Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

NHỮNG NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học PHẦN CÔNG dân với đạo đức môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 10 ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG CHUYÊN LƯƠNG văn CHÁNH, THÀNH PHỐ TUY hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.21 KB, 62 trang )

NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN
PHÁP SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY
HỌC PHẦN CÔNG DÂN VỚI ĐẠO
ĐỨC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG CHUYÊN LƯƠNG
VĂN CHÁNH, THÀNH PHỐ TUY
HÒA, TỈNH PHÚ YÊN


- Những nguyên tắc sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT chuyên Lương
Văn Chánh, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Để sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học, GV
cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định phù hợp
với mỗi môn học, phần học. Nguyên tắc không phải là sản
phẩm tư duy thuần túy, ý chí chủ quan của con người mà được
rút ra từ sự vật khách quan. Nguyên tắc dạy học xuất phát từ
những đặc điểm khách quan của tri thức môn học và xuất phát
từ đối tượng người học. Do đó, khi sử dụng các phương pháp
dạy học nói chung và PPTLN nói riêng để dạy học phần
“Công dân với đạo đức”, người giáo viên cũng cần phải tuân
thủ theo các nguyên tắc. Nó có tác dụng định hướng, chỉ đạo
tất cả các bước, các giai đoạn, các khâu, chi phối toàn bộ hoạt
động tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của GV trong quá trình
thực hiện thảo luận, để quá trình thảo luận đạt hiệu quả cao,
thực hiện được mục tiêu của phần học.
Nguyên tắc sử dụng PPTLN để dạy học phần “Công dân
với đạo đức” còn là căn cứ để đưa ra những biện pháp thực


hiện thảo luận nhóm một cách hiệu quả, bên cạnh việc căn cứ


vào cơ sở lý luận và thực tiễn mà tác giả đã trình bày trong
luận văn ở phần trên. Những nguyên tắc sử dụng PPTLN
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” là nguyên tắc
đảm bảo mục tiêu của môn học, nguyên tắc đảm bảo tính thực
tiễn, nguyên tắc tính vừa sức và nguyên tắc phát huy tính tự
giác, tích cực, chủ động của người học với vai trò chủ đạo của
người thầy trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu môn học
Mục tiêu được hiểu là cái điểm, cái ý định, cái mẫu để
nhằm vào. Muốn học sinh sau khi kết thúc môn học, phần học
hoàn thành được nhiệm vụ, công việc được giao, thì GV cần
phải xây dựng được mục tiêu dạy học chính xác và triển khai
việc dạy học theo những mục tiêu này. Mục tiêu dạy học sẽ
quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học.
Mục tiêu dạy học là cái đích mà GV và HS cần hướng
tới. Ngạn ngữ có câu: "Nếu không biết mình định đi tới đâu,
làm sao biết được mình đã đi đến đích". Mục tiêu dạy học
quyết định việc học tập của học sinh.Vì căn cứ vào mục tiêu
học tập, học sinh có thể biết mình phải học những gì để có đủ
khả năng thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ, công việc


gì sau khi học, lựa chọn được phương pháp học tập thích hợp,
chủ động tổ chức việc học tập phù hợp với điều kiện học tập
và những đặc điểm tâm, sinh lý của bản thân. Tự đánh giá
được kết quả học tập của mình khi so sánh với mục tiêu. Từ
đó tự điều chỉnh việc học tập cho phù hợp để sớm đạt được

mục tiêu.
Mục tiêu dạy học quyết định việc giảng dạy của giáo
viên. Căn cứ vào mục tiêu, giáo viên có thể xác định chính
xác những gì cần phải dạy và dạy đến mức độ nào, lựa chọn
và thực hiện được những phương pháp dạy học phù hợp để
học sinh học tập có kết quả nhất; đánh giá được kết quả học
tập của HS một cách khách quan, chính xác, từ đó giúp các
em học tập một cách hiệu quả; tự đánh giá được năng lực và
kết quả giảng dạy của mình để cải tiến phương pháp dạy học,
tự hoàn thiện năng lực của mình.
Như vậy, chúng ta thấy mục tiêu dạy học rất quan trọng:
giúp cho giáo viên thiết kế nội dung, phương pháp giảng dạy,
phương pháp đánh giá học sinh, giúp cho học sinh biết mình
cần học cái gì, chủ động lập kế hoạch học tập và tự đánh giá
kết quả học tập.


Người giáo viên phải biết được mục tiêu dạy học sau khi
phân tích các nhiệm vụ học tập và trước khi thiết kế quá trình
dạy học. Mục tiêu là thành tố rất quan trọng của quá trình dạy
học. Trong dạy học, nếu không có mục tiêu xác định, sẽ
không có bất kì cơ sở nào để lựa chọn nội dung giảng dạy,
phương pháp giảng dạy và càng không thể đánh giá được hiệu
quả, giá trị của một bài giảng, một khóa giảng hay cả một
chương trình. Một mục tiêu được xác định rõ giúp GV suy
nghĩ sâu sắc và chín chắn trong việc lựa chọn và sắp xếp nội
dung giờ dạy, tìm phương pháp truyền đạt tới học sinh để giờ
dạy có kết quả tốt nhất. Các mục tiêu được xác định là cái
mốc để GV đánh giá được sự tiến bộ của HS đến mức nào
theo chiều hướng đã định.

Như vậy, việc xác định mục tiêu trước khi xây dựng nội
dung bài giảng sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một hệ mục
tiêu được đặt ra đầy đủ cả về mặt nhận thức, kĩ năng và thái
độ sẽ hướng toàn bộ quá trình dạy học đạt tới một hiệu quả
dạy học tốt nhất. Đó là hỗ trợ người giáo viên xác định hình
thức tổ chức dạy học, chọn các hình thức dạy học phù hợp,
lựa chọn các công cụ kiểm tra, đánh giá tốt nhất. Do đó, khi
sử dụng PPTLN để dạy học phần “Công dân với đạo đức”,


giáo viên cần phải đảm bảo mục tiêu môn học, vì đó là cái mà
cả GV và HS cần đạt được sau khi học xong phần học này.
Thông qua chức năng, nhiệm vụ, nội dung của GDCD,
mục tiêu dạy học phần “Công dân với đạo đức” gồm 3 mức
độ về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Trong đó mức độ kiến
thức và kĩ năng là những yêu cầu cơ bản, tối thiểu của phần
học mà HS cần phải và có thể đạt được sau khi hoàn thành nội
dung của phần học. Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức”, giáo viên cần phải bám sát
thực hiện mục tiêu của phần học.
Trong môn GDCD ở bậc THPT thì nội dung phần “Công
dân với đạo đức” là một trong những nội dung rất quan trọng
trong việc giáo dục HS phát triển toàn diện bao gồm đức, trí,
thể, mĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “dạy cũng như học
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách
mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo đức
cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [15; 14]. Đó là nhiệm vụ
giảng dạy của tất cả các môn học song nội dung phần “Công
dân với đạo đức” lại có nhiều ưu thế hơn trong việc thực hiện
nhiệm vụ này. Để đạt được mục tiêu của phần học “Công dân

với đạo đức” (tác giả đã trình bày mục tiêu của phần học ở


trong chương 1) thì trong quá trình sử PPTLN, giáo viên cần
phải bám sát mục tiêu của phần học, trên cơ sở đó, triển khai
các bước thực hiện giảng dạy phù hợp.
Nội dung của mỗi bài học đều có những mục tiêu riêng,
cụ thể, rõ ràng về kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh
sau khi học xong từng bài. Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong
dạy học, GV không những phải đảm mục tiêu chung của phần
học mà còn phải đảm bảo mục tiêu riêng, cụ thể của mỗi bài
học, thậm chí còn phải đảm bảo mục tiêu của từng mục nhỏ
trong từng bài học về các mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Từ việc nắm vững các mục tiêu chung, mục tiêu riêng, cụ thể
của mỗi phần học và từng bài học mà giáo viên mới có thể
xây dựng cách thức, tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá
trình thảo luận một cách hiệu quả, biết mình cần phải làm gì
khi tổ chức, điều khiển thảo luận.
Căn cứ vào mục tiêu của phần “Công dân với đạo đức”
nên nội dung phần học này được cấu trúc thành 7 bài (từ bài
10 đến bài 16) và được dạy trong 11 tiết lý thuyết (chưa tính
các giờ thực hành và hoạt động ngoại khóa). Dựa trên mục
tiêu cụ thể của mỗi bài học trong phần học này mà GV có thể
xác định được nội dụng kiến thức cơ bản để xây dựng, thiết


kế và tổ chức hoạt động giảng dạy bằng phương pháp thảo
luận nhóm một cách hiệu quả.
Dựa vào mục tiêu của phần “Công dân với đạo đức”
giáo viên mới có thể xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức

và thiết kế bài giảng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
khoa học, hợp lý, đảm bảo tính vừa sức và phát triển được
những phẩm chất và năng lực của học sinh.
Trong quá trình tổ chức thảo luận nhóm, giáo viên phải
hướng dẫn học sinh thảo luận sao cho đảm bảo được mục tiêu
của bài học và phần học về cả 3 mặt kiến thức, kĩ năng và thái
độ. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu giáo viên nắm vững
mục tiêu của từng bài học và mục tiêu của phần học. Khi đó
quá trình thảo luận của học sinh không phải là thảo luận để
học mọi loại mục tiêu, càng không phải là thảo luận khi mục
tiêu chưa được xác định rõ ràng.
Một trong những yêu cầu quan trọng của việc vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực là phải bám sát theo đúng
chuẩn kiến thức, kĩ năng và thái độ của môn học, tức là phải
bám sát thực hiện theo đúng mục tiêu của môn học. Từ mục
tiêu của môn học, phần học, giáo viên mới xác định được yêu
cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà học sinh cần đạt được
sau khi học xong môn học, phần học. Từ đó, giáo viên mới có


thể vận dụng một cách linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp dạy học. Tương ứng với nội dung của mỗi bài
học, nội dung từng mục trong mỗi bài học mà giáo viên sẽ
phải sử dụng phương pháp thảo luận nhóm như thế nào cho
phù hợp, để quá trình thảo luận nhóm mang lại kết quả.
Mục đích chính của việc đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay là chuyển từ việc cung cấp tri thức sang hình thành
và phát triển những phẩm chất và năng lực của người học.
Mục tiêu nội dung phần “Công dân với đạo đức” được mô tả
rất chi tiết, cụ thể. Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong dạy học

phần này, GV phải tuân thủ thực hiện nguyên tắc đảm bảo
mục tiêu của môn học. Có như vậy thì những phẩm chất và
năng lực mới được hình thành và phát triển ở bản thân các em
học sinh.
Để đảm bảo mục tiêu của phần “Công dân với đạo đức”
khi giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, thì trước
đó giáo viên phải căn cứ vào nội dung của phần học và phải
xác định cho được đâu là kiến thức cơ bản, đâu là kiến thức
trọng tâm của mỗi bài học, phần học. Trên cơ sở đó, mới tiến
hành thảo luận nhóm một cách hiệu quả. Vì vậy, không phải
bất kì nội dung nào của phần học, bài học giáo viên cũng sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm. Giáo viên chỉ tổ chức cho


học sinh thảo luận những nội dung cơ bản, thiết thực, những
kiến thức trọng tâm thì mới đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu
của phần học và đảm bảo được thời gian của tiết học.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, phương pháp dạy học học bằng thảo luận
nhóm, hoạt động nhóm được nhiều giáo viên sử dụng. Mặc dù
sử dụng phương pháp này để dạy môn học, phần học nào đi
chăng nữa thì giáo viên cũng cần phải nắm vững và đảm bảo
mục tiêu của môn học. Tránh việc lạm dụng và áp dụng một
cách vô điều kiện phương pháp này vào dạy học như thảo
luận để học mọi loại mục tiêu hoặc thảo luận khi mục tiêu
chưa xác định rõ ràng.
- Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Tức là khi sử dụng PPTLN trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” giáo viên phải bám sát thực tiễn.
Tính thực tiễn trong hoạt động dạy học gắn liền với

nguyên lí về sự thống nhất giữa lí luận với thực tiễn của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, đóng vai trò quan trọng quyết định đến
sự thành công của quá trình dạy học. Triết học Mác – Lênin
cho rằng, lý luận được rút ra từ thực tiễn và nó quay trở lại chỉ
đạo thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận cho hoạt động thực tiễn.


Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức của con
người, nó là nguồn gốc, là cơ sở, là động lực, là mục đích của
nhận thức. Đồng thời, thực tiễn còn là thước đo, là tiêu chuẩn
của chân lí, là cái để đánh giá tính đúng đắn hay sai lầm của
tri thức lí luận. Lênin cho rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức
vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của cả
tính hiện thực trực tiếp” [15; 18]. Các Mác viết: “Vấn đề tìm
hiểu xem tư duy của con người có đạt tới chân lí khách quan
hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lí luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lí” [15; 18]. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng,
lí luận mà không có thực tiễn là lí luận suông” [35; 496].
Khi sử dụng PPTLN trong dạy học phần “Công dân với
đạo đức”, giáo viên cần phải dựa trên thực tiễn dạy học môn
GDCD ở bậc THPT nói chung và tính đặc thù của phần học
nói riêng. Giáo viên phải căn cứ vào đối tượng HS và những
điều kiện thực tế của nhà trường để thiết kế bài dạy phù hợp.
Quá trình dạy học là sự tương tác giữa GV và HS, nên giáo
viên phải hiểu rõ đối tượng dạy học của mình về trình độ, tâm
lí, nhu cầu nhận thức về môn học. Mặt khác, giáo viên cũng
phải căn cứ vào điều kiện học tập thiết yếu của học sinh, điều



kiện thực tế của nhà trường đáp ứng cho quá trình dạy học, để
từ đó GV có thể lựa chọn những nội dung phù hợp với các
hoạt động thảo luận, đảm bảo tính vừa sức trong dạy học.
Nội dung của phần học “Công dân với đạo đức” gồm có
7 bài với nhiều đơn vị kiến thức có đặc điểm hoàn toàn khác
khác nhau. Những đơn vị kiến thức này rất phong phú, đa
dạng, muôn màu, muôn vẻ, có nội dung phù hợp với phương
pháp xử lí tình huống, có nội dung thì phù hợp với phương
pháp thuyết trình, có nội dung thì phù hợp phương pháp đóng
vai hoặc có nội dung phải kết hợp nhiều phương pháp và các
kĩ thuât dạy học khác thì mới phù hợp…Do đó không phải tất
cả nội dung kiến thức của phần học đều phù hợp với hoạt
động thảo luận nhóm và chỉ có sử dụng phương pháp này mới
có hiệu quả. Vì vậy, GV cần phải dựa vào thực tiễn đặc thù
kiến thức của từng nội dung, từng mục, từng bài học cụ thể để
tiến hành thảo luận nhóm cho phù hợp.
Những tri thức của môn Giáo dục công dân nói chung và
phần “Công dân với đạo đức” luôn gắn chặt với tình hình thực
tế của đời sống xã hội, rất phong phú và đa dạng. Do đó, khi
tiến hành hoạt động thảo luận nhóm đòi hỏi GV phải nắm
vững nội dung của bài dạy, những kiến thức lý luận nào cần
phải sử dụng thực tiễn để chứng minh, sử dụng loại thực tiễn


nào cho phù hợp với đối tượng HS. Do đó, đảm bảo tính thực
tiễn trong thảo luận cũng đồng thời đảm bảo tính vừa sức
trong học tập. Hơn nữa, trong quá trình thảo luận nhóm, GV
cần phải tổ chức, hướng dẫn và điều khiển thảo luận sao cho
nội dung đưa ra thảo luận phải gắn liền với thực tiễn. Giáo

viên có thể đưa ra các câu chuyện, mẫu chuyện, các tình
huống thực tế, các vấn đề thời sự nóng bỏng xảy ra trong xã
hội để học sinh thảo luận, bàn bạc, trao đổi, phân tích, so sánh
nhằm mục đích minh họa cho bài dạy. Đồng thời, giáo viên
cần khuyến khích học sinh phát huy tính tích cực, tự lực của
mình để tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, bình luận các sự kiện
xảy ra trong thực tiễn cuộc sống.
Giáo viên cần phải cập nhật những kiến thức đang học
với cuộc sống hiện thực, làm cho bài giảng của mình mang
“hơi thở” của thời đại, giúp người học thấy được ý nghĩa thực
tiễn của các vấn đề lý luận, được học, giải quyết một cách
thấu đáo độ “chênh” giữa tri thức lí luận với thực tiễn cuộc
sống. Làm cho người học thêm hứng thú và thấy được những
giá trị thực tiễn của những kiến thức mà mình được học. Bên
cạnh đó, GV cần phải nắm vững kiến thức lí luận để xử lí
những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.


Khi sử dụng PPTLN trong dạy học phần “Công dân với
đạo đức”, giáo viên cần phải xác định chính xác mục tiêu, giá
trị thực tiễn nội dung dạy học. Trên cơ sở đó để thiết kế các
bài tập, xây dựng các chủ đề thảo luận có tính thực tiễn cao
phù hợp với đặc điểm nhận thức và điều kiện thực tế của học
sinh, nhằm phát triển tư duy của người học, khai thác được
vốn kinh nghiệm sống của học sinh để giải quyết các nhiệm
vụ học tập.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức
Tính vừa sức trong dạy học là quá trình dạy học phù hợp
với đặc điểm tâm lí, trình độ nhận thức của học sinh về hai
mặt khối lượng, mức độ kiến thức và khả năng tiếp nhận tri

thức của HS.
Trong thực tế giảng dạy môn học, giáo viên có thể gặp
hai loại không vừa sức: hoặc là những vấn đề quá mới, quá
phức tạp, học sinh không nhận thức nổi; hoặc là những vấn đề
quá đơn giản, sơ sài dưới ngưỡng nhận thức của HS. Cho nên
tính vừa sức trong dạy học đòi hỏi phải đảm bảo phát huy hết
khả năng vốn có và sự sáng tạo của người học.
Tri thức của môn học, phần học rất trừu tượng, phong
phú và phức tạp, luôn xuất hiện những vấn đề mới nảy sinh từ


thực tiễn, nếu giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận những vấn
đề rất mới, rất phức tạp đó và đòi hỏi một cường độ thảo luận
quá cao, quá ngưỡng nhận thức thì học sinh sẽ gặp khó và do
đó quá trình thảo luận sẽ không đạt được hiệu quả. Do đó,
đảm bảo tính vừa sức cũng đồng thời thực hiện nguyên tắc
đảm bảo mục tiêu môn học, đảm bảo tính thực tiễn trong
giảng dạy phần “Công dân với đạo đức” bằng PPTLN. Vì vậy
khi sử dụng PPTLN để dạy học phần “Công dân với đạo
đức”, đòi hỏi giáo viên phải đảm tính vừa sức.
Để đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức khi sử dụng PPTLN
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”, giáo viên cần
phải tuân thủ và thực hiện những yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần nắm vững đặc điểm của học sinh lớp 10 ở
trường THPT chuyên Lương Văn Chánh. Giáo viên cần nắm
vững trình độ nhận thức và đặc điểm tâm lí của học sinh.
Đồng thời, phải tìm hiểu điều kiện sinh hoạt, những phong tục
tập quán, truyền thống của địa phương nơi HS sống. Khi đã
nắm vững đối tượng người học, giáo viên mới chủ động xây
dựng những vấn đề, chủ đề, đồng thời điều chỉnh nội dung

thảo luận cũng như phương pháp dạy học cho phù hợp.
Thứ hai, trong quá trình thảo luận, giáo viên phải dẫn dắt
học sinh đi từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến


phức tạp, từ những tình huống quen thuộc, gần gũi với HS
đến những tình huống mới vừa phát sinh trong cuộc sống
hàng ngày. Quá trình nhận thức phải đi từ trực quan sinh động
với 3 cấp độ: cảm giác, tri giác và biểu tượng rồi mới đến giai
đoạn cao của quá trình nhận thức là tư duy trừu tượng với 3
cấp độ: khái niệm, phán đoán, suy luận. Có như vậy thì những
tri thức đưa ra thảo luận mới phù hợp với khả năng tiếp nhận
tri thức của người học.
Thứ ba, không nên thảo luận những vấn đề quá mới
trong khi các em chưa có một chút kiến thức nào về vấn đề đó
cả.
Thứ tư, trong quá trình thảo luận, GV cần phải quan tâm
đến trường hợp cá biệt. Vì đảm bảo tính vừa sức là đảm bảo
tính vừa sức chung và vừa sức riêng nhằm phát huy tối đa trí
tuệ của HS. Đối với những học sinh có học lực yếu, kém, giáo
viên cần quan tâm đúng mức, từng bước phát huy tư duy độc
lập, nâng cao trình độ cho họ, giúp họ vươn lên tiến kịp
những bạn trong lớp. Còn đối với những học sinh có học lực
khá, giỏi hơn, giáo viên cần phát huy hơn nữa năng lực tư duy
sáng tạo của họ, đồng thời tạo mọi điều kiện cho họ có những
ảnh hưởng tích cực đến lớp.


- Nguyên tắc đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa tính tích
cực, tự giác, chủ động của người học với vai trò chủ đạo

của người dạy
Mối quan hệ giữa người “dạy” và người “học”, giữa hoạt
động dạy với hoạt động học, giữa giáo viên và học sinh là mối
quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Mối quan hệ này là quy luật chung, cơ bản nhất, là quy luật
chi phối toàn bộ mối quan hệ giữa hoạt động dạy của GV và
hoạt động học của HS trong quá trình dạy học.
Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học.
Hai hoạt động này tương tác, hỗ trợ, bổ sung cho nhau và hoạt
động song hành với nhau. Tính tích cực của quá trình dạy học
không chỉ liên quan đến những hoạt động tích cực của người
thầy mà còn liên quan đến sự cố gắng, tính tích cực, chủ động
và tự giác tham gia của trò. Tính tích cực, chủ động và sự tự
giác của người học phụ thuộc rất nhiều vào tính cực của
phương pháp giảng dạy của người thầy. “Việc dạy học chỉ có
hiệu quả và chất lượng cao khi có sự cộng tác chặt chẽ, hợp lí
giữa thầy và trò, trong đó thầy giữ vai trò chủ đạo, trò giữ vai
trò tích cực, tự lực làm sao để quá trình dạy học là sự hoạt
động tương đồng và phối hợp thống nhất của cả thầy và trò


về mặt trí tuệ và thực hành một cách mãnh liệt và lôi cuốn”
[15; 22-23]. Vì vậy, khi sử dụng PPTLN trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức”, giáo viên phải quán triệt và thực
hiện đúng những yêu cầu của quy luật này để quá trình dạy
học mang lại hiệu quả.
Như vậy, khi dạy học phần “Công dân với đạo đức”
bằng PPTLN, vai trò của người thầy ở trên lớp là rất quan
trọng. Người thầy là người hiểu và nắm vững được các yêu
cầu, tổ chức hoạt động giảng dạy, là người mở ra con đường

để đi tới chân lí, là người có khả năng truyền thụ tri trức,
truyền cảm hứng cho HS, là người luôn tạo được động cơ,
thái độ và sự hứng khởi học tập, là người biết kích thích sự tự
tin, sự tự giác, tính tích cực, tự lực của người học trong quá
trình dạy học. Ngoài ra, người thầy còn là nhà tâm lí, tạo cho
học sinh niềm tin, sự hứng khởi trong học tập, giúp cho người
học không có cảm giác sợ hãi, chán nản, không an toàn trong
học tập và vì vậy sẽ không dẫn đến những hành vi tiêu cực ở
các em. Công việc học tập của HS sẽ trở nên “dễ dàng nhất,
có ý nghĩa nhất và hiệu quả nhất khi diễn ra trong một tình
huống không bị đe dọa. Người học cần được động viên bởi
những mong muốn thành công, khám phá, phát triển và nâng
cao trình độ chứ không phải nỗi lo sợ bị thất bại” [15; 24].


Vai trò của người GV trong quá trình dạy học là rất lớn.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta lại không đề cập
đến vai trò của HS. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy
học hầu hết các phương pháp dạy học tích cực đều hướng tới
việc tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, tăng
cường sự tham gia của HS vào khám phá tri thức nhằm mục
đích giúp HS có thể tự mình phát hiện ra vấn đề và tự mình đề
ra cách giải quyết dưới sự hướng dẫn của GV. Từ đó học sinh
có thể bổ sung kiến thức cho chính bản thân mình, hoàn thiện
những phẩm chất và năng lực cho chính mình.
Để sử dụng PPTLN trong dạy học phần “Công dân với
đạo đức” đạt hiệu quả, rất cần đến vai trò thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn và giám sát của giáo viên trong các hoạt động thảo
luận để giúp học sinh thực hiện tốt vai trò của mình là tự lực,
chủ động chiếm lĩnh các nội dung học tập. Hoạt động giữa

thầy và trò tương tác với nhau, cùng vận động song hành để đi
tới sự hoàn thiện của tri thức.
Vì vậy, quá trình vận dụng PPTLN trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” phải đảm bảo nguyên tắc phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động của người học với vai trò chủ
đạo của người thầy. Phải làm sao cho vai trò của người thầy
kết hợp nhịp nhàng, hài hòa với tính tích cực, chủ động và


sáng tạo của trò khi tham gia hoạt động nhóm, thảo luận
nhóm.
- Những biện pháp sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo
dục công dân lớp 10 ở trường THPT chuyên Lương Văn
Chánh, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
- Chuẩn bị tốt bài giảng sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
Giáo dục công dân lớp 10
Để chuẩn bị tốt bài giảng sử dụng PPTLN trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức”, GV cần phải thực hiện tốt
những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, GV cần phải có sự chuẩn bị chu đáo trong việc
thiết kế, lựa chọn các chủ đề và các hình thức thảo luận theo
nhóm cho phù hợp.
Trong quá trình xây dựng, thiết kế bài giảng phần “Công
dân với đạo đức”, GV phải hết sức chủ động trong việc thiết
kế, xây dựng và lựa chọn các chủ đề đưa ra thảo luận. Nếu
như trước đây, quá trình thảo luận thường được tổ chức thành
một buổi riêng biệt với buổi giảng bài thì hiện nay hình thức
thảo luận có thể thực hiện thường xuyên trong từng bài giảng.



Vì vậy, giáo viên cần phải chủ động lựa chọn những chủ đề
nào để đưa ra thảo luận trong mỗi bài giảng. Những vấn đề,
chủ đề của phần học “Công dân với đạo đức” được giáo viên
lựa chọn đưa ra thảo luận phải đảm bảo được những yêu cầu
sau:
Một là, vấn đề, chủ đề đưa ra thảo luận phải phong phú,
mạch lạc, rõ ràng.
Hai là, vấn đề, chủ đề đưa ra thảo luận phải phù hợp với
mục tiêu học tập đang phải thực hiện trong bài học đó.
Ba là, vấn đề, chủ đề thảo luận phải mang tính gợi mở
để học sinh giải quyết dưới nhiều hướng khác nhau nhằm kích
thích tư duy, óc sáng tạo của HS trong việc giải quyết các vấn
đề thảo luận.
Bốn là, vấn đề, chủ đề thảo luận phải chứa đựng mâu
thuẫn và mang tính thực tiễn cao, có tính thời sự và đặc biệt là
phải có liên quan đến nội dung của bài học. Đây là phần học
có đặc thù là những kiến thức rất gần gũi với cuộc sống và lứa
tuổi của các em và các em thường xuyên gặp phải trong thực
tế học tập và làm việc của mình. Vì vậy, việc lựa chọn chủ đề,
lựa chọn các vấn đề thảo luận của giáo viên phải làm sao cho
bài giảng của mình không những làm rõ nội dung lí thuyết mà
còn phải mang hơi thở cuộc sống, phải gắn liền với thực tiễn
sinh động của cuộc sống, góp phần thực hiện nguyên lí giáo


dục: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” [6; 44].
Để quá trình hoạt động nhóm mang lại hiệu quả thì GV

phải cung cấp cho HS tài liệu, đồng thời hướng dẫn HS đọc
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo từ trước và hướng dẫn cho
học sinh tự tìm tài liệu liên quan đến những nội dung mà GV
yêu cầu HS thảo luận. Hoạt động nhóm chỉ đạt được kết quả
cao nếu học sinh trước đó đã có sự chuẩn bị. Nếu tiến hành
thảo luận mà học sinh chưa được trang bị một chút kiến thức
nào về vấn đề đó thì quá trình thảo luận sẽ không có kết quả.
Khi đưa ra chủ đề để học sinh thảo luận, điều đầu tiên là
giáo viên cần phải tự mình đánh giá xem liệu chủ đề thảo luận
đó có thể thực hiện được bằng phương pháp thảo luận nhóm
hay không? Có đảm bảo mục tiêu của phần học, bài học và có
khả năng xảy ra những “tranh cãi” hay không? Có đủ cơ sở đi
đến thống nhất hay không? Có thực sự mang lại niềm tin, sự
hứng khởi, hấp dẫn ở thái độ của các em đối với môn học hay
không? Có thực sự đem lại những lợi ích trong học tập hay
không?... Nếu tất cả đều có câu trả lời là có thì có thể thực
hiện thảo luận. Và khi đó, buổi thảo luận mới mang lại hiệu
quả cao, phát huy được những ưu thế nổi trội của hình thức
hoạt động theo nhóm.


Khi xây dựng các vấn đề, chủ đề thảo luận, giáo viên cần
phải dựa trên cơ sở nội dung và mục tiêu của phần học. Đó là
các mục tiêu mà sau khi học xong phần học này học sinh phải
đạt được các mức độ về kiến thức, kĩ năng và thái độ, tư
tưởng, tình cảm. Vấn đề, chủ đề thảo luận dù nội dung phong
phú, đa dạng như thế nào đi chăng nữa thì cũng phải bám sát
và không được xa rời nội dung và mục tiêu của phần học.
Trên cơ sở nội dung kiến thức của từng bài học, giáo
viên có thể xậy dựng các bài tập nhận thức, thiết kế những câu

hỏi có độ phân hóa cao nhằm nâng cao tư duy logic của HS
thông qua việc thảo luận nhóm. Do đó, giáo viên phải có khả
năng thiết kế, xây dựng các nhiệm vụ học tập thể hiện dưới
dạng các bài tập, các vấn đề, các tình huống thực tiễn. Vì vậy,
đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư, nghiên cứu trong
việc xây dựng hệ thống các câu hỏi, các chủ đề, các nhiệm vụ
học tập nhằm tạo nên sự hứng khởi, thích thú, tìm hiểu nội
dung của môn học.
Các vấn đề, chủ đề của phần học đưa ra thảo luận phải
tương đối phức tạp và có độ khó nhất định đối với đa số học
sinh trong lớp, những vấn đề mà học sinh còn có nhiều cách
hiểu và ý kiến khác nhau, để các em tranh luận, thảo luận, huy
động tất cả vốn kinh nghiệm sống (dù còn ít ỏi) và sự hiểu


biết của mình, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau giải quyết
các vấn đề, chủ đề học tập. Nhờ đó mà thế mạnh của dạy học
bằng PPTLN sẽ được phát huy, học sinh sẽ trở thành những
thành viên năng động, tích cực, cởi mở và hợp tác tốt với
đồng nghiệp trong tập thể lao động sau này.
Các vấn đề, chủ đề đưa ra thảo luận phải hấp dẫn, phải
tạo được sự hứng thú, kích thích sự tham gia và rèn luyện
được kỹ năng cho HS khi các em hoàn thành các vấn đề, chủ
đề thảo luận. Các vấn đề, chủ đề thảo luận phải phù hợp với
nội dung bài học, phải sát với đối tượng học sinh cả về trình
độ và năng lực.
Thứ hai, thành lập nhóm thảo luận
Để tổ chức tốt bài dạy có sử dụng PPTLN thì điều trước
tiên giáo viên phải chia nhóm sao cho khoa học, hiệu quả. Có
nhiều phương pháp để chia nhóm, phân chia học sinh vào các

nhóm thảo luận. Có thể theo số thứ tự điểm danh, theo giới
tính, theo vị trí ngồi; có thể sắp xếp nhóm ngẫu nhiên, sắp xếp
các nhóm đã thân nhau từ trước, sắp xếp các nhóm theo học
lực hay kinh nghiệm, sắp xếp nhóm có chủ ý và xếp nhóm
ngồi gần nhau. Tuy nhiên vấn đề quan trọng ở đây không phải


là ở cách chia nhóm mà vấn đề ở đây là chia nhóm như thế
nào cho phù hợp, xếp nhóm thảo luận với quy mô bao nhiêu
học sinh là vừa đủ, hình thức làm việc theo nhóm như thế nào
là hiệu quả? Câu trả lời là tùy thuộc vào nội dung dạy học và
thiết kế hoạt động mà giáo viên muốn tổ chức cho các em
thực hiện thảo luận. Quy mô của nhóm thảo luận có thể lớn
hoặc nhỏ, tùy theo nội dung mà các em học sinh thảo luận.
Tức là việc phân chia nhóm thảo luận của học sinh phải dựa
vào nội dung bài học, nhiệm vụ học tập, đối tượng người học
và điều kiện tổ chức dạy học của giáo viên và nhà trường. Đối
với trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, số lượng HS của
mỗi lớp chuyên là không nhiều khoảng 38 học sinh trên một
lớp trở lại. Số lượng và trình độ của học sinh các lớp cũng có
sự khác nhau. Vì vậy, GV có thể linh hoạt chia nhóm thảo
luận tùy thuộc vào điều kiện học tập của từng lớp sao cho phù
hợp. Theo chúng tôi, số lượng học sinh của các nhóm thảo
luận không nên quá đông nhằm hạn chế đến mức thấp nhất
tình trạng thường xảy ra trong khi thảo luận mà ta thường gọi
là hiện tượng “người ngoài cuộc”. Quy mô nhóm thảo luận từ
7- 9 học sinh là tốt nhất và phù hợp nhất, bởi lẻ: số lượng HS
như vậy vừa đủ nhỏ để đảm bảo rằng tất cả học sinh trong



×