Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sử DỤNG PPTLN TRONG dạy học các PHẠM TRÙ đạo đức, môn GDCD ở TRƯỜNG THCS TRẦN QUỐC TOẢN, THÀNH PHỐ TUY hòa, TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 28 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP
SỬ DỤNG PPTLN TRONG DẠY
HỌC CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC,
MÔN GDCD Ở TRƯỜNG
THCSTRẦN QUỐC TOẢN,
THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH
PHÚ YÊN


- Nguyên tắc sử dụng PPTLN trong dạy học các
phạm trù đạo đức, môn GDCD ở trườngTHCS Trần Quốc
Toản, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Quá trình dạy học tổng thể nói chung và các thành tố của
nó nói riêng vận động và phát triển theo các nguyên tắc dạy
học là kết quả tất yếu của sự hoạt động của các quy luật khách
quan vốn có của nó. Có thể coi các nguyên tắc dạy học là các
tính quy luật có khả năng rất lớn trong việc tổ chức điều khiển
quá trình dạy học một cách hợp quy luật. Các nguyên tắc dạy
học là những luận điểm chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy học, chỉ
đạo hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò một cách
hợp quy luật.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể phát biểu:
nguyên tắc dạy học là những luận điểm xuất phát cơ bản có
tính quy luật, có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình giảng dạy
và học tập phù hợp với mục tiêu dạy học nhằm thực hiện tốt
nhất các nhiệm vụ dạy học đã đặt ra.
Khi xây dựng các biện pháp thảo luận nhóm trong dạy
học các phạm trù đạo đức môn GDCD, ở trường THCS Trần
Quốc Toản,thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, ngoài việc căn



cứ vào cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã trình bày trong luận
văn các biện pháp đưa ra còn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản sau:
- Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu môn học
Vai trò của giáo dục, dạy học, nhất là quá trình giáo dục
đạo đức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc định
hướng cho hoạt động cá nhân nhằm biến yêu cầu xã hội thành
mục tiêu, thành nhu cầu đối với quá trình rèn luyện của mỗi
người. Giáo dục đạo đức có một ý nghĩa quan trọng vì nó tạo
ra sự thống nhất nhận thức và hành động vì lợi ích chung của
cộng đồng, của nhân loại, góp phần giải quyết những mâu
thuẫn, những bất đồng giữa cá nhân với cá nhân giữa tập thể
này với tập thể khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác vì
trách nhiệm của mỗi thành viên trong cuộc sống, chung bước
vào một xã hội phát triển.
Một trong những mục tiêu trọng tâm của môn GDCD ở
THCS, là rèn luyện những thói quen hành vi đạo đức trong
đối xử với các quan hệ của chủ thể. Trong các hành vi giao
tiếp ứng xử ở tuổi trẻ thì giao tiếp ứng xử với mọi người ở
mọi lúc, mọi nơi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, truyền


thống dân tộc, là bộ mặt văn hóa của cá nhân. Song, trong xã
hội hiện nay, đòi hỏi mỗi con người phải hoàn toàn tự giác, tự
lập để có sức đề kháng với những tiêu cực của hoàn cảnh …
thì những giá trị tự hoàn thiện nhân cách được coi là giá trị
cốt lõi của quá trình rèn luyện bản thân.
Mục tiêu quan trọng nhất của môn đạo đức cũng như
môn GDCD là hình thành phát triển thái độ đúng đắn. Để có
thái độ đúng đắn môn GDCD sẽ giúp học sinh có được những

cảm xúc, tình cảm, niềm tin một cách hệ thống. Chỉ khi nào
hình thành được những tình cảm lành mạnh, niềm tin vững
chắc vào nhữnggiá trị đạo đức, tin vào cuộc sống đang vận
động, phát triển thì các em mới có khả năng xem xét các hiện
tượng tốt, xấu, thiện, ác … đan xen đang tồn tại ngoài xã hội.
Có thể khẳng định xúc cảm, tình cảm, niềm tin là động lực là
yếu tạo ra động cơ, tạo ra sức mạnh giúp cho mọi cá nhân
vượt qua mọi khó khăn, biết lựa chọn những giá trịhướng tới
chân, thiện, mĩ. Chỉ có tình cảm, niềm tin đúng đắn trong sáng
mỗi người mới tạo ra được cuộc sống tinh thần, lối sống lành
mạnh, chỉ có tình cảm, niềm tin, con người mới đủ trí khôn,
tỉnh táo và có phương pháp hợp lý giải quyết những mâu
thuẫn của đời thường như quyền lợi của cá nhân với tập thể,


vật chất và tinh thần, quyền lực và trách nhiệm, lòng vị tha và
tính hẹp hòi … Nhận thức đúng vị trí của bản thân trong cuộc
sống, có tình cảm, niềm tin sâu sắc, đúng đắn vừa là nhiệm vụ
của giáo dục đạo đức, vừa là yếu tố cấu trúc thành tâm lực
nhưng đồng thời lại là điều kiện phát triển tâm lực, phát triển
nhân cách.
Thực hiện nguyên tắc đảm bảo mục tiêu môn học khi sử
dụng PPTLN cần lưu ý một số vấn đề sau:
Sử dụng PPTLN phải đạt được mục tiêu của môn học
nói chung từng bài học nói riêng. Tức là phải lựa chọn đúng
đơn vị kiến thức nào cần thảo luận, TLN về đơn vị kiến thức
đó nhằm đạt được mục đích gì.
Việcsử dụng PPTLN trong dạy học phải phù hợp với các
đơn vị kiến thức của bài học, phải đạt được mục tiêu đề ra,
nếu không đạt được có nghĩa là thất bại. Tuy nhiên không

phải đơn vị kiến thức nào, bài nào, tiết học nào cũng sử dụng
PPTLN mà phải biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong
quá trình dạy học thì mới mang lại hiệu quả cao.
- Nguyên tắc đảm bảo định hướng phát triển năng lực
cho học sinh


Định hướng phát triển năng lực cho học sinh, được hiểu
là làm cho học sinh biến đổi theo hướng tăng cường,nâng cao
cả về kiến thức, thái độ, giá trị và cáckĩ năng, các năng lực để
thực hiện tốt hơn các hoạt động, góp phần giúp các em thích
ứng với cuộc sống tốt hơn.
Một số yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo định
hướngphát triển năng lực của học sinh:
Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi có những biến đổi
lớn về tâm sinh lí. Cùng với hoạt động học tập, hoạt động
giao tiếp, ứng xử, giải quyết vấn đềcũng phát triển rất mạnh,
các mối quan hệ xã hội được mở rộng. Do đó, sự phát triển
của xã hội có tác động rất lớn đến lứa tuổi này. Trong hoạt
động học tập cũng như các hoạt động giáo dục khác đòi hỏi
phải có sự phối hợp, trao đổi, hợp tác với nhau nhằm thực
hiện có hiệu quả các hoạt động đó.
Hình thành và định hướngphát triển năng lựccho học
sinh được coi là một việc làm quan trọng, cần thiết của giáo
dục Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong nhà trường THCS,
việc định hướngphát triển năng lực cho học sinh được thực
hiện thông qua các con đường khác nhau nhằm góp phần thực


hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. Qua đó, giúp

học sinh củng cố bổ sung những kiến thức, phát triển thái độ,
tình cảm, niềm tin, sự gắn bó với cộng đồng, xã hội. Mặt khác
giúp các em rèn luyện những kĩ năng cơ bản và cần thiết như:
kĩ năng nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng hòa nhập, năng
lực thuyết trình,kĩ năng ứng phó, kĩ năng giao tiếp… với các
vấn đề của cuộc sống, xã hộilàm cơ sở phát triển các năng lực
hoạt động như năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, xử
lý tình huống, tư duy phản biện.
Như vậy, định hướng phát triển năng lựcđược coi là một
yêu cầu cần thiết, phải được hình thành và phát triển ở học
sinh. Do đó việc định hướngphát triển cácnăng lực, các kĩ
năngcho học sinh là một vấn đề quan trọng nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển nguồn nhân lực mới cho xã hội, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
của đất nước.
- Nguyên tắc đảm bảo phát huy tính tích cực của học
sinh
Quá trình nhận thức của học sinh là quá trình trong đó học
sinh với tư cách là chủ thể phản ánh thế giới kháchquan vào ý


thức của mình. Trong quá trình này học sinh nắm được quy luật
khách quan của thế giới hiện thực rồi vận dụng chúng vào việc
cải tạo thế giới và bản thân. Như vậy về bản chất, quá trình
nhận thức của học sinh là quá trình tích cực, tự giác. Hơn nữa,
quá trình nhận thức này còn nhờ sự tác động qua lại giữa thầy
và trò, giữa dạy và học.
Mặt khác, quá trình nhận thức của học sinh chịu sự chi
phối của quy luật thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và
hoạt động học, giữa dạy học và phát triển trí tuệ … Do đó,

trong dạy học phải đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác,
tích cực, độc lập của học sinh và vai trò chỉ đạo của giáo viên.
Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ học sinh ý thức
được mục đích nhiệm vụ học tập, có ý thức trong việc lĩnh hội
tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, có ý thức kiểm tra, đánh
giá, quá trình và kết quả học tập của mình.
Tính tích cực nhận thức thể hiện ở thái độ cải tạo của
chủ thể đối với đối tượng nhận thức. Nghĩa là tài liệu học tập
được hòa vào vốn kinh nghiệm của mình và được vận dụng
linh hoạt vào các tình huống khác nhau nhằm cải tạo hiện
thực và bản thân. Dưới góc độ tâm lý,tính tích cực nhận thức


còn là sự huy động chức năng nhận thức, tình cảm, ý chí của
chủ thể, trong đó chức năng nhận thức đóng vai trò chủ yếu,
các chức năng tâm lý khác đóng vai trò hỗ trợ.
Tính độc lập nhận thức được thể hiện ở chỗ học sinh biết
tự phát hiện vấn đề, biết tự đặt vấn đề, biết tự đặt kế hoạch
giải quyết vấn đề và biết tự kiểm tra kết quả giải quyết vấn đề.
Như vậy đòi hỏi học sinh có khả năng tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức của bản thân.
Ba phẩm chất nêu trên có quan hệ mật thiết với nhau: tính
tự giác là cơ sở để hình thành tính tích cực, tính tích cực đến
một mức độ nào đó làm nảy sinh tính độc lập. Như vậy, tính
độc lập chứa đựng trong nó tính tự giác và tính tích cực. Chúng
được hình thành và phát triển dưới sự chỉ đạo của giáo viên.
Đối với các phạm trù đạo đức môn GDCD ở bậc THCS,
những phạm trù đạo đức này rất gần gũi với các em hằng
ngày và được phát triển từ thấp đến cao dần theo hướng đồng
tâm của vòng xoắn trôn ốc. Vì vậy, để phát huy tính tích cực

của học sinh, người giáo viên phải biết khơi gợi, đánh thức và
định hướng cho các em ý thức tích cực, tự giác, độc lập suy
nghĩ, tìm tòi khám phá tri thức khoa học, để quá trình học tập


như là quá trình chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tích
cực chứ không phải là quá trình tiếp nhận thụ động từ giáo
viên.
Để thực hiện nguyên tắc này cần tuân thủ các biện pháp
sau:
Trong quá trình dạy học cần giáo dục cho các em ý thức
được đầy đủ mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó có động cơ,
thái độ học tập đúng đắn.
Trong quá trình dạy học, cần phối hợp các phương pháp,
nhằm phát huy tính tựgiác, tích cực của học sinh, đặt biệt là
phương pháp thảo luận nhóm với phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề…
Cần bồi dưỡng cho học sinh thói quen hoài nghi khoa
học, không lĩnh hội và không tin mù quáng vào những vấn đề
mà bản thân chưa hiểu, không làm bài tập khi chưa nắm chắc
những vấn đề lý thuyết.
Cần duy trì thường xuyên mối liên hệ ngược trong quá
trình dạy học. Nhờ đó giáo viên và bản thân học sinh có thể


điều chỉnh hoạt động nhận thức của mình nhằm làm cho tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo được lĩnh hội một cách vững chắc.
Một số yêu cầu thực hiện nguyên tắc đảm bảo tính thực
tiễn trong dạy học sử dụng PPTLN.
Để đạt được mục đích dạy học đảm bảo cho tiết học sử

dụng PPTLN thành công, những biện pháp để tiến hành
PPTLN cần đảm bảo yêu cầu sau: xác định mục tiêu, nội dung
bài học, tiết học, nên sử dụng PPTLN để chuyển tải những
đơn vị kiến thức lý luận nào đối với học sinh, những kiến thức
lý luận nào cần thực tiễn để chứng minh, cần sử dụng loại
thực tiễn nào là phù hợp khi dạy các phạm trù đạo đức môn
GDCD, như vậy bài giảng mới có sức sống, tính sinh động
phong phú của thực tiễn, phù hợp với nội dung chương trình
môn GDCD bậc THCS. Ngoài ra nguyên tắc này đòi hỏi phải
phù hợp với những điều kiện dạy của giáo viên và điều kiện
học của học sinh, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bịcủa trường THCS Trần Quốc Toản thành phố Tuy Hòa,
tỉnh Phú Yên.


- Một số biện pháp sử dụng PPTLN trong dạy học
các phạm trù đạo đức, môn GDCD ở trường THCS Trần
Quốc Toản thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
- Biện pháp chuẩn bị
Thứ nhất, hiểu rõ đối tượng tham gia thảo luận: việc
nghiên cứu đặc điểm của người học giúp giáo viên GDCD có
thể: xác định trình độ, khả năng tư duy của người học; đặc
điểm tâm sinh lý của các em; từ đó tính toán lựa chọn nội
dung thảo luận, lựa chọn cách chia nhóm cũng như thời gian
thảo luận cho phù hợp. Đối tượng học sinh khối 6,7, 8, 9 là
khác nhau nên việc quan sát và tìm hiểu đối tượng là rất cần
thiết cho tính phù hợp của nội dung thảo luận. Ngay trong
cùng một khối lớp, mức độ nhận thức của các lớp cũng ít
nhiều có sự khác biệt, vì thế, đây là điều giáo viên cũng không
nên bỏ qua.

Thứ hai, xác định đúng mục tiêu thảo luận: trước khi thiết
kế nội dung thảo luận giáo viên nhất định phải xác định rõ ràng
mục tiêu, vì mục tiêu định hướng cho lựa chọn nội dung tri thức
và chi phối phương pháp, cách thức tổ chức trong dạy học.
Trong quá trình thiết kế giáo án dạy học các phạm trù đạo đức


trong môn GDCD có sử dụng PPTLN, giáo viên trước tiên phải
xác định được sẽ sử dụng TLN nhằm mục đích gì, hướng tới
mục tiêu nào. Sử dụng TLN cho khởi động, khám phá tri thức
mới hay củng cố, mở rộng, luyện tập. Sau khi xác định rõ điều
đó, giáo viên bắt đầu xác định và thiết kế vấn đề thảo luận. Ở
đây là thiết kế tình huống hoặc câu hỏi được đưa ra thảo luận
trong tiết học.
Chẳng hạn: Với bài 9 Lịch sự, tế nhị trong chương trình
lớp 6, giáo viên có thể sử dụng TLN để đưa ra quan điểm đối
với các tình huống cụ thể nhằm mục đích giải thích, mở rộng,
củng cố thêm kiến thức. Giáo viên có thể đưa ra yêu cầu: Thảo
luận với các bạn trong nhóm và đưa ra cách giải quyết cho
những trường hợp sau để thể hiện mình là người lịch sự, tế
nhị “khách của bố mẹ đến nhà chơi”, “góp ý cho khuyết điểm
của người khác”, “có người hỏi thăm đường”, “không may bạn
làm rách sách”.
Thứ ba, lựa chọn nội dung thảo luận phù hợp: yếu tố
quan trọng nhất để đảm bảo buổi thảo luận đạt hiệu quả là
việc lựa chọn chủ đề hay nội dung. Để làm được điều đó, giáo
viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, từng đơn vị kiến
thức, đồng thời nắm chắc những yêu cầu của chuẩn kiến thức,



kỹ năng, thái độ cần đạt được trong mỗi tiết học các phạm trù
đạo đức trong môn GDCD.Không những thế, theo yêu cầu
mới, dạy học phải hướng tới hình thành năng lực và phẩm
chất, giáo viên GDCD cần đầu tư thời gian nghiên cứu mục
tiêu bài học theo hướng này. Khi mục tiêu bài học đã được xác
định rõ, nội dung bài học đã được nghiên cứu kỹ, giáo viên
mới bắt tay vào thiết kế giáo án. Vấn đề thảo luận trong dạy
học các phạm trù đạo đức, môn GDCD ở bậc THCS phải đáp
ứng những yêu cầu sau đây:
Một là, nội dung thảo luận phải phù hợp với mục tiêu
của bài học. Giáo viên xác định mục tiêu bài học dựa vào
chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ. Tương ứng với chuẩn đó,
nghiên cứu kỹ từng đơn vị kiến thức, giáo viên lựa chọn chủ
đề thảo luận. Chủ đề thảo luận nên tập trung vào vấn đề chính
của bài học. Chủ đề thảo luận cũng có thể bắt đầu từ các luận
điểm, các tình huống, câu chuyện, nhưng thường được cụ thể
hóa qua các câu hỏi chủ chốt. Việc lựa chọn và diễn đạt vấn
đề cần phù hợp, không quá đơn giản nhưng cũng không nên
quá khó đối với học sinh. Tốt nhất, lựa chọn được vấn đề thảo
luận hấp dẫn, dễ chia sẻ, dễ huy động được nhiều ý kiến khác
nhau, có tính chất kích thích tính tích cực, chủ động làm việc


của các em. Lưu ý, câu hỏi thảo luận nên là câu hỏi mở.
Chẳng hạn với bài 1 trong chương trình lớp 9 Chí công, vô tư,
để đạt được mục tiêu học sinh thể hiện được thái độ đồng tình
ủng hộ những việc làm chí công vô tư, phê phán những biểu
hiện thiếu chí công vô tư,giáo viên có thể đưa ra vấn đề thảo
luận nhóm theo gợi ý: Các em hãy chia sẻ quan điểm của
mình về suy nghĩ của bà Hoa trong tình huống sau: “Gia đình

bà Hoa có tranh chấp đất đai với hàng xóm, vấn đề được đưa
ra xã giải quyết, sau một thời gian làm việc, xã kết luận phần
đất tranh chấp đó là của gia đình hàng xóm. Bà Hoa rất khó
chịu và có ý trách móc ông An chủ tịch xã là em họ nhưng
không đứng ra giải quyết để phần đất ấy thuộc về nhà bà mặc
dù bà biết rõ đất đó là của hàng xóm”.
Hai là, phải vừa sức và tạo được sự hứng thú đối với
người học. Vừa sức là một tiêu chí rất cần thiết trong việc
thiết kế vấn đề thảo luận. Dưới ngưỡng nhận thức tức là vấn
đề quá dễ hoặc quá ngưỡng nhận thức tức là vấn đề quá khó
đề sẽ làm cho bài học không đạt được hiệu quả. Vì thế, giáo
viên phải hiểu rõ đối tượng để có những yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra phù hợp với giới hạn cao nhất trong vùng phát triển trí
tuệ gần nhất của học sinh. Chủ đề vượt quá sức còn làm mất


đi sự hứng thú với người học trong quá trình tham gia thảo
luận. Muốn học sinh hứng thú, giáo viên phải đầu tư thời gian
nghiên cứu để đưa ra vấn đề vừa gần gũi với đời sống đặc biệt
là gần với trải nghiệm thực tế của các em vừa bám sát vào nội
dung bài học. Thực tế, nhiều trường hợp giáo viên chưa chú ý
đi đến việc lựa chọn nội dung thảo luận, cứ chia nhóm, mỗi
nhóm một việc (thậm chí việc đơn giản là liệt kê những nội
dung đã thể hiện rõ trong bài học) đã được coi là thảo luận
nhóm. Thực tế, việc làm đó chưa phản ánh đúng bản chất
củaTLN. Giáo viênchỉ tiến hành dạy học bằng PPTLN đối với
những nhiệm vụ học tập tương đối phức tạp, cần huy động sức
mạnh tập thể hoặc những vấnđề có chắc chắn gây tranh cãi mà
giáo viên dự đoán được sẽ có những ý kiến, quan điểm khác
nhau.

Ba là, phải gắn liền với thực tiễn. Mặc dù nội dung kiến
thức trong GDCD là các phạm trù nhưng là các phạm trù đạo
đức nên gắn rất chặt chẽ với thực tiễn, biểu hiện cụ thể ở hành
vi, cách ứng xử của con người. Vì thế, vấn đề được đưa ra thảo
luận cần có tính thực tiễn. Thực tiễn ở đây có thể là thực tiễn
địa phương, thực tiễn nhà trường, lớp học, của bản thân, đó là
thực tiễn của cuộc sống xung quanh gần nhất với sự hiểu biết


của các em. Chẳng hạn, khi dạy bài 11 Tự tin, giáo viên có thể
chia nhóm cho học sinh tìm hiểu các biểu hiện của tự tin, thiếu
tự tin trong học tập, giao tiếp và các hoạt động khác. Vấn đề
mà giáo viên đặt ra cho các em thảo luận phải là cầu nối giữa
lý thuyết với thực tế, giữa kiến thức lý luận với thực tiễn cuộc
sống, tạo cho các em cơ hội thực hành để tìm kiếm và phân
tích vấn đề. Đặt học sinh vào vị trí phải đánh giá, phân tích,
phản biện với những quan điểm khác nhau để ra được quyết
định hành động đúng đắn. Để học sinh hiểu được mối quan hệ
giữa lao động tự giác và sáng tạo trong bài Lao động tự giác
và sáng tạo (lớp 8), giáo viên có thể yêu cầu các nhóm thảo
luận về quan điểm sau: “Có người chorằng: trong lao động
người ta chỉ cần ý thức tự giác, không cần phải sáng tạo. Em
có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?” Với việc dạy học các
phạm trù đạo đức trong môn GDCD, sử dụng tình huống giả
định là vô cùng cần thiết choTLN. Có thể nói, TLN về một
tình huống giả định là một ưu thế củadạy học các phạm trù đạo
đức trong môn GDCD. Đạt được tính thực tiễn sẽ giúp cho học
sinh không những hiểu bài mà còn bày tỏ được quan điểm,
cách suy nghĩ, cách ứng xử của mình trong từng trường hợp cụ
thể gắn với những tình huống giả định. Từ đó, các em có thể



vận dụng những gì đã học vào thực tiễn cuộc sống hướng tới
năng lực thực hiện các hành vi theo chuẩn mực đạo đức.
Thứ tư, xác định thời gian thảo luận hợp lý. Trong một
tiết học, giáo viên phải giải quyết nhiều vấn đề với nhiều nội
dung, vì thế, khi chuẩn bị giáo án, giáo viên phải xác định
thời gian cụ thể cho từng hoạt động trong đó có TLN. Tùy vào
từng đơn vị kiến thức, từng mục tiêu mà giáo viên tính toán
thời gian dài, ngắn khác nhau. Giáo viên nên cân nhắc thời
lượng vừa đủ cho: cá nhân tìm hiểu, trao đổi và thống nhất ý
kiến trong nhóm; thuyết trình; phản hồi từ phía lớp; đánh giá
và kết luận của giáo viên. Trong một tiết học không nên tiến
hành quá nhiều hoạt động nhóm, trong trường hợp thực sự
cần thiết chúng ta chỉ nên tối đa sử dụng 2 lần TLN.
Thứ năm, xác định hình thức thảo luận phù hợp: là một
yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho chất lượng và sự thành
công của quá trình thảo luận. Nếu giáo viên lựa chọn được
hình thức TLN phù hợp (nhóm nhỏ thông thường, nhóm rì
rầm, nhóm kim tự tháp…. ) sẽ góp phần củng cố, định hướng
và phát triển tư duy của các em ở cả: kiến thức, kỹ năng (thực
hành và ứng dụng), thái độ và tinh thần trách nhiệm trong


thưc hiện nhiệm vụ chung. Do đó, khi lựa chọn hình thức
TLN giáo viên nên xem xét các yếu tố sau: đối tượng người
học (đặc điểm tâm sinh lý, kiến thức, kinh nghiệm học tập);
mục tiêu cần đạt; nội dung thảo luận; cơ sở vật chất…..
Thứ sáu, chuẩn bị trang thiết bị cần thiết: một tiết học
có sử dụng PPTLN, giáo viên cần tính toán những trang thiết

bị hỗ trợ cần thiết cho bản thân mình để đưa được vấn đề thảo
luận đến với học sinh, thiết bị hỗ trợ đầu ra có thể là: máy
tính, máy chiếu, loa, đài…tư liệu chuẩn bị có chứa nội dung
thảo luận có thể là: bài hát, đoạn phim, bức tranh, clip….;
thiết bị cần thiết cho học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ TLN, có thể là: bút các loại, giấy khổ, băng dính, nam
châm,… Chuẩn bị, tính toán từng chi tiết nhỏ nhất sẽ giúp
giáo viên có được giờ giảng tốt nhất với sự hứng thú, nhiệt
tình từ phía học sinh.
- Biện pháp tổ chức thực hiện
Thứ nhất, thực hiện theo tiến trình hợp lý
Bước 1.Giao nhiệm vụ, chia nhóm và lậpkế hoạch tổ
chức thảo luận. Ở bước này, trước hết GV nêu vấn đề cần thảo
luận; quy định thời gian, phân công vị trí thảo luận cho các


nhóm; giao phương tiện, công cụ. Ở bước này, giáo viên cần
nêu rõ yêu cầu của vấn đề thảo luận. Việc làm này giúp GV và
cả lớp học dễ dàng định hướng và kiểm soát được tiến trình
thảo luận mà không bị rối. Giao nhiệm vụ thảo luận có thể
được tiến hành ở tiết học trước với những nội dung có yêu cầu
tìm hiểu nhiều nội dung thông tin với những quan điểm trái
chiều để học sinh có thời gian chuẩn bị.
Bước 2.Tổ chức điều hành và dẫn dắt thảo luận.Tổ chức
điều hành và dẫn dắt thảo luận là bước vô cùng quan trọng. Ở
bước này, giáo viênphải thể hiện được vai trò tổ chức của
mình. Muốn thảo luận thành công giáo viên phải có khả năng
bao quát lớp,luôn quan sát, theo dõi và sẵn sàng hỗ trợ nhóm
thảo luận khi cần thiết đồng thờiđảm bảo tất cả các thành viên
trong nhóm đều tham gia tích cực. Tuy nhiên, để đảm bảo tính

tích cực, chủ động sáng tạo của học trògiáo viênkhông can
thiệp sâu vào quá trình làm việc của nhóm. Chỉ hỗ trợ khi
nhóm nào đó cần có sự trợ giúp, tránh trường hợp giáo viên
khoán cho học sinh. Năng lực của các thành viên trong nhóm
là khác nhau, vì thế, bên cạnh những thành viên tích cực, chủ
động sẽ có những học sinh thụ động không tham gia.Lúc này
giáo viêncần khéo léo động viên khuyến khích các em thậm


chí yêu cầu đích danh những học sinh đó tham gia trả lời các
câu hỏi mà giáo viên yêu cầu.Trong quá trình thảo luận, nhóm
có thể đi chệch hướng, lúc này giáo viên sử dụng câu hỏi đã
chuẩn bị trước để định hướng cho các em.
Bước 3. Trình bày kết quả thảo luận của các nhóm.Sau
khi các nhóm đã thực hiện xong phần thảo luận, giáo viênyêu
cầu các nhóm lên trình bày kết quả trong thời gian xác định.
Các nhóm còn lại lắng nghe, tranh luận, phản biện để làm
sáng tỏ vấn đề được đặt ra. Giáo viên có thể phân công đích
danh nhóm phản biện nếu thấy cần thiết. Trong khi các nhóm
trình bày, tranh luận, giáo viêncó thể tham gia ý kiến với
những điều chưa thống nhất và bổ sung thêm những ý kiến
cần thiết để buổi thảo luận đi đúng vấn đề cần tìm hiểu. Các
nhóm có thể trình bày kết quả thảo luận theo các cách sau:
một nhóm báo cáo, các nhóm khác bổ sung; hoặc các nhóm
lần lượt báo cáo tùy theo vấn đề, nhiệm vụ mà giáo viên đặt
ra.
Bước 4.Giáo viênnhận xét, đánh giá và kết luận về kiến
thức. Nhận xét, đánh giá và chốt lại vấn đề làphần việc rất
quan trọng của giáo viên. Ở phần việc này,giáo viêndùng
phương pháp thuyết trình, với cách trình bày logic, rõ ràng để



nhận xét, đánh giá, kết luận từng vấn đề, xâu chuỗi các vấn đề
với nhau trong mạch logic của bài học để chốt lại nội dung
chính cần ghi nhớ. Đồng thời giáo viêncũng cần nhận xét về
tinh thần, thái độ của các nhóm, rút kinh nghiệm các buổi học
tiếp theo. Mục đích của đánh giá,nhận xét nhằm giúp các em
có thái độ làm việc tích cực, chủ động và tự tin hơn.
Thứ hai, kết hợp TLN với phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp dạy họcnêu vấn đề là phương pháp trong
đó giáo viênđặt người học vào một hay một hệ thống vấn đề
nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề sau đó
giáo viênphối hợp với học sinh giải quyết để đi đến những kết
luận gắn với nội dung bài học.
Trong TLN, giáo viên thường đưa ra các tình huống có
vấn đề cần giải quyết nhằm phát huy tinh thần và sức mạnh
của tập thể để tập hợp được những cách giải quyết tốt nhất
trong thời gian ngắn nhất. Với vấn đề ấy, mỗi thành viên trong
nhóm có thể có cách tiếp cận, cách nhìn khác nhau, việc thảo
luận, trao đổi, thậm chí tranh luận sẽ diễn ra, từ đó, vấn đề
đưa ra sẽ được giải quyết thấu đáo hơn. Để kết hợp được
phương pháp dạy họcnêu vấn đề với TLN trong dạy học các


phạm trù đạo đức trong môn GDCD giáo viên cần xây dựng
được các tình huống có vấn đề. Đây là khâu có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả giải quyết vấn đề của các em. Tình huống
có vấn đề nhất định phải chứa đựng mâu thuẫn cần giải quyết,
mâu thuẫn này sẽ kích thích quá trình tư duy, tìm tòi, khám
phá của học sinh. Không những thế, tình huống có vấn đề

phải lí thú, hấp dẫn, có lôi cuốn. Điều này rất cần thiết và nó
càng cần thiết hơn với đối tượng là học sinhTHCS. Những
tình huống này vừa gắn chặt với mục đích và nội dung bài
học, vừa mang tính thực tiễn cao, gần gũi với cuộc sống.
Ngoài ra, tính vừa sức cũng là một vấn đề giáo viên cần quan
tâm. Tình huống có vấn đề được đưa đến có thể ở ngay phần
khởi động hoặc trong khám phá nội dung bài học hay mở
rộng, củng cố, tùy vào sự lựa chọn của giáo viên. Tình huống
có vấn đề được đặt ra ở đầu bài học sẽ có vai trò định hướng
sự chú ýcủa học sinh, tạo ra sự hứng thú, kích thích mong
muốn tìm tòi khám phá, giúp cho học sinh ý thức được nhiệm
vụ lĩnh hội tri thức, tạo ra cơ sở ban đầu, kích thích sự hứng
thú cho người học, đồng thời qua tình huống các em thấy
được mâu thuẫn trong nhận thức của mình, phát hiện, nhận
dạng vấn đề nảy sinh.


Thứ ba, kết hợp TLN với phương pháp trực quan
Giáo viên có thể kết hợp TLN vớiphương pháp dạy học
trực quan.Trực quan là phương pháp dạy họctrong đó giáo
viênsử dụng các đồ dùng, các phương tiện dạy học nhằm tăng
hiệu quả của giờ học. Đồ dùng trực quan có thể dùng để minh
họa, làm cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Khi dạy các
phạm trù đạo đức trong môn GDCD, giáo viên có thể dùng:
tranh, ảnh, video... gắn với nội dung bài học hoặc chứa đựng
mâu thuẫn để học sinh thảo luận.... Để giờ TLNtrong dạy học
các phạm trù đạo đức có sử dụng phương tiện dạy học thành
công, giáo viêncần chuẩn bị chu đáo. Trước hết, phòng học
được lắp đặt phương tiện dạy học hợp lí để học sinh có thể
quan sát rõ ràng và thuận lợi nhất. Giáo viêncần kiểm tra lại

đồ dùng trực quan, phương tiện trực quan để đảm bảo cho
phương tiện hoạt động tốt. Khi có sự kết hợp giữa PPTLN với
phương pháp trực quan trong dạy học các phạm trù đạo đức
môn GDCD, giáo viên cần cân nhắc về việc lựa chọn và sử
dụng phương tiện trực quan cho hợp lý, không phải bất cứ nội
dung, đơn vị kiến thức nào cũng sử dụng được phương tiện
trực quan. Chỉ khi phương tiện dạy học được sử dụng đúng


lúc, đúng chỗ, khoa học và hợp lí nó mới phát huy được hiệu
quả.
Biện pháp kiểm tra, đánh giá
Hoạt động dạy học sẽ không thể đầy đủ và hoàn thiện
nếu không có kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra để đánh giá mức độ
đạt được của học sinh đối với mục tiêu mà giáo viên đã đặt ra.
Vì thế, để có cơ sở vững chắc, rõ ràng cho việc kiểm tra, đánh
giá, giáo viên nhất định phải đặt mục tiêu bài học rõ ràng,
định lượng cụ thể, tránh mục tiêu chung chung, khó đo lường.
Mục tiêu được viết theo định hướng phát triển năng lực, dạy
học theo định hướng phát triển năng lực và kiểm tra, đánh giá
cũng vậy.
Xuất phát từ đặc thù của PPTLN và năng lực mà PPTLN
hướng tới trong việc dạy học các phạm trù đạo đức trong môn
GDCD, việc đánh giá kết quả học tập của người học có thể
được thực hiện theo 2 cách: đánh giá của giáo viênđối với học
sinh và đánh giá của học sinh đối với học sinh.
Cơ sở đánh giá việc tham gia TLN của học sinh cần đảm
bảo tính công bằng, bình đẳng, liên tục trong suốt quá trình
học tập. Khi đánh giá giáo viên cần lưu ý: ngoài đánh giá



×