là làm tốt chức năng giám
sát xã hội đối với hoạt động này. Tác giả xác định rõ, chủ thể của giám sát xã hội
là MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cá nhân, công
dân hoặc cộng đồng dân cư, các cơ quan truyền thông đại chúng. Đối tượng chịu
sự giám sát xã hội là cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân hoạt động sản xuất
kinh doanh, họ có nghĩa vụ chấp hành Luật BVMT.
Theo tác giả, thời gian qua, hoạt động giám sát xã hội về BVMT ở Việt
Nam đã được tiến hành khá tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn

đề cần giải quyết về cả tổ chức thực thi và phương diện hoàn thiện thể chế. Vì
vậy, các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nhận thức đúng
về bản chất và thiết lập khuôn khổ pháp lý để hoạt động giám sát xã hội về
BVMT diễn ra một cách thuận lợi và đạt kết quả.
Nguyễn Văn Kim, “Mối quan hệ giữa phát triển và môi trường kinh nghiệm của Nhật Bản” [98].
Từ thực tiễn phát triển kinh tế của Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XX,
tác giả nhận xét: chính hoạt động và ý thức của con người khi khai thác quá mức
tài nguyên đã tác động xấu đến MTST; bên cạnh đó, sự tập trung quá mức các
nguồn tài nguyên phục vụ cho các ngành sản xuất đã dẫn đến mất cân bằng sinh
thái và ô nhiễm môi trường. Tác giả luận giải và nhận định, dù là có ý thức hay
vô thức, thì chính con người là tác nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm môi trường, tàn
phá, hủy hoại môi trường. Hậu quả của nó lại chính con người phải gánh chịu.
Chính vì mục tiêu tăng trưởng nhanh, chính phủ Nhật bản chưa tập trung cho
CTBVMT mà còn dung túng cho các tổ chức hủy hoại môi trường.
Tác giả khái quát những kết quả đạt được của Nhật Bản trong BVMT, và
nêu một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong CTBVMT, đó là: luật hóa và tăng
cường thực thi pháp luật về BVMT; thiết lập cơ quan chuyên trách BVMT; sử
dụng công nghệ sạch, đảm bảo an toàn; giáo dục cho người dân hiểu rõ về ý
nghĩa và trách nhiệm của BVMT và vận động nhân dân tham gia tích cực phòng
chống ô nhiễm; thay đổi chiến lược phát triển kinh tế... Theo tác giả, đây là bài


22
22
học kinh nghiệm đáng để Việt Nam nghiên cứu vận dụng nhằm thực hiện tốt việc
BVMT.
Jung Gun Young, “Quản lý nhà nước về môi trường ở Hàn Quốc - Những
giá trị tham khảo cho Việt Nam” [91].
Tác giả tập trung phân tích, đánh giá, so sánh thực tiễn quản lý nhà nước
về BVMT ở Hàn Quốc và Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước; cụ thể như, so sánh về mô hình tổ chức và hoạt động của chính phủ trong
quản lý nhà nước về môi trường, thông qua nghiên cứu điển hình và phân tích
chuyên sâu về các mô hình tổ chức này tại Hàn Quốc và Việt Nam trong mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế, xã hội khác nhau. Từ đó, tác giả khẳng định những kinh
nghiệm của Hàn Quốc trong BVMT mà Việt Nam cần ưu tiên vận dụng đó là:
cần quyết liệt và nhanh chóng triển khai các chính sách phòng ngừa ô nhiễm môi
trường trong tất cả các ngành kinh tế; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đặc
biệt là công tác kiểm tra, giám sát, kiềm chế ô nhiễm môi trường thông qua một
đầu mối để tránh sự chồng chéo, trùng lắp và tiết kiệm ngân sách; cải cách mạnh
mẽ chính sách phí và thuế môi trường.
Trần Thị Duyên, “Các giải pháp, chính sách của Đài Loan đối với các
vấn đề môi trường” [41].
Tác giả phân tích và chỉ rõ, kế hoạch BVMT mang tính tổng thể đã được
chính quyền Đài Loan đặc biệt lưu tâm từ năm 1990. Luật BVMT ở Đài Loan
không chỉ tiến bộ về mặt tinh thần mà còn phối hợp với cơ chế kiểm soát môi
trường hiện đại để hạn chế những tác động xấu của các vấn đề môi trường đặt ra.
Bài viết đã phân tích cụ thể các chính sách của chính phủ Đài Loan đối với việc
BVMT không khí và tầng ozone; chính sách BVMT nước, kiểm soát tiếng ồn;
chính sách, biện pháp để giảm thiểu và tái chế rác thải... Tác giả nhấn mạnh, vấn
đề môi trường là vấn đề manh tính toàn cầu; vì vậy, để giải quyết triệt để vấn đề
này, không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của riêng Đài Loan, mà cần có sự hợp tác của tất
cả các nước trên thế giới để vừa phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững môi
trường sinh thái.


23
23
Phạm Thị Xuân Mai, “Đối sách của Trung Quốc trước các vấn đề
môi trường” [114].
Tác giả nhận định, Trung Quốc hiện đang trong giai đoạn phát triển nhanh

chóng của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Đây cũng là giai đoạn mâu
thuẫn xẩy ra nhiều nhất giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT. Cụ thể là, dân số
tăng nhanh, tài nguyên bị khai thác quá mức đã dẫn đến nhiều vấn đề sinh thái
như, dất đai bị xói mòn, tình trạng hoang mạc hóa, mất đi đa dạng sinh học; môi
trường nhiều nơi bị ô nhiễm nặng nề. Chính phủ Trung Quốc đã có nhiều biện
pháp, chính sách để đối phó với ô nhiễm môi trường và đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm môi trường gia tăng ở một số khu vực
cho thấy việc thực thi và hiệu quả của những chính sách này còn hạn chế. Vì vậy,
thay đổi chính sách phù hợp để BVMT là nhiệm vụ được chính phủ Trung Quốc
đặt lên hàng đầu. Những chính sách Trung Quốc đang thực thi là kinh nghiệm để
Việt Nam có thể tham khảo đối với công tác BVMT, như: tăng cường quy hoạch
tổng thể ngành công nghiệp BVMT; tăng cường đổi mới công nghệ, khuyến
khích sáng tạo và đổi mới, tăng cường xây dựng kênh đầu tư đa nguyên hóa và
cơ chế huy động vốn vào ngành công nghiệp BVMT; ủng hộ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong CTBVMT; quy hoạch, chấn hưng ngành công nghiệp tiết kiệm
năng lượng và BVMT.
-

Hoàng Hồng Hạnh, “Kinh nghiệm quốc tế về phân vùng môi

trường trong quy hoạch và bảo vệ môi trường” [71].
Tác giả nhận định, phân vùng môi trường được hiểu là một công cụ quy
hoạch không gian, cơ sở để phân loại môi trường là tổng hợp các yếu tố tự nhiên
và có thể cả yếu tố kinh tế - xã hội tại mỗi vùng phụ thuộc vào mục đích ưu tiên
của từng vùng. Từ thực tế phân vùng môi trường đã và đang được tiến hành ở
nhiều quốc gia như châu Âu, châu Mỹ, Trung Quốc, Úc, Malaixia, Ấn Độ... Tác
giả khẳng định, phân vùng môi trường được coi là công cụ quan trọng và là bước
đầu tiên của quy hoạch BVMT. Để phân vùng môi trường, Việt Nam cần vận
dụng các kinh nghiệm sau: thứ nhất, chú ý đến các đặc điểm, đặc trưng của từng
vùng và làm rõ mục tiêu cần đạt được; thứ hai, xây dựng bản đồ là một trong

những công cụ để thể hiện được sự giao thoa giữa hoạt động kinh tế và điều kiện


24
24
môi trường; thứ ba, chú trọng tính kết nối và tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố,
đặc biệt là tính kết nối sinh thái, sự tương tác giữa các yếu tố tự nhiên và kinh tế
- xã hội; thứ tư, quy hoạch BVMT cần phải dự báo và kiểm soát ảnh hưởng tiềm
tàng của phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã
hội đang diễn ra nhanh và tất yếu hiện nay.
1.1.2. Công trình khoa học ở nước ngoài
-

Hilary French, “After the Earth Summit: the Future of

Environmental Governance”, “Tương lai của công tác quản lý nhà nước về môi
trường sau Hội nghị thượng đỉnh trái đất” [175].
Cuốn sách đã tổng hợp tiến trình phát triển quản lý nhà nước về BVMT
trên thế giới. Từ việc khẳng định vai trò quản lý nhà nước đối với CTBVMT, tác
giả nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và
công tác quản lý nhà nước về môi trường để giải quyết các vấn đề về môi trường
do đặc tính “xuyên biên giới” và quy mô toàn cầu của vấn đề này. Đặc biệt, tác
giả chỉ rõ những thành tựu và khó khăn, thách thức đặt ra đối với CTBVMT
trong bối cảnh toàn cầu hóa và vấn đề biến đổi môi trường theo chiều hướng xấu
diễn ra mạnh mẽ khắp toàn cầu. Trên cơ sở đó, cuốn sách đã đưa ra một số kết
luận quan trọng, cần tham khảo cho CTBVMT của các quốc gia; cụ thể, thể chế
hóa hoạt động BVMT, đưa quy định trách nhiệm BVMT vào Hiến pháp để nâng
cao hiệu quả của công tác này; nỗ lực của toàn cầu và khu vực nhằm giải quyết
hiệu quả những khó khăn, thách thức về nguồn lực tài chính cho hoạt động
BVMT; không lạm dụng các nguồn tài nguyên và đòi hỏi quá mức về môi trường

sẽ làm cho nền kinh tế thế giới bị hạn chế. Tác giả cho rằng, bên cạnh nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường, cần tập trung cải thiện chất lượng cuộc
sống cho người nghèo là biện pháp quan trọng để BVMT, tránh cho môi trường
bị hủy hoại, xuống cấp.
Tác giả Helige Jorgens, Helmut Weidner, với cuốn sách“Capacity
building in national Environmental policy comparative Study of 17 countries”,
(Tăng cường năng lực về chính sách môi trường - nghiên cứu so sánh 17 quốc
gia) [170].


25
25
Đây là công trình của của tập thể tác giả nhằm phân tích, đánh giá, tổng
kết, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quản lý môi trường nhiều quốc gia
và đưa ra các mô hình quản lý tối ưu cho công tác quản lý môi trường phù hợp
cho các quốc gia đang phát triển.
Các tác giả khái quát quá trình phát triển và chính sách quản lý môi trường
trường giai đoạn 1970 - 2000 ở các quốc gia Đông Âu đang trong giai đoạn
chuyển dịch nền kinh tế từ quản lý tập trung sang thị trường gồm: Tiệp Khắc,
Bungari, Hungari, và Ba Lan; 7 quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển ở miền
Nam Mỹ, châu Á và châu Phi gồm: Bradin, Mêhicô, Môrốccô, Côxtarica, Ấn Độ,
Đài Loan và Việt Nam; 6 quốc gia phát triển gồm: Canađa, Italia, Áo, Úc, Pháp,
Niu Di Lân. Nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề trọng tâm sau đây về môi trường:
khái niệm về năng lực quản lý và chính sách môi trường; quan điểm và cách hiểu
của các quốc gia về năng lực quản lý nhà nước về môi trường; những hạn chế về
năng lực của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường... Các tác giả đã khái quát
về tiến trình phát triển của hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam giai đoạn từ
1990 đến 2000; phân tích, so sánh với các quốc gia phát triển và đang phát triển
và nêu một số kiến nghị cho Việt Nam trong CTBVMT.
Tác giả Koos Neetjes với công trình: “Environment and livelihoods:

strategies for sustainable development” (môi trường và sinh kế - các chiến lược
phát triển bền vững [171].
Với kết cấu 5 chương, cuốn sách phản ánh mối quan hệ giữa đói nghèo và
những thay đổi về môi trường; phân tích và khái quát lý thuyết về môi trường và
phát triển, nhất là phát triển bền vững. Theo tác giả, phát triển bền vững dựa vào
ba yếu tố cốt lõi: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, BVMT và TNTN. Tác giả
cho rằng, hệ sinh thái và nơi sinh sống của các loài động thực vật hoang dã sẽ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng nếu môi trường bị ô nhiễm, TNTN bị hủy diệt; ngoài ra,
còn ảnh hưởng đến đất canh tác và hiện tượng thiếu nước ngọt. Điều này, đã dẫn
đến những biến động xã hội chưa từng thấy mà những người nghèo và cộng đồng
trực tiếp sống dựa vào TNTN phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất; tình trạng này
đang xảy ra ở phần lớn các nước đang phát triển. Từ đó, tác giả khẳng định: môi
trường cần thiết cho sự sống của con người, nếu không bảo vệ được môi trường


×